Nghiên cứu một cách nghiêm túc và sáng tạo về phạm trù công bằng xã hội được vận dụng
trong bối cảnh cụ thể nước ta hiện nay để góp phần kiến nghị những kiến giải có cơ sở khoa học
cho việc thực hiện công bằng xã hội - khát vọng cháy bỏng của mọi tầng lớp nhân dân, đó là nhiệm
vụ rất nặng nề song cũng rất cao cả của Xã hội học.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp cận xã hội học về công bằng xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 2 (58), 1997 3
Tiếp cận X∙ hội học về công bằng x∙ hội
T−ơng Lai
Công bằng xã hội, −ớc mơ ngàn đời của nhân loại, là một phạm trù cơ bản trong tri thức Xã
hội học. Từ lý t−ởng “đại đồng” của thời cổ đại Trung Hoa, đến mục tiêu “làm theo năng lực, h−ởng
theo nhu cầu” của lý t−ởng cộng sản, loài ng−ời trải qua biết bao tìm tòi thử nghiệm. Không chỉ
bằng mồ hôi, n−ớc mắt mà bằng cả núi x−ơng, sông máu để thực hiện khát vọng cao cả đó.
Cho đến thời đại chúng ta đang sống hiện nay, cuộc tìm tòi, thử nghiệm con đ−ờng phát
triển đi tới khát vọng đó vẫn đang là một nỗ lực liên tục. Là một bộ môn khoa học đ−ợc hình thành
từ nhu cầu nóng bỏng của xã hội, từ xã hội nông nghiệp chuyển sang xã hội công nghiệp, phơi bày
đầy rẫy những nghịch lý mà vấn đề nổi cộm vẫn là sự bất công xã hội, xã hội học cố gắng phân tích
lý giải hiện thực đó.
Các mô hình phát triển trên thế giới trong nhiều thập kỷ qua của thế kỷ 20, đặc biệt là sau
cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất rồi lần thứ hai, xét đến cùng đều xoay hai vấn đề cơ bản mà
Xã hội học cũng nh− nhiều ngành khoa học khác đang cố gắng tìm ra lời giải đáp: mối quan hệ
giữa tăng tr−ởng kinh tế và công bằng xã hội.
Sau thất bại của mô hình Xô Viết ng−ời ta nói nhiều đến mô hình Bắc Âu, đặc biệt là Thụy
Điển, nơi mà sự kết hợp giữa tăng tr−ởng kinh tế và công bằng xã hội đạt đ−ợc nhiều thành tựu
nổi bật. ấy thế mà rồi cũng một thời gian, Đảng Xã hội Dân chủ Thụy Điển phải nếm mùi thất bại
vì sự hài hòa giữa hai mục tiêu trên bị phá vỡ. “Nhà n−ớc phúc lợi” quá nhấn mạnh về công bằng
xã hội, hình thành hệ thống phúc lợi xã hội rất hoàn chỉnh, song trong chừng mực nào đấy, lại tạo
ra những tâm lý ỷ lại, hạn chế tính năng động và ý thức trách nhiệm cao của cá nhân công dân -
Điều ấy có tác động đến động lực của sản xuất, làm giảm tốc độ tăng tr−ởng kinh tế - Gần đây, với
những điều chỉnh lớn về mặt đ−ờng lối và sách l−ợc, Đảng Xã hội Dân chủ Thụy Điển giành lại
đ−ợc vị thế của mình, song Bắc Âu vẫn đang trên con đ−ờng tìm tòi một mô hình mới của sự phát
triển bền vững. Trở ngại phải v−ợt qua còn quá lớn.
Trong lúc đó, “chủ nghĩa tân tự do hiện đại” đ−ợc áp dụng ở một số n−ớc Âu, Mỹ đang vấp
phải những nghịch lý không v−ợt qua nổi khi quá nhấn mạnh đến mục tiêu tự do cá nhân đ−ợc
nhìn nhận nh− là động lực chủ yếu thúc đẩy sự tăng tr−ởng kinh tế mà coi nhẹ vấn đề công bằng
xã hội - “Chủ nghĩa Tân tự do hiện đại” đang thất bại bởi lẽ, sự phát triển của các “trào l−u Cổ
điển và Tân cổ điển” nhấn mạnh một chiều đến tự do cá nhân để thúc đẩy tăng tr−ởng kinh tế, cho
rằng chỉ khi nào đạt tới một trình độ kinh tế cao, thì mới có điều kiện để thực hiện công bằng xã
hội - Họ cho rằng muốn có tăng tr−ởng kinh tế thì phải bớt công bằng xã hội đi. Luận điểm ấy đã
thực sự bị phá sản vì nó không tạo ra đ−ợc sự ổn định xã hội.
