Thời gian sống thêm bệnh nhân ung thư vú có điều trị nội tiết bổ trợ bằng nội khoa tại bệnh viện K trong giai đoạn 2006 - 2012

Nghiên cứu trên 71 phụ nữ tiền mạn kinh bị ung thư vú ở giai đoạn I-IIIa, thụ thể nội tiết dương tính, điều trị bổ trợ bằng Goserelin kết hợp với tamoxifen, mất kinh sau 1 lần tiêm zoladex và có kinh trở lại sau 7 tháng sau khi ngừng tiêm. Tỷ lệ sống thêm không tái phát sau 2 năm, 5 năm lần lượt là 98,6%, 85,9%.

pdf10 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thời gian sống thêm bệnh nhân ung thư vú có điều trị nội tiết bổ trợ bằng nội khoa tại bệnh viện K trong giai đoạn 2006 - 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 93 (1) - 2015 125 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 THỜI GIAN SỐNG THÊM BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ CÓ ðIỀU TRỊ NỘI TIẾT BỔ TRỢ BẰNG NỘI KHOA TẠI BỆNH VIỆN K TRONG GIAI ðOẠN 2006 - 2012 Vũ Hồng Thăng Trường ðại học Y Hà Nội ðánh giá về kết quả ñiều trị nội tiết bổ trợ bằng Goserelin kết hợp tamoxifen trên bệnh nhân ung thư vú thể xâm lấn giai ñoạn I-IIIa dưới 40 tuổi. Nghiên cứu hồi cứu dựa trên 71 phụ nữ trẻ tuổi b ị ung thư vú thể xâm lấn, có thụ thể nội tiết dương tính, ñiều trị bổ trợ bằng tiêm Goserelin trong 2 năm kết hợp với tamoxifen và theo dõi dọc. Kết quả cho thấy 100% bệnh nhân mất kinh sau 1 lần tiêm zoladex, có kinh trở lại sau 7 tháng sau khi ngừng tiêm. Tỷ lệ tái phát/di căn trong 5 năm ñầu là 14,1%. Tỷ lệ sống thêm không tái phát sau 2 năm, 5 năm lần lượt là 98,6%, 85,9%. Sống thêm sau 5 năm nhóm không di căn hạch là 95,1% so với 73,3% ở nhóm có di căn hạch. Nếu bệnh nhân có PR(+) thì tiên lượng tốt hơn, tỷ lệ sống thêm không tái phát 89,2% nhóm PR(+) so với 50% nhóm PR(-). Bệnh nhân có HER2(+) có tiên lượng xấu hơn bệnh nhân có HER(-), tỷ lệ sống có tái phát thấp hơn, 70% so với 93,5%. Từ khóa: ung thư vú trẻ, ñiều trị nội tiết, thời gian sống thêm ðịa chỉ liên hệ: Vũ Hồng Thăng, Bộ môn Ung thư, Trường ðại học Y Hà Nội Email: vuhonghtang70@yahoo.com Ngày nhận: 21/01/2015 Ngày ñược chấp thuận: 18/5/2015 I. ðẶT VẤN ðỀ Tại Việt Nam, theo ghi nhận ung thư năm 2010, tỷ lệ mắc ung thư vú chuẩn theo tuổi là 29,9/105 và chủ yếu gặp lứa tuổi dưới 50 [1]. Ung thư vú là bệnh ñiển hình trong ung thư về chẩn ñoán cũng như ñiều trị. ðiều trị bệnh ung thư vú ñòi hỏi nhiều biện pháp phối hợp gồm ñiều t rị tại chỗ, tại vùng như phẫu thuật, xạ trị, ñiều trị toàn thân như hóa trị liệu, liệu pháp nội tiết và ñiều trị sinh học. Tùy theo giai ñoạn bệnh và ñặc tính sinh học của tế bào ung thư vú mà có chỉ ñịnh ñiều trị thích hợp khác nhau. Qua các nghiên cứu về hóa mô miễn dịch cho thấy có khoảng 70% trường hợp ung thư vú có thụ thể nội tiết mà các thụ thể này nằm t rên bề mặt nhân của tế bào. Sự phát triển của tế bào ung thư này vẫn chịu sự tác ñộng của nội tiết nội sinh hay nội tiết ngoại sinh. Ứng dụng qua cơ chế