1/ Cần thấy giới hạn của các lí thuyết phê bình: cho đến nay, mỗi lí thuyết
đều nhằm nhấn mạnh vào một yếu tố nào đấy của văn học: hoặc nhà văn (phê bình
tiểu sử), hoặc văn bản (cấu trúc luận, phê bình Mới.), hoặc người đọc (lí thuyết
tiếp nhận), hoặc vào môi trường ngoài văn bản (lí luận của Taine, lí luận Macxit.).
Mỗi lí thuyết có một thế mạnh nhất định, song cũng có giới hạn, còn "một phương
pháp tổng hợp còn chưa được tìm ra"( Yu. Tynianov). Chúng ta nên nắm được
nhiều lí thuyết để tuỳ từng trường hợp cụ thể, theo những yêu cầu nghiên cứu nhất
định mà ta sử dụng phương pháp phê bình này hay khác.
2/ Không nên tiếp thu nguyên xi một mô hình lí thuyết nào đấy, rồi sử dụng
các nguyên tắc của nó như một bộ công cụ có sẵn để phê bình văn học dân tộc. Cần
coi các lí thuyết như các kiến thức, như các mách bảo cho nhận thức, kết hợp với
các kiến thức khác và kinh nghiệm để tự thiết lập nên một phương pháp phù hợp
nhất với đối tượng và những mục tiêu đặt ra./.
9 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 521 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp cận văn học Việt Nam từ các lý thuyết phương Tây (kinh nghiệm lịch sử và đường hướng hiện tại), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TIẾP CẬN VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ CÁC LÝ THUYẾT PHƯƠNG TÂY
(KINH NGHIỆM LỊCH SỬ VÀ ĐƯỜNG HƯỚNG HIỆN TẠI)
PGS.TS. Trịnh Bá Đĩnh
Phòng Lý luận, Viện văn học
Từ thập kỉ 80 đến nay, cùng với việc 'mở cửa', với phong trào "Đổi mới",
các lí thuyết văn học phương Tây được giới thiệu ở Việt Nam ngày càng
nhiều, trong đó có những lí thuyết khác, thậm chí đối lập với lí thuyết Macxit
về văn nghệ. Nói chung, cũng như các mặt khác của đời sống xã hội, lí luận
văn học của ta hội nhập dần vào đời sống học thuật quốc tế.
Báo cáo này của tôi giới hạn sự xem xét ở văn học Việt Nam, một phạm vi
rất nhỏ so với chủ đề của cuộc Hội thảo, hơn nữa cũng chỉ về cách đọc văn học,
tức là việc sử dụng những lí thuyết văn học ra đời ở phương Tây trong hoạt động
nghiên cứu, phê bình (từ đây sẽ gọi chung là phê bình) văn học dân
tộc đã và nên như thế nào. Tôi cũng lưu ý nhiều hơn đến các công trình phê
bình Truyện Kiều của Nguyễn Du, một tác phẩm tiền hiện đại được coi là linh hồn
của văn hóa ViệtNam. Lí do là vì Truyện Kiều cho đến hiện nay vẫn là "bãi thử"
của những vũ khí phê bình mới, là "bộ máy" để kiểm tra sức khỏe những vị - khách
- lí - thuyết đến từ phương Tây. Các lí thuyết lớn như phê bình phân tâm học, phê
bình Macxit, cấu trúc luận, thi pháp học đều đã được vận dụng để phân tích
Nguyễn Du và Truyện Kiều. Trong giới phê bình văn học Việt Nam có một định
niệm bất thành văn như sau: Anh sẽ chưa được thừa nhận là nhà phê bình hạng
nhất nếu chưa chứng tỏ khả năng trong phê bình Truyện Kiều. Ba trường hợp tôi
cho là tiêu biêu để phân tích và rút ra kết luận gồm các công trình Nguyễn Du và
Truyện Kiều (1941) của Nguyễn Bách Khoa, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực
của Nguyễn Du (1970) của Lê Đình Kỵ và Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong
truyện Kiều (1985) của Phan Ngọc. Đây chưa hẳn chúng đã là những công trình
xuất sắc nhất về nghiên cứu Truyện Kiều, nhưng với tôi, chúng tiêu biểu cho ba
giai đoạn khác nhau của qúa trình tiếp nhận và vận dụng các lí thuyết văn học
phương Tây để đọc văn học dân tộc, cụ thể là Truyện Kiều của Nguyễn Du [1].