Cuộc bầu cử ở Anh, rồi ở Pháp vừa qua với thắng lợi của Công Đảng Anh và Đảng Xã hội
Pháp, đã cho thấy mục tiêu xã hội là một nhân tố hấp dẫn trong cuộc vận động tranh cử và đáp
ứng đ−ợc đòi hỏi của đông đảo cử tri. Nền kinh tế Anh d−ới thời thủ t−ớng John Major đạt đ−ợc
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Tiếp cận xã hội học về công bằng xã hội 4
nhiều thành tựu nổi bật, song cử tri Anh đã không hài lòng về những chính sách xã hội. Sự thất
bại của Thủ t−ớng Alain Juppé trong những khía cạnh nào đó, cũng có nguyên nhân t−ơng tự.
Những ví dụ dẫn ra ở trên cũng chỉ để khẳng định lại một vấn đề lý luận đang còn nhiều
tranh cãi và một vấn đề thực tiễn đang qua nhiều trải nghiệm. Mô hình phát triển bền vững của
một quốc gia đòi hỏi phải lý giải thật thỏa đáng bài toán kinh tế và xã hội. Tìm ra mô hình phát
triển, đó thật sự là một quá trình tìm tòi khoa học mà biết bao khối óc lớn của nhân loại đã dày
công suy t−, thử nghiệm. Ngay cả mô hình Xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang h−ớng tới cũng
đang đòi hỏi những nghiên cứu nghiêm túc để nhận thức cho đầy đủ về những luận điểm cơ bản
của học thuyết Marx để vận dụng sáng tạo trong bối cảnh của thời đại hiện nay. Bởi lẽ “trong lịch
sử ch−a có một mô hình xã hội chủ nghĩa nào, thậm chí những nhà sáng lập học thuyết Mác Lê nin
cũng ch−a bao giờ đề ra một định nghĩa có tính chất hình mẫu về chủ nghĩa Xã hội khoa học,
chính khoa học là ở chỗ đó”1
Cho đến hiện nay, ở các n−ớc phát triển hay các n−ớc đang phát triển, vẫn đang phải đ−ơng
đầu với sự nghèo khổ và sự bất bình đẳng xã hội ở những mức độ khác nhau. Có một thực tế là,
trên một tỉ ng−ời hiện đang phải sống trong sự đói nghèo. Sự cách biệt giữa giàu và nghèo đang
ngày một trầm trọng, trong đó nạn nhân của sự cách biệt này tr−ớc hết phải kể đến là phụ nữ và
trẻ em.
Có một nghịch lý vẫn đang diễn ra, tiến bộ kỹ thuật, một mặt tạo ra những tiến bộ trong
sản xuất, tạo ra những loại việc làm mới, nh−ng mặt khác cũng lại tạo ra sự thất nghiệp mới vì số
ng−ời không đáp ứng đòi hỏi công nghệ mới ngày càng tăng lên. Trong đó, có cả những công nhân
lành nghề phải làm những công việc d−ới mức trình độ lành nghề của họ và bị trả l−ơng thấp.
Đồng thời lại có rất nhiều ng−ời bị gạt ra khỏi guồng máy công nghệ mới. ở nhiều n−ớc, tỷ lệ ng−ời
thất nghiệp đã lên đến mức kỷ lục!
Trong khi ở nhiều nơi, thu nhập tính theo đầu ng−ời đã cao hơn tr−ớc rất nhiều, song rất
nhiều tệ nạn xã hội vẫn gia tăng, trong khi trên lĩnh vực y tế đã đạt đ−ợc những thành tựu to lớn,
thì hàng triệu con ng−ời vẫn phải chết vì những căn bệnh mà ng−ời ta có thể phòng tránh hoặc
chạy chữa!