này mà sử dụng liệu pháp nội tiết là phương pháp ñiều t rị ñặc hiệu căn bệnh ung thư này. ðiều trị bằng cách giảm lượng estrogen trong máu hoặc tranh chấp với nội tiết tố trên thụ thể của tế bào. Hậu quả là k ìm hãm phát triển tế bào ung thư vú và dẫn ñến tế bào chết theo chương trình. Tamoxifen là chất kháng estrogen thông qua cơ chế tranh chấp thụ thể nội tiết, cải thiện rõ rệt về thời gian sống thêm không tái phát và thời gian sống thêm toàn bộ ung thư vú giai ñoạn sớm cũng như giai ñoạn tiến triển [2]. Các thuốc nội tiết hiện nay ñang ñược sử dụng phổ biến trong lâm sàng như thuốc kháng estrogen hoặc kháng men aromatase và các chất ñồng vận với GnRH (goserelin). Trên thế giới, nghiên cứu ñánh giá về vai t rò suy giảm hoạt ñộng buồng trứng bằng biện pháp nội khoa goserelin như biện pháp ñiều trị bổ trợ mang lại kết quả tốt ở bệnh nhân ung thư vú tiền mạn kinh có thụ thể nội tiết dương 126 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC tính [3]. Trong những năm gần ñây, xuất hiện xu hướng ñiều trị kết hợp giữa các thuốc kháng estrogen với các thuốc tương tự LHRH và GnRH trên thế giới và ñược ñánh giá hiệu quả biện pháp này t rong ung thư vú giai ñoạn còn khả năng ñiều trị triệt ñể [4]. Ở nước ta, trong những năm gần ñây, liệu pháp ñiều trị phối hợp này ñã áp dụng trong lâm sàng cho bệnh nhân trẻ tuổi mong muốn giữ lại buồng trứng nhưng chưa có ñề tài ñánh giá về hiệu quả của phương pháp này. Do vậy, thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu: ðánh giá kết quả sống thêm bệnh nhân ung thư vú có ñiều trị bổ trợ goserelin kết hợp với tamoxifen. II. ðỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. ðối tượng Lựa chọn các bệnh nhân ung thư vú ñược ñiều trị tại bệnh viện K từ 2006 ñến 2012 có ñủ tiêu chuẩn sau: - Bệnh nhân ung thư vú dưới 40 tuổi ñược xác ñịnh bằng giải phẫu bệnh. - ðã ñược phẫu thuật cắt tuyến vú toàn bộ, vét hạch nách triệt căn (patey). - ðược ñiều trị hóa chất di căn hạch vùng hoặc xạ trị theo chỉ ñịnh. - Còn kinh nguyệt sau khi kết thúc ñiều trị hóa chất. - Thụ thể nội tiết dương t ính (estrogen receptor - ER và progesterone receptor - PR). - Không mắc bệnh ung thư khác ngoài ung thư vú. - Có ñủ hồ sơ bệnh án lưu t rữ tại kho hồ sơ và bệnh án theo dõi ngoại trú. - Bệnh nhân ñược ñiều trịgoserelin (zoladex) kết hợp với tamoxifen ñúng theo liệu trình chuẩn. - Bệnh nhận ñược tái khám ñịnh kỳ hoặc có thông tin t rả lời từ bệnh nhân và/hoặc gia ñình qua thư hoặc ñiện thoại. 2. Phương pháp Phương pháp nghiên cứu hồi cứu, có theo dõi dọc. 2.1. C& m(u nghiên c0u Áp dụng theo công thức cỡ mẫu cho việc ước tính một tỷ lệ trong quần thể. Trong ñó: n: là cỡ mẫu dự kiến P: hiệu quả giả ñịnh; Q = 1- P. d: ñộ chính xác mong muốn. z: sai lầm loại 1 ở mức 1- α/2 (α = 0,05 thì Z 1- α/2 = 1,96) (giả ñịnh hiệu quả P = 0,96; d = 0,05 thì cỡ mẫu là 59 bệnh nhân). 