Bây giờ tôi xin đi vào nội dung chính.
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (
2
Phê bình văn học hiện đại Việt Nam mới có cách nay khoảng một thế kỉ, các
bài khảo cứu về thể loại văn học của Phạm Quỳnh như Khảo về tiểu thuyết, Khảo
về phê bình... trên tạp chí Nam Phong (1917 -1934) ghi nhận một thời điểm chắc
chắn sự có mặt của phê bình hiện đại. Có thể nói, phê bình văn học Việt Nam ra
đời cùng với việc đọc văn học theo lối phương Tây, là sự tiếp cận văn chương theo
các lí thuyết văn học của châu Âu thế kỉ XIX. Những cái tên như G. Lanson, H.
Taine, S. Beuve, Plekhanov... không xa lạ gì với các nhà phê bình văn học
ViệtNam ở đầu thế kỉ XX. Lối viết lịch sử văn học kiểu G. Lanson được các trí
thức tây học biết rõ ngay từ trong nhà trường, phê bình tiểu sử của S. Beuve rất
được ưa chuộng và được thực hành qua các công trình của Lê Thước, Trần Thanh
Mại... Tuy nhiên người nổi bật nhất trong số những nhà phê bình vận dụng các lí
thuyết Phương Tây để phê bình văn học ở giai đoạn trước 1945 là Nguyễn Bách
Khoa (Trương Tửu, 1913-1999). Mỗi cuốn sách chuyên khảo của ông là sự vận
dụng một (hay một vài) lí thuyết phê bình phương Tây để phân tích văn học dân
tộc: Nguyễn Du và Truyện Kiều dùng phân tâm học của S. Freud và phê bình văn
hóa - lịch sử của H. Taine, Kinh thi Việt Nam được ông phân tích theo quan điểm tâm
lí cộng đồng, Tâm lí tư tưởng Nguyễn Công Trứ theo quan điểm Macxit và H. Taine...
Nguyễn Bách Khoa đọc rất nhiều các nhà khoa học phương Tây và vận dụng
nhiều lý thuyết vào việc phê bình, không chỉ các lí thuyết văn học mà cả những lí
thuyết khoa học khác: tâm lí học, thần kinh học, xã hội học... Đôi lúc số lượng
trích dẫn lời của các nhà khoa học “kinh điển” có vẻ như quá mức. Ông định danh
cho lối phê bình của mình là "phê bình khoa học" và giải thích rõ: Đó là cách phê
bình trước khi tiếp cận đối tượng đã "có sẵn một hệ thống ý tưởng" (tức một lí
thuyết). Khi nghiên cứu Nguyễn Du cũng như khi nghiên cứu bất kì một sự trạng
văn học nào" cũng theo cách như vậy. Lối phê bình theo lí thuyết này đối lập với
lối phê bình truyền thống: hoặc thiên về cảm thụ chủ quan, hoặc thiên về "phê bình
phù phiếm", như cách nói của ông, tức mô tả tỉ mỉ cái khéo trong việc đặt câu dùng
chữ, tả người... Trong số các lý thuyết thì ba lý thuyết sau đây để lại dấu ấn đậm
nét hơn cả trong các công trình tiêu biểu của Nguyễn Bách Khoa: Thuyết chủng
tộc - địa lý của H. Taine, phân tâm học của S. Freud và học thuyết của K. Marx về
phân chia giai cấp và văn học phản ánh xã hội. Học thuyết của K. Marx được vận
dụng triệt để trong Tâm lí và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1943), hai lý thuyết kia
chủ yếu được vận dụng trong công trình Nguyễn Du và Truyện Kiều (1941). Lí
giải Truyện Kiều theo phân tâm học Freud, Nguyễn Bách Khoa cho rằng sinh lực,
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (
3
lòng ham sống và khí phách cá nhân của Nguyễn Du do di truyền huyết thống và
địa phương tính tạo nên, bị ý thức hệ nho giáo của đẳng cấp nho sĩ mà ông là một
thành viên dồn ép vào tiềm thức. Vì vậy, giữa ý thức hệ và tiềm thức luôn xung đột
nhau và làm nên “tấn bi kịch của tâm hồn” cũng tức là tâm sự sâu thẳm của
Nguyễn Du. Phê bình Truyện Kiều là chỉ ra những biểu hiện của tâm sự sâu thẳm
này trong tác phẩm. Nếu sau này chúng ta có ngành phê bình phân tâm học văn
học (psychoanalytical liteary criticism) thì các tác phẩm của Nguyễn Bách Khoa
phải được xem là những viên gạch đầu tiên.