Cũng chính vì thế, ng−ời ta đã chua chát mà thừa nhận rằng, những thập kỷ cuối cùng của
thế kỷ 20 chuẩn bị b−ớc vào thế kỷ 21 đ−ợc đánh dấu bằng sự tăng tr−ởng kinh tế làm gia tăng
đáng kể nguồn của cải của thế giới, song sự cải thiện về mặt xã hội thì còn quá ít ỏi, tạo nên sự
mất cân bằng trong phát triển, mà tệ hại nhất là sự lọai trừ xã hội (tức là một khối l−ợng không
nhỏ những ng−ời lao động mất việc, những ng−ời nghèo, bị gạt ra khỏi hệ thống bảo trợ xã hội).
Có thể nói rằng quan điểm nhân quả một chiều của chủ nghĩa Tân tự do, hay là quan điểm
nhân quả - quả nhân hai chiều của Xã hội Dân chủ ch−a giải quyết đ−ợc một cách cơ bản vấn đề
công bằng xã hội trong thế giới hiện đại.
Ng−ợc dòng lịch sử, các nhà t− t−ởng lớn của loài ng−ời từ Platon, Aristote, rồi các nhà khai
sáng của “thế kỷ ánh sáng” cho đến Kant rồi Hégel... đều đã cố gắng đ−a ra những kiến giải về
công bằng xã hội. Cho đến Karl Marx, ng−ời sáng lập ra Chủ nghĩa Xã hội Khoa học đã đ−a ra
những kiến giải triệt để nhất nhằm thực hiện sự công bằng xã hội theo quan điểm Mác xít, “làm
theo năng lực, h−ởng theo lao động” của giai đoạn đầu trong quá trình tiến tới chủ nghĩa cộng
sản và “làm theo năng lực, h−ởng theo nhu cầu” của xã hội cộng sản. Đó là định h−ớng cơ bản
1 Phạm Văn Đồng : “Văn hóa và Đổi Mới”. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội - 1994. Tr.109 (ng−ời trích nhấn mạnh).
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
T−ơng Lai 5
cho cuộc phấn đấu của chúng ta hôm nay mà mục tiêu tr−ớc mắt là “dân giàu n−ớc mạnh xã
hội công bằng và văn minh”
Trong quá trình phấn đấu theo định h−ớng đó, chúng ta ngày càng hiểu rõ rằng, để thực
hiện đ−ợc nguyên tắc “làm theo năng lực, h−ởng theo lao động” hiện vẫn còn phải gặp không
ít những nghịch lý, những trở ngại, chính vì thế sẽ là một qũang đ−ờng dài lâu mới có thể tiến tới
có đ−ợc điều kiện để thực hiện mục tiêu “làm theo năng lực, h−ởng theo nhu cầu”.
Phạm Văn Đồng đã từng viết rằng “Từ xa x−a lịch sử là một. Ngày nay, lịch sử càng là một,
vì không gian không phải là sự cách biệt, trái lại là sự gặp nhau...Khúc ca khải hoàn chung cuộc
là khẳng định quyền làm chủ của con ng−ời, làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản
thân, thực hiện mục tiêu vĩ đại: sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi ng−ời là điều kiện của sự
phát triển tự do và toàn diện của mọi ng−ời”1
Cuộc phấn đấu cho “khúc khải hoàn chung cuộc” đó chính là cuộc phấn đấu từng b−ớc
thực hiện sự kết hợp hài hòa giữa tăng tr−ởng kinh tế và công bằng xã hội của một cuộc sống văn
minh mà nhân dân ta đang h−ớng tới theo lý t−ởng Xã hội Chủ nghĩa. Chỉ có thể có phát triển bền
vững khi có sự giải quyết thỏa đáng mối t−ơng tác biện chứng giữa tăng tr−ởng kinh tế và công
bằng xã hội - Mà phát triển bền vững, xét đến cùng là để phục vụ con ng−ời. Cũng chính vì thế
mục tiêu cao nhất của sự phát triển là phát triển con ng−ời. Chúng ta đã từng trải nghiệm qua
mô hình của xã hội chủ nghĩa kiểu cũ, và đã nhận ra đó lại là “mô hình xa lạ với chủ nghĩa xã
hội”2 Từ bỏ mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp làm ngừng trệ động lực sản xuất,
chúng ta b−ớc vào cơ chế thị tr−ờng của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần để cố tìm ra động
lực cho sự tăng tr−ởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Chúng ta vẫn đang còn bỡ ngỡ tr−ớc cơ chế thị
tr−ờng đó.