2.2. Các b34c ti6n hành - Tiến hành chọn bệnh nhân: các bệnh nhân ung thư vú ñã ñược phẫu thuật Patey, thụ thể nội tiết (+), còn kinh, có ñiều trị hoá chất, tia xạ khi có chỉ ñịnh sẽ ñược ñưa vào nghiên cứu theo tiêu chuẩn ñã nêu. - Hồi cứu bệnh án ñể khai thác các dữ kiện lâm sàng, cận lâm sàng, xếp giai ñoạn bệnh trước và sau phẫu thuật triệt căn. - Bệnh nhân ñược ñiều trị bằng zoladex một depot (mẫu thuốc phóng thích chậm) 3,6 mg zoladex tiêm dưới da thành bụng mỗi 28 ngày, ñiều t rị liên tục t rong 24 tháng, ñược ñiều trị kết hợp tamoxifen liều 20mg/ ngày, bắt ñầu sử dụng sau ngày kết thúc ñiều trị hóa chất, uống l iên tục t rong 5 năm. Trong thời gian này, những bệnh nhân này vẫn tiếp tục ñược theo dõi sử dụng thuốc vừa ñánh giá kết quả sau ñiều trị cũng như thời gian sống thêm. - Ba tháng ñánh giá t ình trạng toàn thân, tại chỗ và toàn thân ñể phát hiện tái phát tại vùng, di căn xa... qua khám lâm sàng và làm n = Z21-α/2 x PQ d2 TCNCYH 93 (1) - 2015 127 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 xét nghiệm siêu âm, chụp X-quang tim phổi, ñịnh lượng CA 15.3 trong máu cứ 3 tháng 1 lần trong 2 năm ñầu, cứ 6 tháng 1 lần t rong 3 năm t iếp theo và các năm kế tiếp. Các thông tin khám lại ñược ghi nhận thông qua bệnh án theo dõi ñiều t rị tại phòng khám theo mẫu chung quy ñịnh ñang áp dụng với bệnh nhân ngoại trú. ðối với những bệnh nhân sau 5 năm uống thuốc ñược liên lạc với bệnh nhân/gia ñình bệnh nhân qua ñiện thoại hoặc thư. Thời ñiểm kết thúc nghiên cứu tháng 8 năm 2014. - Thời gian sống thêm: kết quả nghiên cứu ñược ñánh giá thông qua ước lượng thời gian sống thêm không tái phát và sống thêm toàn bộ tại thời ñiểm 1 năm, 2 năm, 3 năm, 4 năm và 5 năm, khoảng thời gian giữa thời ñiểm phẫu thuật patey ñến thời ñiểm kết thúc (rút khỏi) nghiên cứu. 3. Xử lý số liệu Nhập số liệu, mã hoá số liệu dùng phần mềm SPSS 21.0. Sử dụng các thuật toán thống kê y học. Sử dụng phương pháp Kap- lan-Meier ñể ước tính thời gian sống thêm với mức ý nghĩa thống kê khi p < 0,05 và so sánh bằng sự khác biệt bằng Log-rank test. 4. ðạo ñức nghiên cứu ðối tượng ñược cung cấp ñầy ñủ thông tin về nghiên cứu và chấp thuận tham gia nghiên cứu. Mọi thông tin của ñối tượng ñược giữ bí mật và chỉ sử dụng cho mục ñích nghiên cứu. ðối tượng có thể rút lui khỏi nghiên cứu bất cứ lúc nào mà không ảnh hưởng ñến việc ñiều trị bệnh. ðối tượng ñược ñiều trị bởi phương pháp thực hành lâm sàng theo chấp thuận của Bộ Y tế. III. KẾT QUẢ 1. Kết quả ñiều trị Mất kinh sau dùng thuốc: tất cả các bệnh nhân sau tiêm thuốc 1 tháng là mất kinh hoàn toàn, chiếm 100%. Bảng 1. Có kinh trở lại sau khi ngừng thuốc Thời gian có kinh lại sau ngừng thuốc (tháng) n % < 3 0 0 3 - 6 35 49,3 > 6 36 50,7 Trung bình 7,0 ± 2,8 (tháng) Thời gian trung bình xuất hiện kinh trở lại là 7,0 (± 2,8) tháng, xuất hiện kinh sau ngừng thuốc > 6 tháng chiếm tỷ lệ cao nhất là 50,7%. Tỷ lệ tái phát tại chỗ chiếm cao nhất, chiếm 40%, trong ñó có 1 bệnh nhân tái phát năm thứ 2, sau ñó là di căn phổi là 30% tiếp sau là di căn xương là 20%. Di căn gan, di căn não là 10%. Theo dõi trung bình 47,7 (± 12,6) tháng, trung vị 47 tháng (25 - 79 tháng). Tỷ lệ tái phát xảy ra vào năm thứ 4 chiếm 50% tổng số tái phát trong 5 năm (bảng 2). 