Kết quả nghiên cứu này có thể xem là bức tranh khá khái quát để nhìn nhận
chung về thực trạng kĩ năng mềm của SVĐHSP. Kết quả nghiên cứu này đặt ra
những thách thức và nhiệm vụ khá quan trọng đối với lãnh đạo, giảng viên các
trường ĐHSP trong công tác phát triển kĩ năng mềm cho SV một cách có hiệu quả.
Điều này góp phần tạo nên một nền tảng thực sự vững chắc để SV có thể thực hiện
hết trách nhiệm và cống hiến hết mình cho sự nghiệp giáo dục trong một bối
cảnh đầy thử thách ở tương lai.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng một số kĩ năng mềm của sinh viên đại học sư phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 39 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
THỰC TRẠNG MỘT SỐ KĨ NĂNG MỀM
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HUỲNH VĂN SƠN*
TÓM TẮT
Trong 20 kĩ năng mềm được đưa ra nghiên cứu, sinh viên (SV)tự đánh giá mình đạt
mức cao với 18/20 kĩ năng mềm, đạt mức trung bình với 2/20 kĩ năng mềm. Điểm trung
bình chung tự đánh giá của SV là 3,59. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ quản lí và giảng viên
chỉ đánh giá SV đạt mức trung bình ở tất cả 20/20 kĩ năng mềm với điểm trung bình chung
là 3,23. Tuy vậy, xuất phát từ thực trạng hoạt động học tập của SV kết hợp với nhận định
của cán bộ quản lí, giảng viên và kết quả quan sát có thể nhận định rằng, SV khá thuần
thục ở một vài kĩ năng nhưng đa phần SV còn khó khăn, lúng túng khi thực hành các kĩ
năng mềm.
Từ khóa: kĩ năng mềm, kĩ năng mềm của sinh viên đại học sư phạm.
ABSTRACT
Education university students’ soft skills
Of the 20 soft skills in the survey, students’ self-assess that they peaked at 18/20 of
soft skills, an average 2/20 of soft skills. Grade point average of students with self-
assessment is 3.59. Meanwhile, management and teaching staff assess that students’
average relative to 20/20 of soft skills with a 3.23 grade point average. However, from
students’ learning activities along with identification of managers, trainers and
observations, it can be noted that, students can be quite handy in a few skills but most
students still encounter difficulties as they awkward in practicing the soft skills.
Keywords: soft skills, soft skills of the education university students.
1. Đặt vấn đề
Trước thách thức của thời đại và
những đòi hỏi mới của công cuộc hội
nhập, kĩ năng mềm đã trở thành hành
trang cực kì quan trọng. Để tồn tại, phát
triển, quản lí, làm chủ công việc, cuộc
sống hiện đại với môi trường làm việc
ngày càng năng động, nhiều sức ép và
tính cạnh tranh thì kĩ năng “mềm” là một
yếu tố không thể thiếu. Khi đất nước
đang trên đà phát triển và giao lưu hội
nhập quốc tế, xã hội đang có sự chuyển
biến về những yêu cầu khác nhau đối với
công việc, cuộc sống thì kĩ năng mềm
của SV ngày nay đang là một vấn đề
mang tính thời sự.
Sinh viên đại học sư phạm
(SVĐHSP) là lực lượng trí thức trẻ sẽ trở
thành trụ cột của nền giáo dục quốc gia
trong tương lai. Do đó, sự ảnh hưởng của
SVĐHSP đối với sự phát triển của xã hội
là không thể phủ nhận. Ngoài những
thách thức của thời kì hiện đại, SVĐHSP
còn phải đứng trước một thách thức to
lớn: đổi mới toàn diện nền giáo dục nước
nhà. Do đó, họ phải là những người có đủ
* TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM
22
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Huỳnh Văn Sơn
_____________________________________________________________________________________________________________
“nội lực” để có thể tiếp tục công cuộc đổi
mới này và thúc đẩy nó diễn ra một cách
hiệu quả. Để làm được điều đó, SVĐHSP
phải có nhiều kĩ năng quan trọng nhằm
thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học, nhiệm vụ
giáo dục và nhiệm vụ phát triển nhân
cách người học. Tuy nhiên, cho đến thời
điểm hiện nay vẫn chưa có một công
trình nghiên cứu nào được tiến hành một
cách bài bản và toàn diện về kĩ năng
mềm của SVĐHSP nói chung và SV các
trường sư phạm nói riêng. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu tìm hiểu thực trạng một
số kĩ năng mềm của SVĐHSP là vấn đề
thiết thực và cần thiết cho công tác đào
tạo nguồn giáo viên tương lai.