Ai đó đã nói rất hay rằng “Chúng tôi nghĩ một cách đơn giản rằng chính các thị tr−ờng phải
phục vụ con ng−ời chứ không phải ng−ợc lại”3
Trong cơ chế thị tr−ờng của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự qủan lý của Nhà
n−ớc theo định h−ớng Xã hội chủ nghĩa của chúng ta hôm nay, công bằng xã hội cần đ−ợc hiểu
theo nghĩa là một giá trị định h−ớng để con ng−ời có thể đạt đ−ợc những nhu cầu cơ bản về đời
sống vật chất và đời sống tinh thần trong mối quan hệ t−ơng đối hợp lý giữa cá nhân và xã hội,
t−ơng thích với trình độ kinh tế mà xã hội đạt đ−ợc.
Nền kinh tế thị tr−ờng mà chúng ta đang cố gắng tạo ra chính là một nền kinh tế h−ớng
đến việc tăng tr−ởng nhanh đều, bền vững. Trong đó, hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội đều cao,
vừa có tự do cá nhân vừa có công bằng xã hội, do vừa có cạnh tranh và kích thích thị tr−ờng vừa có
đoàn kết và hòa hợp dân tộc nhằm tạo ra một hợp lực đ−a đất n−ớc tiến nhanh về phía tr−ớc. Hợp
lực đó tạo nên một sự đồng thuận xã hội mới trên một chất l−ợng mới mà những nét cơ bản có thể
thấy đ−ợc là: hết sức coi trọng tài năng và lợi ích của cá nhân để do đó mà cực kỳ coi trọng sức
mạnh của cộng đồng, tôn vinh cá nhân nh−ng không rơi vào chủ nghĩa vị kỷ, phát huy cộng đồng
mà không hòa tan cá nhân vào trong cộng đồng.
1 Phạm Văn Đồng : “Hồ Chí Minh và con ng−ời Việt Nam trên con đ−ờng dân giàu n−ớc mạnh” Nxb Chính trị Quốc gia.
Hà Nội - 1993. Tr.8.
2 Phạm Văn Đồng : Sách đã dẫn. Tr. 77.
3 John Smith. Dẫn lại theo : XX Congrès de l`International Socialiste 9/11 Septembre 1996 - Siege des Nations. New York -
10/1996
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Tiếp cận xã hội học về công bằng xã hội 6
Nói cách khác, chúng ta vận dụng kinh tế thị tr−ờng với quan niệm “thị tr−ờng không có gì
khác hơn là một mạng l−ới trao đổi, một tổng đài, thông qua đó mà hàng hóa và dịch vụ, giống
nh− tin tức đ−ợc truyền đến nơi có nhu cầu... Chính sự hiện hữu của thị tr−ờng khuyến khích sự
phân chia lao động nhiều hơn và dẫn tới sản xuất tăng rõ rệt. Một quy trình tự khuyếch đại đã
đ−ợc làm cho chuyển động”1
Quy trình tự khuyếch đại đã đ−ợc làm cho chuyển động ấy, xét đến cùng, là phát huy
đến mức cao nhất tính năng động của cá nhân, cộng đồng và xã hội (cộng đồng đ−ợc hiểu
theo nghĩa là nhóm xã hội trong thuật ngữ Xã hội học). Đó là quy trình làm cho tiềm năng (bao
gồm cả trí tuệ, năng khiếu và thể chất) của con ng−ời đ−ợc bộc lộ, đ−ợc rèn luyện và phát huy
xứng đáng với phẩm chất của con ng−ời.
Phẩm chất Ng−ời, ở đây tôi hiểu là Nhân cách và Nhân phẩm, là một quá trình đ−ợc
hình thành liên tục và không đứt đoạn để cho mỗi cá thể với t− cách là một thành viên xã hội trở
thành một cá nhân với t− cách là chủ thể hoạt động của xã hội.