Nguyễn Bách Khoa còn lí giải Nguyễn Du và văn chương Truyện Kiều theo
quan điểm của nhà phê bình văn học Pháp H. Taine. Trong cuốn La Fontaine và
thơ ngụ ngôn của ông (La Fontaine et ses fables), H.Taine cho rằng có thể qua ba
yếu tố nòigiống, hoàn cảnh địa lí và thời điểm lịch sử nhà văn sống để lí giải mọi
sự bí ẩn của văn chương. Học tập Taine, Nguyễn Bách khoa lí giải rằng chất thơ
hào hùng và trữ tình say đắm trong Truyện Kiều có được là do cá tính Nguyễn Du
được cấu tạo nên bởi hai yếu tố thuộc huyết thống là chí cương cường của người
Nghệ Tĩnh (từ người cha) và tinh thần mẫu hệ của văn hóa Bắc Ninh (từ người
mẹ). Ngoài các lí thuyết văn học ra đời ở thế kỉ XIX nói trên, dường như ông cũng
đã tiếp xúc được với các tài liệu của các lí thuyết văn học đương đại [2].
Phê bình khoa học của Nguyễn Bách Khoa bị phản ứng dữ dội từ các nhà
phê bình theo lối truyền thống, nhất là Hoài Thanh [3]. Bị phê phán mạnh nhất là
quan điểm của Nguyễn Bách Khoa cho rằng “Nguyễn Du là một con bệnh thần
kinh” và "Truyện Kiềulà kết tinh tinh thần của một chặng đường suy đồi nhất trên
tràng kì tiến hóa của cá tính Việt Nam" [4]. Nguyễn Bách Khoa dùng chữ “bệnh
thần kinh” ở đây không phải theo nghĩa thông thường như trong đời sống hàng
ngày người ta vẫn dùng, mà theo nghĩa của khái niệm khoa học - khoa tâm bệnh
học được dùng trong cuốn La personnalité humaine của Marcel Boll. Ông giải
thích rõ, đó là thứ bệnh “thông thường”, “cứ 5 người thì có một người mắc” do “bộ
giao cảm thần kinh không khoẻ khoắn”, do “căn tạng cảm xúc quá độ”
(constitutions morbides) nên tính khí luôn trầm muộn, lo sợ hoảng hốt và mắc
chứng ảo giác (hallucination). Cá tính ấy thể hiện trong văn chương thành “sự rung
động thành thực và mãnh liệt, sự tưởng tượng dồi dào”, sự cảm xúc ủy mị và bi
thương, sự cảm thông với đồng loại đau khổ và thần linh (Nguyễn Du và Truyện
Kiều). Ta không biết chắc chắn la Nguyễn Du có mắc bệnh hay ưu uất (hysterie)
như Nguyễn Bách Khoa nói không, nhưng cách làm của ông rõ ràng là không khoa
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (
4
học: các nhà thần kinh bệnh học đưa ra kết luận về một “con bệnh” nào đó, bao giờ
cũng dựa trên kết quả của một chu trình thực nghiệm lâm sàng, còn ở đây Nguyễn
Bách Khoa lại căn cứ vào văn thơ để chuẩn đoán “bệnh” cho Nguyễn Du. Trong
phê bình văn học, đóng góp của Nguyễn Bách Khoa rất lớn, nhưng cũng dễ chỉ ra
các sai lầm của ông, những sai lầm này có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là ở
việc ông sử dụng lí thuyết phương Tây một cách cứng nhắc, như một bộ công cụ,
bộ "đồ nghề" để làm việc với các hiện tượng văn học Việt Nam, không thấy những
giới hạn của mỗi lí thuyết phê bình. Ngoài ra, có lẽ cũng còn do tư tưởng duy khoa
học quá mức của ông và cảm quan thuộc địa trong phê bình văn học đầu thế kỉ.