2. Giải quyết vấn đề
Nghiên cứu về thực trạng một số kĩ
năng mềm của SVĐHSP được tiến hành
với 1000 SV tại một số trường ĐHSP và
khoa sư phạm của một vài trường đại học
(ĐH) ở khu vực phía Nam:
- Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí
Minh (TPHCM);
- Khoa Sư phạm, Trường ĐH Đồng
Tháp;
- Khoa Sư phạm, Trường ĐH Cần
Thơ;
- Khoa Sư phạm, Trường ĐH Tiền
Giang;
- Khoa Sư phạm, Trường ĐH Thủ
Dầu Một.
SVĐHSP được chọn nghiên cứu là
SV chính quy cử nhân sư phạm hệ bốn
năm (cụ thể là SV năm thứ hai và thứ ba).
Có thể thấy rằng, SV tỏ ra tự tin khi
tự đánh giá mức độ 20 kĩ năng mềm mà
đề tài đưa ra. Chỉ có hai kĩ năng được xếp
ở mức trung bình đó là kĩ năng quản lí tài
chính và kĩ năng thủ lĩnh nhóm. Có 18 kĩ
năng được SV xếp ở mức cao. Xét dưới
góc độ điểm số thì đây là một dấu hiệu
tích cực, một sắc màu tươi sáng trong
bức tranh về kĩ năng mềm của SV. Tuy
nhiên, khi so sánh với tự đánh giá của SV
về mức độ hiểu biết đối với kĩ năng mềm
và nhất là so sánh với đánh giá của cán
bộ quản lí, giảng viên - những người trực
tiếp quản lí và giảng dạy SV thì lại có
khoảng “chênh” đáng kể, cần phải tiếp
tục nghiên cứu sâu (xem bảng 1).
Bảng 1. Tự đánh giá của SV và đánh giá của giáo viên
về mức độ một số kĩ năng mềm của SV
Tự đánh giá của SV Đánh giá của giảng viên STT Kĩ năng
ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC
1 Tự đánh giá 3,52 0,78 3,08 0,76
2 Hoạch định mục tiêu cuộc đời 3,71 0,83 2,98 0,79
3 Quản lí thời gian 3,53 0,87 3,01 0,78
4 Quản lí cảm xúc 3,57 0,88 3,11 0,70
5 Thiết lập quan hệ xã hội 3,65 0,85 3,19 0,73
6 Tư duy sáng tạo 3,61 0,85 3,19 0,86
7 Giải quyết vấn đề 3,64 0,81 3,16 0,75
23
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 39 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
8 Làm việc nhóm 3,57 0,79 3,43 0,72
9 Thích ứng 3,63 0,79 3,31 0,78
10 Vượt qua áp lực 3,55 0,84 3,12 0,76
11 Thủ lĩnh nhóm 3,18 0,94 3,01 0,83
12 Tư duy tích cực 3,58 0,87 3,36 0,81
13 Xây dựng và thể hiện sự tự tin 3,68 0,83 3,39 0,76
14 Quản lí tài chính 3,49 0,87 3,33 0,94
15 Tìm kiếm và xử lí thông tin 3,58 0,82 3,38 0,87
16 Thuyết trình 3,58 0,85 3,31 0.80
17 Thuyết phục 3,62 0,86 3,21 0,88
18 Học và tự học suốt đời 3,74 0,89 3,16 0,86
19 Động viên và chia sẻ 3,75 0,78 3,50 0,84
20 Tổ chức hoạt động 3,56 0,89 3,28 0,76
Đánh giá chung 3,59 0,54 3,23 0,51
SV cho rằng mình có khả năng tốt
nhất ở các kĩ năng: động viên chia sẻ, học
và tự học suốt đời, hoạch định mục tiêu
cuộc đời, xây dựng và thể hiện sự tự tin,
thiết lập quan hệ xã hội. Khi được hỏi về
vấn đề này, bạn M.M, SV Trường ĐH
Bình Dương cho biết: “Em tự thấy mình
có khả năng chia sẻ và động viên người
khác tốt. Bằng chứng là mỗi khi bạn bè
có chuyện buồn, họ thường tìm đến với
em để tâm sự. Có lúc em thấy mình giống
như nhà tư vấn tâm lí vậy mặc dù em
không học tâm lí” [phụ lục phỏng vấn].