Con ng−ời, trực tiếp là một thực thể tự nhiên, nh−ng bằng hoạt động thực tiễn, con ng−ời
trở thành chính mình. Là sản phẩm của tự nhiên và của xã hội, con ng−ời không chỉ thích ứng với
tự nhiên mà còn cải tạo chúng. Quá trình con ng−ời thích ứng với tự nhiên và cải tạo xã hội là quá
trình con ng−ời hoàn thiện bản thân mình. Đ−ơng nhiên, càng ngày chúng ta càng cảm nhận một
cách sâu sắc mệnh đề của Roger Bacon; nhà Triết học thế kỷ 13 “Muốn làm chủ thiên nhiên phải
vâng theo lời nó”. ý t−ởng của nhà khoa học và là nhà tiên tri này đ−ợc đ−a ra khi môn sinh thái
học ch−a hình thành.
Tự nhiên, xã hội, con ng−ời là thể hoàn chỉnh hợp thành thế giới của con ng−ời. Trong thể
hoàn chỉnh ấy, con ng−ời là trung tâm và là lý do tồn tại của các mối quan hệ, đặc biệt là quan hệ
xã hội. Xã hội học, khi cố gắng tìm ra kiến giải cho phạm trù công bằng xã hội, đã theo h−ớng
tiếp cận từ mối quan hệ xã hội đó.
Chính vì thế, chỉ có thể hiểu nội dung của phạm trù công bằng xã hội mà chúng ta đang
phấn đấu thực hiện khi đặt nó vào trong mối quan hệ xã hội đ−ợc hình thành trong sự nghiệp Đổi
Mới hiện nay, cũng có nghĩa là phải xuất phát từ thực trạng của xã hội Việt Nam hôm nay. Tr−ớc
hết, phải hiểu rõ cái cơ cấu xã hội Việt Nam đang vừa là kết qủa, vừa là nguyên nhân của
những chuyển đổi về kinh tế mà chúng ta đã tạo ra trong sự nghiệp Đổi Mới khởi đầu từ Đại hội
VI của Đảng. Không đặt phạm trù công bằng xã hội vào trong mối quan hệ xã hội, mà tr−ớc
hết là trong cái cơ cấu xã hội hiện tồn, đang vận động và đang chuyển đổi, thì không thể tìm ra lời
giải tối −u cho bài toán hóc búa mà loài ng−ời luôn luôn trăn trở!
Công bằng xã hội chính là sự ứng xử hợp lý nhằm điều hòa các mối quan hệ xã hội, đặc
biệt là trong việc tạo ra cơ hội đồng đều cho các cá nhân, các nhóm xã hội trong quá trình tìm
kiếm lợi ích và sự thăng tiến xã hội. Công bằng trong sự phân phối của cải xã hội phù hợp với
nguyên tắc của cống hiến và h−ởng thụ đồng thời có sự điều hòa lợi ích giữa các nhóm xã hội
nhằm tạo ra đ−ợc sự ổn định xã hội để phát triển. Ngần ấy nội dung cùng đ−ợc đặt ra trong bài
toán của sự phát triển.
Khi nói cơ hội đồng đều chúng ta không quên quy luật phát triển không đều của tự nhiên
và của xã hội.
1 A.Toffler : ”Làn sóng thứ ba”. Nxb Thông tin lý luận. Hà Nội - 1992. Tr. 32,33.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
T−ơng Lai 7
Raymond Aron có lý khi ông phân tích t− t−ởng và lý thuyết của Max Weber về công bằng
xã hội. Ông viết :”Đối với Max Weber, lý thuyết về công bằng bao hàm một antinomi (sự tự mâu
thuẫn?) căn bản. Con ng−ời vốn có những khả năng không đồng đều về mặt chỉnh thể, trí tuệ và
đạo đức. Có một cuộc xổ số di truyền (loterie génétique) ở điểm xuất phát của sự sinh tồn của con
ng−ời: những gien mà mỗi ng−ời chúng ta nhận đ−ợc, đều là kết quả, theo nghĩa riêng của thuật
ngữ, của một xác suất. Vì sự không đồng đều là hiện t−ợng tự nhiên và đầu tiên, cho nên ng−ời ta
có thể hoặc là có khuynh h−ớng xóa bỏ bất bình đẳng tự nhiên bằng một cố gắng xã hội, hoặc là
ng−ợc lại, có khuynh h−ớng tặng th−ởng cho mỗi ng−ời tùy theo các phẩm chất của họ”1
Do vậy, sự quản lý của Nhà n−ớc theo định h−ớng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị tr−ờng, chính là từ sự nhận thức về quy luật phát
triển không đều của tự nhiên và xã hội ấy mà tìm ra những giải pháp tối −u nhằm hạn chế ở mức
thấp nhất sự bất bình đẳng về cơ hội cho sự thăng tiến của mỗi cá nhân, mỗi nhóm xã hội - Cố
gắng tạo ra cơ hội, song sự khai thác cơ may và vận hội đ−ợc đến đâu thì lại tùy thuộc vào điều
kiện và sự nỗ lực của các chủ thể hoạt động xã hội. Công bằng xã hội khác chủ nghĩa bình
quân chủ yếu là ở chỗ đó.