Ở thời kì thứ hai của lịch sử phê bình hiện đại Việt Nam (1945-1980) tôi
muốn lưu ý đến nhà phê bình Lê Đình Kỵ với công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực của Nguyễn Du (1970). Thời kì này ở Miền Bắc, rồi sau 1975 là cả nước,
tinh thần chung là chống các "lí thuyết tư sản", phê bình hoàn toàn theo lí luận mĩ
học Macxit được tiếp thu từ Liên xô, đặc biệt là phê bình các phương pháp nghệ
thuật: Phương pháp nghệ thuật cổ điển chủ nghĩa, phương pháp nghệ thuật lãng
mạn chủ nghĩa, phương pháp hiện thực chủ nghĩa, phương pháp hiện thực xã hội
chủ nghĩa... Theo quan điểm ấy, mỗi tác phẩm được sáng tác theo một phương
pháp nghệ thuật nhất định. Truyện Kiều, theo Lê Đình Kỵ, cơ bản là tác phẩm hiện
thực chủ nghĩa (réalisme).
Trong thập kỉ sáu mươi, Lê Đình Kỵ là một hiện tượng nổi bật trong đời
sống lí luận phê bình văn học, người truyền bá tích cực nhất lí thuyết về các
phương pháp nghệ thuật. Ông tham gia dịch nhiều sách lí thuyết văn học bằng
tiếng Nga, là tác giả của Tập IV Các phương pháp nghệ thuật thuộc bộ giáo
trình Những nguyên lí lí luận văn học. Năm 1970 Lê Đình Kỵ cho ra mắt chuyên
khảo nổi tiếng Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, đỉnh cao nhất
trong sự nghiệp phê bình văn học của ông. Là một nhà lí luận văn học, một giáo sư
chuyên giảng các khóa trình về phương pháp nghệ thuật, Lê Đình Kỵ còn (mà có
khi trước hết) là một nhà phê bình rất nhạy cảm đối với cái đẹp văn chương và có
lối văn uyển chuyển lôi cuốn. Về phương diện này, nhiều chỗ cây bút phê bình Lê
Đình Kỵ có thể sánh ngang với Hoài Thanh. Trước một câu thơ tưởng như rất
"bình thường" ông vẫn gọi ra được một ý nghĩa bất ngờ, thú vị. Trong câu thơ của
Nguyễn Du nói về việc Thúy Kiều thoát khỏi lầu xanh Tú Bà để về ở với Thúc
Sinh: Gót tiên thoắt đã thoát vòng trần ai, nhà phê bình nghe thấy "tiếng reo
mừng" của "con người được giải phóng": Câu thơ tả đêm động phòng hoa chúc của
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (
5
Kim-Kiều trong "màn tái hồi": Động phòng dìu dặt chén mồi/ Bâng khuâng duyên
mới ngậm ngùi tình xưa, ông thấy "một không khí chua chát bao trùm", "một cái gì
đổ vỡ không phương cứu chữa" [5]. Những cảm nhận cực tinh tế như vậy về tâm lí
nhân vật, về các thủ pháp nghệ thuật của Nguyễn Du ta có thể gặp khắp nơi trong
công trình này. Chúng đã cứu được cuốn sách khỏi sự tầm thường và lãng quên
như bao công trình phê bình phương pháp sáng tác thời ấy phải đón nhận. Bởi vì
khi lấy cái sơ đồ lí thuyết về văn học hiện thực chủ nghĩa thế kỉ XIX ở phương Tây
áp dụng vào một tác phẩm thời trung đại như cách làm của ông ở đây là không
thích hợp. Trong công trình vẫn thấy những nguyên tắc đánh giá của chủ nghĩa
hiện thực như: miêu tả bức tranh xã hội của thời đại, chi tiết chân thực, hoàn cảnh
điển hình và nhân vật điển hình..., cái khung lí thuyết chung thì vẫn thế, nhưng
luôn có tình trạng "vượt khung" (Trần Đình Sử), vượt khung vì ông say mê cái đẹp
nghệ thuật, coi trọng thực tế tác phẩm, ngưỡng mộ thiên tài Nguyễn Du. Lê Đình
Kỵ áp dụng lí thuyết nhưng không hoàn toàn lấy tác phẩm làm sự minh họa cho lí
thuyết, "không vì lí thuyết mà quên mất thực tiễn" (tác phẩm). Nếu có sự không
tương ứng giữa lí thuyết và tác phẩm, không phải bao giờ ông cũng dễ dàng lựa
chọn lí thuyết. Chẳng hạn cách ông đối xử với đoạn "tái hồi" trong Truện Kiều.