Trong khi đó, bạn M.K, SV Trường
ĐHSP TPHCM chia sẻ: “Ngay từ những
năm cấp 3, em đã tự xây dựng cho mình
một kế hoạch cuộc đời trong tương lai và
bây giờ em vẫn đang đi theo kế hoạch đó.
Em nghĩ, biết hoạch định cho mình một
mục tiêu rõ ràng, cụ thể và phù hợp thì
điều đó cũng giống như kim chỉ nam để
cho ta đi theo vậy” [kết quả phỏng vấn].
Đó là những suy nghĩ, tâm sự và
chia sẻ của SV. Nhưng nếu thẳng thắn
nhìn vào thực tế môi trường giáo dục ĐH
ngày nay sẽ thấy những mảng màu ngược
lại. Kĩ năng động viên và chia sẻ là khả
năng mà con người có thể thông cảm,
thấu hiểu, giúp đỡ và nâng đỡ người khác
trong những lúc họ gặp khó khăn, bối rối
hay bế tắc. Khả năng này không chỉ được
thể hiện trong mối quan hệ bạn bè thân
thiết mà còn được bộc lộ trong các hoạt
động học tập, nhất là những hoạt động
nhóm. Trong khi SV tự cho rằng mình có
kĩ năng động viên, chia sẻ cao thì một
trong những tồn tại khá nổi bật đó là khả
năng hợp tác, làm việc nhóm của SV hiện
nay vẫn còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó,
một số SV tự cho rằng mình rất tự tin và
luôn sẵn sàng thể hiện bản thân thì vẫn
còn một bộ phận không nhỏ SV ngại
tham gia vào các hoạt động xã hội, e dè
trước đám đông và không dám thể hiện
mình. Ngoài ra, khi SV nghĩ rằng khả
năng hoạch định mục tiêu cuộc đời của
mình tốt thì trong thực tế, vẫn còn không
ít SV thi ĐH là do định hướng của người
khác, chạy theo trào lưu mà không biết
ngành mình học sẽ làm được gì sau khi ra
24
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Huỳnh Văn Sơn
_____________________________________________________________________________________________________________
trường... Tất nhiên, đây không phải là
một sự mâu thuẫn và đối lập hoàn toàn
mà là những góc cạnh trái chiều, giống
một tấm gương để phản chiếu những gì
SV tự nhìn nhận, tự đánh giá.
Đối với những kĩ năng được SV
xếp ở nhóm giữa bao gồm: kĩ năng giải
quyết vấn đề, kĩ năng thích ứng, kĩ năng
thuyết phục, kĩ năng tư duy sáng tạo và kĩ
năng tư duy tích cực, kĩ năng xử lí thông
tin, kĩ năng thuyết trình cũng là những kĩ
năng mềm hết sức căn bản và cần thiết
đối với SV sư phạm. Khi được hỏi sâu về
thực trạng của các kĩ năng này, SV đã có
những chia sẻ một cách thực tế và khá
thú vị. Bạn N.C, Trường ĐH Tiền Giang
cho biết: “Đôi khi trong cuộc sống, em
cũng gặp phải những khó khăn, bối rối.
Những lúc như vậy, em thường tìm đến
bạn bè hay những anh, chị lớn tuổi hơn
để xin ý kiến của họ. Em nghiệm ra rằng
cứ mạnh dạn chia sẻ thì người khác sẽ
lắng nghe và cho mình những lời khuyên
có giá trị” [kết quả phỏng vấn]. Bên cạnh
đó, cũng có những ý kiến theo chiều
ngược lại như ý kiến của bạn K.O, SV
Trường ĐH Bình Dương: “Có lúc em
cũng không hiểu nổi mình nữa. Mỗi khi
có chuyện gì quan trọng là em cứ cuống
cả lên không biết phải giải quyết sao cả.
Những lúc như vậy, em cứ bối rối và
lúng túng. Lo thì lo mà không giải quyết
được việc gì cả” [kết quả phỏng vấn].