B−ớc vào cơ chế thị tr−ờng của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chúng ta đang cố
gắng hình thành sự phân công lao động mới nhằm tạo ra một năng suất cao, đ−a nền kinh tế của
n−ớc ta tăng tr−ởng cao và liên tục để có thể nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, rút ngắn
dần khoảng cách giữa kinh tế n−ớc ta với khu vực và thế giới, nhất là khi chúng ta đang từng b−ớc
hội nhập với khu vực và thế giới. Trong quá trình chuyển đổi cấu trúc của nền kinh tế và xã hội,
tr−ớc hết là chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thì vẫn đề chuyển dịch lao động phải diễn ra với tốc độ
nhanh và liên tục.
Sự phân công lao động xã hội, sự dịch chuyển lao động ấy đang diễn ra trong điều kiện thực
tế là mọi ng−ời không có cùng một năng lực một trình độ, một hoàn cảnh giống nhau, hơn nữa
năng khiếu và cơ may của từng ng−ời rất khác nhau. Sự bất bình đẳng xã hội, vì vậy, vẫn còn tồn
tại một khi những điều kiện nói trên ch−a thay đổi.
Karl Marx đã từng nói rõ về sự phát triển một thang bậc các sức lao động với một
thang tiền công phù hợp với nó khi phân tích về hai hình thức cơ bản của công tr−ờng thủ công.
Chính Marx đã từng l−u ý hiện t−ợng “bên cạnh các bậc thang đẳng cấp ấy là một sự phân
chia giản đơn những ng−ời lao động thành những ng−ời lao động thành thạo và những
ng−ời lao động không thành thạo” 2
Chính “sự phát tiển một thang bậc các sức lao động, với một thang tiền công phù hợp với nó”
đòi hỏi phải nhìn nhận vấn đề công bằng xã hội trên quan điểm Mácxít về cống hiến và h−ởng
thụ. Do vậy, công bằng xã hội theo quan điểm của chúng ta, không có gì giống với chủ nghĩa
bình quân cào bằng mọi trình độ khác nhau của sức lao động và kiểu loại lao động. Chính chủ
nghĩa bình quân ấy đã làm triệt tiêu dần động lực của sản xuất, tăng tr−ởng kinh tế và tiến bộ xã
hội.
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, càng đặc biệt phải coi trọng
chất l−ợng lao động, các kiểu loại lao động bậc cao và lành nghề thích ứng với công nghệ mới. Hơn
nữa, một khi mà sự nghiệp công nghiệp hóa đang đòi hỏi chúng ta phải tiếp nhận và sử dụng
1 Raymond Aron : “Les étapes de la pensée sociologique”. Galimard 1967
2 C.Mác & Ph.Ăngghen toàn tập. Tập 23. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội -1993. Tr. 508&509
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Tiếp cận xã hội học về công bằng xã hội 8
những công nghệ bậc cao, làm giảm tiêu hao vật chất, loại công nghệ chứa nhiều hàm l−ợng chất
xám nhằm tạo nên một b−ớc phát triển mới về chất l−ợng của sản phẩm thì sự vận dụng đầy đủ
mối quan hệ giữa cống hiến và h−ởng thụ để tạo ra một sự công bằng xã hội đúng đắn đang là
một vấn đề có ý nghĩa kinh tế, xã hội, văn hóa lớn lao.