Theo ông dù trái với hiện thực nhưng đọc đến đây người đọc vẫn thấy tin Nguyễn
Du, "người ta vẫn thừa nhận cái tiền đề: cuộc đoàn viên là có khả năng tính". Một
nhà lí luận khi phê phán ông đã nhận định: "Tiếc rằng khi ứng dụng vào thực tế
văn học Việt Nam, tác giả đã không tuân theo những điều (quan điểm lí luận -
TBĐ) mà mình đã công nhận và truyền bá" [6]. Vấn đề Truyện Kiều có phải được
sáng tác theo phương pháp nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa không đã khiến ông đắn
đo rất nhiều. Ông viết hẳn một chương sách rất hay về cái gọi là "Những ràng buộc
của mĩ học đương thời" nhằm chỉ ra những "khiếm khuyết" của phương pháp hiện
thực chủ nghĩa trong Truyện Kiều. Ở đây những phát hiện về cách nhìn và các
nguyên tắc nghệ thuật của văn học cổ điển rất có giá trị. Theo nhà phê bình Huỳnh
Như Phương thì về cuối đời ông muốn đổi tên cuốn sách là Truyện Kiều - đỉnh cao
nghệ thuật. Điều ấy cho thấy ông muốn từ bỏ cái gọi là "chủ nghĩa hiện thực
trongTruyện Kiều".
Như vậy, Lê Đình Kỵ đã không chọn con đường minh họa giản đơn các nguyên tắc
của chủ nghĩa hiện thực được khái quát từ giới làm lí luận nước ngoài và dù ông
chưa làm được cái việc "nhào nặn lại" chúng thì cũng không nhắm mắt tuân theo
chúng. Trường hợp ngược lại ta có thể thấy trong các công trình về chủ nghĩa hiện
thực của Đỗ Đức Dục. Phê bình các tác phẩm của văn học dân tộc như tiểu
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (
6
thuyết Hoàng Lê nhất thống chí (tk. XVIII), thơ Tú Xương (tk.XIX) và nhiều tác
phẩm khác, Đỗ Đức Dục không bao giờ rời xa các nguyên tắc của lí thuyết hiện
thực chủ nghĩa. Kết quả, những công trình ấy giờ ra sao thì chúng ta đã biết. Cần
nói thêm là Đỗ Đức Dục biết rất rõ văn học hiện thực chủ nghĩa phương Tây và các
lí thuyết về nó. Trước năm 1980 việc vận dụng các lí thuyết phương Tây (chưa kể
các thập kỉ 60-70 ở đô thị miền Nam) nói chung là như vậy.