Kĩ năng thích ứng được SV tự đánh
giá với điểm trung bình là 3,63. Trong
thực tế, đa phần các trường ĐH đều trú
đóng tại các thành phố lớn hay các khu
vực trung tâm của các tỉnh, thành và phần
lớn SV đến từ những tỉnh thành khác.
Đối với những SV này, kĩ năng thích ứng
là hết sức quan trọng. SV phải biết thích
ứng với nơi ở mới, điều kiện mới, môi
trường mới và cuộc sống mới thì mới có
thể đảm bảo được việc học tập. Không
chỉ vậy, tất cả SV đều phải làm quen với
phương pháp học ở ĐH, với những người
bạn mới, thầy cô mới. Đó là những khó
khăn ban đầu mà mỗi SV phải nỗ lực để
vượt qua thì mới có thể học tập tốt được.
Một tín hiệu vui là SV cho rằng kĩ năng
này của mình khá tốt và cũng được biểu
hiện ra bên ngoài đó là đa phần SV đều
nhanh chóng thích nghi được với môi
trường sống mới và môi trường học tập
mới. Tuy vậy, đâu đó cũng vẫn còn một
bộ phận SV không dễ dàng làm quen với
cái mới nên thường thiếu chủ động, cởi
mở trước những người lạ và những hoạt
động phong trào.
Các kĩ năng như: kĩ năng thuyết
phục, kĩ năng tư duy sáng tạo và kĩ năng
tư duy tích cực được SV cho điểm trung
bình lần lượt là 3,62 - 3,61 - 3,58, đều
nằm trong mức khá cao. Tương tự như
các kĩ năng khác, những kĩ năng này là
rất cần thiết và có giá trị, nhất là đối với
SVĐHSP. Khi ra trường và tham gia
giảng dạy, các thầy cô giáo giống như
một người “nhạc trưởng”, cần phải tạo
được uy tín và có sức thuyết phục cao thì
mới có thể chỉ huy được cả một “dàn
nhạc”. Đồng thời, người “nhạc trưởng”
ấy phải không ngừng sáng tạo để tìm ra
cái hay, cái mới và phải giữ cho mình
một tư tưởng lạc quan để lan truyền, để
tạo ảnh hưởng tích cực đến các thành
viên khác. Làm được như vậy, hình ảnh
của người giáo viên trong mắt học trò sẽ
là rất mẫu mực, rất đậm nét và có thể trở
thành một hình mẫu để học sinh noi theo.
25
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 39 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
Những SV được hỏi cho rằng mình có
khả năng thuyết phục người khác mà
bằng chứng là mỗi khi mình cần sự giúp
đỡ của ai đó thì có thể nhờ người khác
làm giúp, hay khi làm việc nhóm, mình
có thể thuyết phục được người khác theo
quan điểm của mình. Riêng với khả năng
sáng tạo, có lẽ đây là một tồn tại khá phổ
biến trong đội ngũ SV khi mà giáo dục
của nước ta vẫn chưa thực sự phát huy
được hết tính tích cực của người học,
chưa thật sự đặt người học vào vị trí
trung tâm và chưa khuyến khích tinh thần
sáng tạo, tinh thần phản biện ở người
học. Chính thực tế đó đã khiến cho khả
năng sáng tạo trong SV chưa được phát
huy đúng mức như nhận định của cô T.M
ở Trường ĐHSP TPHCM: “Các bạn SV
ngày nay rất năng động và đầy nhiệt
huyết. Ngoài việc học, các bạn còn tích
cực tham gia các hoạt động phong trào,
các hoạt động vì cộng đồng, vì xã hội.
Nhưng có lẽ, so với SV thế giới thì SV
chúng ta còn thua kém về khả năng sáng
tạo, nhất là những sáng tạo trong học tập
và những ý tưởng đột phá. Điều này
không phải là lỗi của SV mà do ảnh
hưởng của lối giáo dục từ chương của
chúng ta” [kết quả phỏng vấn].
Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin,
kĩ năng thuyết trình cũng được SV đánh
giá với 3,58 điểm. Đối với nghề sư phạm
thì không thể không có hai kĩ năng này.