Để tạo ra những sản phẩm có chất l−ợng cao và giá thành rẻ thì lại càng đặc biệt coi trọng
hàm l−ợng trí tuệ trong qúa trình sản xuất nhằm nâng cao tỷ suất giữa giá trị gia tăng so với vốn
bỏ ra. Ng−ời ta ngày càng chú trọng đến một nền văn minh doanh nghiệp góp phần cấu tạo nên
giá trị xã hội.
Nói đến vốn bỏ ra, cần l−u ý đến sự phân tích của Pierre Bourdieu, nhà Xã hội học Pháp,
khi ông ta đề cập đến ba loại vốn: vốn kinh tế, vốn chính trị (quyền lực) và vốn xã hội. Ba loại vốn
đó, theo P.Bourdieu, không tồn tại biệt lập, mà nó có thể xen kẽ vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau,
từ vốn kinh tế có thể chuyển thành vốn chính trị và ng−ợc lại. Vốn xã hội cũng vậy, có thể khai
thác cái vốn ấy bằng cách tận dụng các quan hệ xã hội để tạo ra vốn kinh tế hoặc vốn chính trị1
“Cơ chế thị tr−ờng” đang tạo ra những tiền đề phát huy những vốn ấy, đặc biệt là sự chuyển
hóa của các loại vốn vừa đề cập đến. Vai trò “quản lý của Nhà n−ớc theo định h−ớng Xã hội
chủ nghĩa” cần phải đ−ợc thể hiện sâu sắc trong hệ thống luật pháp, trong các thiết chế đã có và
cần phải hình thành để điều chỉnh có hiệu quả các tiến trình kinh tế và xã hội. Có nh− vậy mới có
thể có đ−ợc công bằng xã hội mà chúng ta mong muốn trong giai đoạn hiện nay. Cần l−u ý rằng
“trên thực tế, những sự khác nhau về uy thế, về quyền lực và địa vị, giữa các nhóm là hợp lực của
một chỉnh thể, hoặc đúng hơn, của một hệ thống các biến số mà sự cấu tạo và bản thân cơ cấu của
các biến số đó cũng khác nhau từ một hệ thống xã hội này sang một hệ thống xã hội khác. Hệ biến
hóa của thị tr−ờng có lẽ là hệ biến hóa duy nhất có khả năng tham vọng một tính chất chung nhất
định: địa vị, thu nhập, quyền uy, ảnh h−ởng và quyền lực luôn luôn là sự trả công phù hợp với một
yêu cầu xã hội nhất định. Dĩ nhiên, yêu cầu đó phụ thuộc vào các đặc tr−ng của hệ thống trong đó
nó xuất hiện”2
Nền “kinh tế hàng hóa nhiều thành phần” chính là nội dung cơ bản của hệ thống kinh
tế và xã hội đang đ−ợc vận hành trong tiến trình Đổi Mới từ lúc khởi động cho đến hiện nay và từ
nay về sau theo mục tiêu “dân giàu, n−ớc mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Cũng có thể nói
đó là sự khác biệt cơ bản của nền kinh tế xã hội n−ớc ta tr−ớc và sau Đổi Mới.
Từ bỏ mô hình kế hoạch hóa tập trung và bao cấp kéo dài dẫn đến khủng hoảng kinh tế và
xã hội, chúng ta tìm và khởi động nguồn động lực để đẩy mạnh sản xuất và tăng tr−ởng kinh tế từ
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế mới. Quyết sách sáng suốt của
Đại hội VI đã tạo ra một động lực mới, xoay chuyển cục diện, đem lại những thành tựu to lớn cho
đất n−ớc ta, nhân dân ta.
Thành tựu đạt đ−ợc chính là sự tháo gỡ những ách tắc, trói buộc những tiềm năng rất lớn
của dân tộc, giải phóng sức sản xuất, đẩy nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh và liên tục, đặc
biệt là từ những năm 90 trở đi. Phát huy mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế, đòi hỏi sự thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ của mọi thành phần kinh tế ấy đối với sự nghiệp phát triển đất n−ớc chính là
một trong những nội dung cơ bản của công bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay.