Từ thập kỉ 80 đến nay, cùng với việc 'mở cửa', với phong trào "Đổi mới",
các lí thuyết văn học phương Tây được giới thiệu ở Việt Nam ngày càng nhiều,
trong đó có những lí thuyết khác, thậm chí đối lập với lí thuyết Macxit về văn
nghệ. Nói chung, cũng như các mặt khác của đời sống xã hội, lí luận văn học của ta
hội nhập dần vào đời sống học thuật quốc tế. Có thể nói sơ lược về một vài xu
hướng như sau:
- Xu hướng phê bình ngôn ngữ học: bao gồm nhiều trường phái như cấu trúc
luận, kí hiệu học, tự sự học... Đó là những trường phái lí thuyết văn học tiêu biểu ở
phương Tây thế kỉ XX. Hầu hết chúng đều có xuất phát điểm là vận dụng các quan
điểm và phương pháp nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học như F.de Saussure, L.
Hjelmslev... Từ giữa những năm 80 đã có một số nhà phê bình của ta vận dụng các
lí thuyết đó như của Phan Ngọc: Phong cách của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều (xuất bản năm 1985), Hoàng Trinh: Kí hiệu, nghiên cứu và phê bình văn
học... Những năm gần đây xu hướng này ngày càng phát triển, như các công
trìnhcủa Đỗ Đức Hiểu được tập hợp trong cuốn Thi pháp hiện đại. Lối nghiên cứu văn
học theo tự sự học cũng đang thành một phong trào trong khu vực học viện và các
trường đại học.
- Xu hướng phê bình sự đọc: Bao gồm hiện tượng học, thông diễn luận...
Các công trình giới thiệu những trường phái này cũng đang rất sôi nổi. Từ thập kỉ
80 đã có nhiều bài báo giới thiệu lí thuyết tiếp nhận của Nguyễn Lai, Nguyễn
Thanh Hùng, Trần Đình Sử. Hai tác giả đầu đã có thời gian học tập và nghiên cứu
tại Đức, nơi lí thuyết tiếp nhận rất phát triển. Những năm gần đây, có một số công
trình khoa học đáng chú ý của Trương Đăng Dung. Nói chung, ý nghĩa của sự đọc,
vai trò của người đọc ngày càng được giới phê bình chú ý.
- Xu hướng tâm lí học: Như trên đã nói, trước 1945 ở ta đã có Nguyễn Bách
Khoa áp dụng tâm lí học vào nghiên cứu Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Du. Hai
thập niên vừa qua việc giới thiệu các lí thuyết tâm lí học của Freud, Jung,
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (
7
Vygotski... thu hút được sự chú ý của giới phê bình. Phê bình phân tâm học của G.
Bachelard cũng được giới thiệu. Người có những thành công bước đầu trong việc
vận dụng tâm lí học vào phê bình văn học Việt Nam hiện nay là Đỗ Lai Thúy. Đỗ
Lai Thúy viết về hoài niệm phồn thực của thơ Hồ Xuân Hương, về những ẩn ức
trong thơ Hoàng Cầm... đưa lại một số nhận thức mới mẻ.
Lí thuyết hậu hiện đại cũng bắt đầu du nhập vào Việt Nam. Trong các nghệ
thuật khác như hội họa, sân khấu, vũ đạo... luôn vang lên thuật ngữ "hậu hiện đại".
Còn trong văn học một số nhà phê bình "thấy" các yếu tố hậu hiện đại từ các sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp (?), Phạm Thị Hoài cho đến các tác giả gần đây như
Nguyễn Bình Phương chẳng hạn.
Trong số các lí thuyết trên, cho đến nay, thuyết cấu trúc - kí hiệu học vận
dụng vào phê bình văn học Việt Nam thành công hơn cả. Có thể do văn học
phương Đông có nhiều tính quy phạm và tượng trưng nên là đối tượng thích hợp
cho những nghiên cứu của lí thuyết này. Các kết qủa có thể thấy rõ qua các công
trình của Phan Ngọc, Đỗ Đức Hiểu và phần nào của Đặng Tiến, đặc biệt, tôi muốn
lưu ý đến người đầu tiên với công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong
Truyện Kiều [7]. Phan Ngọc là một nhà bách khoa (hình như là nhà bách khoa cuối
cùng của chúng ta) kiểu như Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Hiến Lê...