Quá trình giảng dạy là quá trình liên tục
tìm kiếm và xử lí thông tin. Đồng thời,
hoạt động dạy học cũng là một dạng hoạt
động thuyết trình với những nét đặc trưng
riêng. Là SVĐHSP, các bạn cần phải rèn
luyện cho mình những kĩ năng này để có
thể phục vụ đắc lực cho công việc trong
tương lai. Nói về khả năng tìm kiếm và
xử lí thông tin của mình, bạn Q.K, SV
Trường ĐH Tiền Giang cho biết: “Em
nghĩ rằng kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông
tin của mình khá tốt. Khi được giao một
nhiệm vụ học tập nào đó, em thường chủ
động lên thư viện, internet để tìm những
dữ liệu cần thiết cho bài tập và kết quả
mà em đạt được thường khá cao” [kết
quả phỏng vấn]. Bạn T.V, SV Trường
ĐHSP TPHCM thì chia sẻ về kĩ năng
thuyết trình của mình như sau: “Em khá
tự tin mỗi lần thuyết trình trước lớp hay
nói chuyện trước đám đông. Bạn bè nhận
xét em là một người ăn nói có duyên, thu
hút được người khác. Còn bản thân em
thì thấy rằng nếu mình chuẩn bị thật kĩ từ
trước thì khi thuyết trình sẽ tự tin hơn.
Lúc trước, em cũng không tự tin lắm khi
đứng trước nhiều người nhưng cứ nói
nhiều, thuyết trình nhiều thì mình sẽ quen
hơn” [kết quả phỏng vấn].
Những kĩ năng được SV xếp ở vị trí
kế tiếp, đó là: kĩ năng quản lí cảm xúc, kĩ
năng làm việc nhóm, kĩ năng tổ chức
hoạt động, kĩ năng vượt qua áp lực, kĩ
năng quản lí thời gian, kĩ năng quản lí tài
chính, kĩ năng thủ lĩnh nhóm. Đây cũng
là những khó khăn trong thực tế mà SV
thường gặp phải. Đối với những người trẻ
tuổi, cụ thể là SV thì việc quản lí cảm
xúc, nhất là những cảm xúc tiêu cực và
đặc biệt là cảm xúc giận dữ là một điều
không dễ dàng bởi tuổi trẻ thường đi liền
với sự sôi nổi. Hậu quả của điều này đôi
khi là rất nguy hiểm, có thể phá hỏng các
mối quan hệ xã hội và ảnh hưởng đến
chuyện học hành. Tương tự như vậy, kĩ
năng làm việc nhóm là một yêu cầu thiết
yếu đối với SV không chỉ trong môi
26
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Huỳnh Văn Sơn
_____________________________________________________________________________________________________________
trường học đường mà còn ở ngoài xã hội.
Trong xu thế hội nhập ngày càng sâu
rộng như hiện nay, nếu một người không
biết làm việc chung với người khác thì họ
sẽ mất đi rất nhiều cơ hội đóng góp cho
tập thể và cơ hội để khẳng định, thể hiện
bản thân. Bên cạnh đó, kĩ năng vượt qua
áp lực và quản lí tài chính cũng hết sức
cần thiết. Trước những khó khăn, áp lực
xuất phát từ việc học hay từ các mối quan
hệ, nếu SV không biết cách để vượt qua
thì nó sẽ có những tác động tiêu cực đến
hoạt động học tập và cuộc sống của bản
thân. Ngoài ra, yêu cầu quản lí tài chính
là một điều không thể thiếu đối với SV
khi còn đi học, mặc dù chưa có nhiều các
khoản thu chi nhưng đây cũng là cơ hội
để SV thực hành việc nắm “tay hòm chìa
khóa” cho chính mình và cho gia đình
sau này.
Một cơ sở không kém phần quan
trọng khi nghiên cứu về kĩ năng, đó là
dựa vào sự đánh giá của một yếu tố
khách quan bên cạnh sự đánh giá chủ
quan của chủ thể. Trong trường hợp này,
yếu tố khách quan đó chính là đội ngũ
cán bộ quản lí và giảng viên các trường
ĐH - những người thường xuyên tiếp
xúc, trao đổi với SV.