1 Xem “Le métier de sociologue” của Piere Bourdieu. Paris - 1968.
2 Raymond Boudon & Francois Bourricand : “Dictionaire critique de la Sociologie”. PUF xuất bản lần thứ ba -
1990.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
T−ơng Lai 9
Có thể nói công bằng xã hội cũng là nguyên tắc cao nhất trong sự cân đối mặt bằng chính
sách xã hội để tạo ra sự hài hòa trong mọi quan hệ xã hội mà tr−ớc hết là quan hệ lợi ích. Mọi
thành phần kinh tế đều bình đẳng tr−ớc pháp luật, cũng chính vì vậy, cần đ−ợc có những cơ hội
nh− nhau về điều kiện và môi tr−ờng đầu t− để phát triển. Nâng cao hơn nữa hiệu quả khu vực
kinh tế nhà n−ớc để làm tốt vai trò chủ đạo trong cơ chế thị tr−ờng trên cơ sở bình đẳng với các
thành phần kinh tế khác chính là tạo những tiền đề hết sức quan trọng để thúc đẩy sự tăng
tr−ởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Nếu công bằng xã hội là một phạm trù diễn đạt mối quan hệ
giữa các thành viên, các nhóm xã hội dựa trên nguyên tắc thống nhất về cống hiến và h−ởng
thụ, thì việc tạo cơ hội nh− nhau cho các thành phần kinh tế để họ có thể đóng góp ngày càng
nhiều cho sự phát triển đất n−ớc chính là biểu hiện sự nhất quán trong t− duy Đổi Mới đ−ợc phản
ánh trong chính sách và trong chỉ đạo thực hiện.
Cùng với nội dung cơ bản đó, giải quyết tốt mối quan hệ giữa nông thôn và đô thị, giữa các
vùng lãnh thổ, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa cũng là đòi hỏi bức xúc của sự thực hiện công
bằng xã hội trong phát triển.
Mỗi một thành viên xã hội, mỗi cá nhân công dân hay mỗi nhóm xã hội đều đ−ợc đảm bảo
sự tự chủ về đời sống kinh tế, từ sở hữu đến nghề nghiệp. Sở hữu về tài sản, về trí tuệ, về lao động
phải đ−ợc xác định rõ ràng và đ−ợc pháp luật bảo hộ vững chắc, đó là những tiền đề của sự thực
hiện công bằng xã hội mà nhân dân ta đang mong đợi.
Cùng với những điều đó, sự đền ơn đáp nghĩa đối với những ng−òi đã từng bị mất mát, hy
sinh trong chiến tranh nay không có đủ điều kiện để thích nghi với cuộc đua tranh trên thị tr−ờng
cũng nằm trong nội dung của công bằng xã hội. Sự đền đáp đối với các Bà Mẹ Việt Nam anh
hùng, chính sách đối với th−ơng binh và gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, phong
trào xóa đói giảm nghèo.v.v đó là sự vận dụng sáng tạo những giải pháp để thực hiện công bằng xã
hội trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Tóm lại, phạm trù công bằng xã hội hàm chứa trong nó những nội dung liên quan đến tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội... Do vậy, công
bằng xã hội phải đ−ợc giải quyết trên ý t−ởng đúng đắn về xã hội công dân, trong đó, mỗi một
ng−ời dân là một chủ thể tích cực góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất n−ớc, họ không
là ng−ời thụ h−ởng một cách bị động những thành qủa của sự nghiệp Đổi Mới, mà là “đồng tác giả”
của sự nghiệp đó đang đ−ợc đẩy tới trên một trình độ mới. Sự nghiệp xây dựng nhà n−ớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân,vì dân gắn liền nh− bóng với hình với xã hội công
dân đảm bảo quyền làm chủ thật sự của nhân dân, của mỗi cá nhân công dân và của các nhóm xã
hội. Đó là những đảm bảo vững chắc cho việc thực hiện công bằng xã hội ngày càng cao.
Nghiên cứu một cách nghiêm túc và sáng tạo về phạm trù công bằng xã hội đ−ợc vận dụng
trong bối cảnh cụ thể n−ớc ta hiện nay để góp phần kiến nghị những kiến giải có cơ sở khoa học
cho việc thực hiện công bằng xã hội - khát vọng cháy bỏng của mọi tầng lớp nhân dân, đó là nhiệm
vụ rất nặng nề song cũng rất cao cả của Xã hội học.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tiep_can_xa_hoi_hoc_ve_cong_bang_xa_hoi.pdf