Ông vừa là nhà ngôn ngữ học, nhà phê bình văn học, nhà sử học, nhà văn hóa học,
nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng, dịch giả nổi tiếng thông hiểu nhiều ngôn ngữ và
văn học cả phương Đông lẫn phương Tây. Cuốn chuyên khảo về Truyện Kiều được
ông viết trên nền tảng một kiến thức tổng hợp, liên ngành, nhưng cốt lõi là lí thuyết
cấu trúc. Là một nhà ngôn ngữ học nổi tiếng, các lí thuyết ngôn ngữ học của F. de
Saussure, R. Jakobson, N. Troubetskoy... không xa lạ gì với ông, hơn nữa ông còn
tiếp nhận rất chủ động, có đánh giá. Ông coi các lí thuyết được tiếp thu từ bên
ngoài chỉ là những kiến thức như các tri thức khác cần được đánh giá, nhào nặn lại
để hình thành nên một phương pháp riêng thích hợp cho việc nghiên cứu một đối
tượng cụ thể. Cuốn chuyên khảo về Truyện Kiều của ông không giống với bất kì
cuốn chuyên khảo nào trên thế giới. Tuy vậy về cốt lõi nó chịu nhiều ảnh hưởng
của thuyết cấu trúc. Mục tiêu của nhà phê bình ở đây là tìm hiểu đặc trưng nghệ
thuật riêng biệt mà ông gọi là "phong cách Nguyễn Du". Phan Ngọc viết "Đặc
trưng ấy là tính thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh thể, hay nói
khác đi, tính cấu trúc của nó. Tính cấu trúc của phong cách biểu lộ ở chỗ chỉ nhìn
một bộ phận ta đoán biết được toàn thể... chỉ cái gì mang tính cấu trúc chặt chẽ đến
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (
8
như vậy thì cái đó mới có phong cách"[8]. Những lời như thế hiển nhiên là rất quen
thuộc với nhà cấu trúc luận ở bất kì đâu trên thế giới. Phan Ngọc cũng phân
tích Truyện Kiều theo hai trục đồng đại (synchronie) và lịch đại (diachronie), cũng
coi ngôn ngữ như một hệ tín hiệu gồm hai mặt là hình ảnh âm thanh và khái niệm
(nghĩa). Từ đó ông không tách tác phẩm ra thành hai phần là nội dung và hình thức
để xem xét như cách làm của các nhà phê bình Việt Nam cho tới lúc đó, mà "khi
nói đến nội dung thì nói luôn cả cách hình thức hóa nội dung, và ngược lại khi nói
đến hình thức thì nói luôn hình thức này có tác dụng gì trong việc thể hiện nội
dung đã chọn". Như vậy, nội dung là nội dung được xây dựng theo một hình thức
nào đấy, hình thức là hình thức riêng của một nội dung nhất định. Với lí thuyết mà
Phan Ngọc gọi là phong cách học này, ông đã có nhiều phát kiến về nghệ
thuật Truyện Kiều như: cách tự sự của Nguyễn Du, Truyện Kiều - một tiểu thuyết
tâm lí, bố cục theo lối của nghệ thuật kịch... Các nhà phê bình theo cấu trúc luận
thường bị phê phán là chỉ bó hẹp vào việc phân tích văn bản, tách văn bản khỏi
môi trường mà nó tồn tại, coi văn bản có ý nghĩa tự nó. Phan Ngọc trong công
trình này không mắc nhược điểm ấy. Khi phân tích Truyện Kiều, ông luôn đặt văn
bản trong cấu trúc văn hóa của thời đại Nguyễn Du, không cắt đứt văn bản khỏi
tiến trình văn học Việt Nam và Đông Á cho đến lúc ấy. Phương pháp cấu trúc và
phương pháp lịch sử bổ trợ nhau. Công trình không phải là không có thiếu sót,
nhưng tôi vẫn xem đây là một mẫu mực của cách vận dụng các lí thuyết phương
Tây vào phê bình văn học Việt Nam.