Điểm trung bình chung 20 kĩ năng
mà SV tự đánh giá là 3,59 - nằm ở phía
đầu của khoảng “cao”, hay có thể nói là
khá cao thì đội ngũ cán bộ quản lí và
giảng viên cho 3,23 điểm - mức “trung
bình”. Trong khi SV tự cho rằng 18/20 kĩ
năng mềm mà đề tài đưa ra là “cao”, chỉ
có 2 kĩ năng ở mức “trung bình” thì cán
bộ quản lí và giảng viên cho rằng tất cả
20/20 kĩ năng mềm mà đề tài đưa ra thì
SV mới chỉ đạt được ở mức “trung bình”.
Nhận định chung về thực trạng này, cô
N.H ở Trường ĐHSP TPHCM cho biết:
“Không thể phủ nhận việc SV có quan
tâm nhiều hơn đến kĩ năng mềm. Bằng
chứng là các khóa huấn luyện kĩ năng
mềm luôn thu hút đông đảo SV tham gia.
Tuy nhiên, khách quan mà nói thì kĩ năng
mềm của SV vẫn còn nhiều hạn chế. Có
những kĩ năng mềm rất căn bản và cần
thiết với SV như kĩ năng làm việc nhóm,
kĩ năng giải quyết vấn đề nhưng SV vẫn
chưa nắm vững nên vẫn còn lúng túng
khi tham gia vào các hoạt động chung
hay khi gặp phải những vấn đề trong học
tập, cuộc sống”. Rõ ràng, theo nhận định
của cán bộ quản lí và giảng viên thì mức
độ kĩ năng mềm của SV mới chỉ dừng lại
ở mức “trung bình” và cần được quan
tâm đầu tư nhiều hơn nữa.
3. Kết luận
Nhìn chung, trong số 20 kĩ năng
mềm mà đề tài đưa ra, SV có thể khá
thuần thục ở một vài kĩ năng nhưng đa
phần SV còn khó khăn, lúng túng khi
thực hành. Do đó, có thể nhận định rằng,
mức độ kĩ năng mềm của SV nhìn chung
còn chưa cao.
Kết quả nghiên cứu này có thể xem
là bức tranh khá khái quát để nhìn nhận
chung về thực trạng kĩ năng mềm của
SVĐHSP. Kết quả nghiên cứu này đặt ra
những thách thức và nhiệm vụ khá quan
trọng đối với lãnh đạo, giảng viên các
trường ĐHSP trong công tác phát triển kĩ
năng mềm cho SV một cách có hiệu quả.
Điều này góp phần tạo nên một nền tảng
thực sự vững chắc để SV có thể thực hiện
hết trách nhiệm và cống hiến hết mình
cho sự nghiệp giáo dục trong một bối
cảnh đầy thử thách ở tương lai.
27
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 39 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Bình (2007), Giáo trình giáo dục kĩ năng sống, Nxb ĐHSP Hà Nội.
2. Daniel Goleman (1998), Trí tuệ xúc cảm trong công việc, Nxb Tri thức, Hà Nội.
3. Phương Liên, Minh Đức (2009), Kĩ năng sống để làm chủ bản thân, Nxb Trẻ,
TPHCM.
4. Huỳnh Văn Sơn (2009), Nhập môn kĩ năng sống, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Huỳnh Văn Sơn (2009), Bạn trẻ và kĩ năng sống, Nxb Lao động - Xã hội.
6. Huỳnh Văn Sơn (2010), Mô hình kĩ năng sống hiện đại, Trường Đội Lê Duẩn, Hà
Nội.
7. Huỳnh Văn Sơn (2011), Thực trạng kĩ năng sống của sinh viên một số trường đại
học tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2010, mã số
B.2010. 19.64, Trường ĐHSP TPHCM.
8. Huỳnh Văn Sơn (chủ biên) (2011), Kĩ năng làm việc nhóm, Nxb Trẻ, TPHCM.
9. Huỳnh Văn Sơn (2012), Kĩ năng mềm cho SV đại học sư phạm, Nxb Giáo dục.
10. Huỳnh Văn Sơn (2012), “Thực trạng kĩ năng giải quyết vấn đề của sinh viên Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trong thực tập sư phạm đợt một theo hình
thức gửi thẳng”, Đề tài khoa học cơ sở năm 2012, mã số CS.2012.19.56, Trường
ĐHSP TPHCM.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 23-5-2012; ngày phản biện đánh giá: 01-6-2012;
ngày chấp nhận đăng: 08-8-2012)
28
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 03_huynh_van_son_3531.pdf