Để kết thúc bài viết này tôi xin đưa ra hai khuyến cáo sau đây:
1/ Cần thấy giới hạn của các lí thuyết phê bình: cho đến nay, mỗi lí thuyết
đều nhằm nhấn mạnh vào một yếu tố nào đấy của văn học: hoặc nhà văn (phê bình
tiểu sử), hoặc văn bản (cấu trúc luận, phê bình Mới...), hoặc người đọc (lí thuyết
tiếp nhận), hoặc vào môi trường ngoài văn bản (lí luận của Taine, lí luận Macxit...).
Mỗi lí thuyết có một thế mạnh nhất định, song cũng có giới hạn, còn "một phương
pháp tổng hợp còn chưa được tìm ra"( Yu. Tynianov). Chúng ta nên nắm được
nhiều lí thuyết để tuỳ từng trường hợp cụ thể, theo những yêu cầu nghiên cứu nhất
định mà ta sử dụng phương pháp phê bình này hay khác.
2/ Không nên tiếp thu nguyên xi một mô hình lí thuyết nào đấy, rồi sử dụng
các nguyên tắc của nó như một bộ công cụ có sẵn để phê bình văn học dân tộc. Cần
coi các lí thuyết như các kiến thức, như các mách bảo cho nhận thức, kết hợp với
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (
9
các kiến thức khác và kinh nghiệm để tự thiết lập nên một phương pháp phù hợp
nhất với đối tượng và những mục tiêu đặt ra./.
CHÚ THÍCH
[1] Xem Trịnh Bá Đĩnh: Di sản của Nguyễn Du và thời gian. Trong
cuốn: Nguyễn Du- về tác gia, tác phẩm. Nxb. Giáo dục, H., 1998
[2] Hãy đọc những dòng sau đây: “Nhưng tiếng nói vừa là một âm thanh, mà
lại vừa là một ký hiệu” (signe), một tượng trưng (symbol), để các người trong xã
hội dùng đến khi muốn hiểu nhau. Nó chứa đựng một ý nghĩa mà xã hội đã định
cho nó... Tập thơ mà một thi sĩ sáng tác ra vừa là một tương quan âm thanh, vừa là
một tương quan biểu tượng và ý niệm”.(Trương Tửu: Tuyển tập nghiên cứu, phê
bình. Nxb. Lao động, H., 2007, tr.393). Đó chả lẽ lại không phải là quan điểm của
kí hiệu học?
[3] Hoài Thanh châm biếm rằng: với ông Nguyễn Bách Khoa cái gì cũng có
thể cắt nghĩa được như 2 với 2 là 4. Theo Hoài Thanh "Muốn bước vào thế giới như
thế giới Đoạn Trường tân thanh, thái độ đúng và khoa học hơn cả là bỏ hết các kiến
thức khoa học ở ngoài cửa để đi vào với tấm lòng chân thành và thanh khiết" (Một
vài ý kiến về quyển "Nguyễn Du và Truyện Kiều" của ông Ngguyễn Bách Khoa.
Trong Vì chúa nguyệt san, số 28, tháng 7, 8, 1943). Trong việc đọc văn học, Hoài
Thanh chỉ tin vào cảm thụ chủ quan, ông chủ trương phê bình phi lí thuyết: "Cho
hay những lí thuyết chẳng có nghĩa lí gì, chẳng ăn thua gì" (Văn chương và hành
động. Nxb. Hội nhà văn, H., 1999, tr. 8).
[4] Trương Tửu, sdd. tr. 416
[5] Lê Đình Kỵ, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du,
Nxb. Khoa học xã hội, H., 1970, tr. 190
[6] Nguyễn Xuân Nam, Về cuốn Các phương pháp nghệ thuật của Lê Đình
Kỵ. Tạp chí văn học, 1962, số 11, tr. 28
[7] Phan Ngọc: Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (in lần
thứ hai). Nxb. Thanh niên, 2007.(Các trích dẫn trong bài rút từ bản in này)
[8] Phan Ngọc, Sdd. tr. 31
Hà Nội ngày 10 tháng 3 năm 2011
Nguồn:
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12816020_tiep_can_van_hoc_viet_nam_tu_cac_ly_thuyet_phuong_tay_1308_2004576.pdf