128 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 2. Vị trí tái phát, di căn Vị trí di căn n % Phổi 3 30,0 Xương 2 20,0 Gan 1 10,0 Tại chỗ 4 40,0 Não 1 10,0 Tổng số 10 100 Biểu ñồ 1. Thời gian sống thêm không tái phát 100% bệnh nhân sống thêm không tái phát sau 12 tháng, sau 2 năm là 98,6%, sau 3 năm là 95,8%, sau 4 năm là 88,8%, và sau 5 năm còn 85,9%. 2. Một số yếu tố ảnh hưởng tới thời gian sống thêm Bảng 3. Thời gian sống thêm theo tình trạng hạch nách Di căn hạch Sống thêm không tái phát Sống thêm toàn bộ Tỷ lệ % sống thêm Số tái phát, di căn p Tỷ lệ % sống thêm Số chết p Có (n = 30) 73,3 8 (26,7%) 0,014 96,7 1 (3,3%) 0,423 Không (n = 41) 95,1 2 (4,9%) 100 0 (0%) TCNCYH 93 (1) - 2015 129 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 Biểu ñồ 2. Thời gian sống thêm theo tình trạng hạch nách Di căn hạch ảnh hưởng rõ rệt ñến thời gian sống thêm không tái phát. Không có sự khác biệt về thời gian sống thêm toàn bộ giữa nhóm có di căn hạch nách và không di căn hạch. Biểu ñồ 3. Thời gian sống thêm theo giai ñoạn bệnh Tỷ lệ sống thêm không tái phát sau 5 năm ở bệnh nhân giai ñoạn I, IIA là 94,6% cao hơn có ý nghĩa so với giai ñoạn IIB, IIIA là 76,5%. Biểu ñồ 4. Thời gian sống thêm theo tình trạng PR 130 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Tỷ lệ sống thêm không tái phát sau 5 năm ở nhóm bệnh nhân PR(+) là 89,2% cao hơn không có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân PR(-) là 83,3% nhưng không khác biệt về sống thêm không tái phát sau 5 năm. Biểu ñồ 5. Thời gian sống thêm theo tình trạng HER2 Thời gian sống thêm không tái phát, sống thêm toàn bộ ở nhóm HER2(-) cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm HER2(+). IV. BÀN LUẬN ðối với các nghiên cứu về ñiều trị bổ t rợ, kết quả ñược ñánh giá qua quá trình theo dõi bệnh nhân trong và sau ñiều trị. Thời gian theo dõi trung bình là 47,7 tháng, phần lớn bệnh nhân ñã ñạt ñược thời gian theo dõi 4 năm, một số ñã theo dõi ñược 5 năm. Với thời gian theo dõi như vậy, có thể ñánh giá về vai trò của biện pháp can thiệp ñối với bệnh nhân này. Sau dùng thuốc zoladex 1 tháng, tất cả 71 bệnh nhân (100%) ñã mất kinh hoàn toàn. ðiều ñó cho thấy tác dụng cắt kinh của biện pháp nội khoa này ñạt kết quả cao và ức chế buồng trứng ngay sau 1 tháng sử dụng. Theo bảng 1 có kinh trở lại sau 3 tháng dừng thuốc không có một bệnh nhân nào, ≤ 6 tháng chiếm 49,3%, trên 6 tháng chiếm 50,7%. Thời gian có kinh lại trung bình là 7 tháng. Lợi ích của goserelin chấm dứt hoạt ñộng nội tiết của buồng trứng trong thời gian ñiều trị, nhưng duy trì ñược khả năng sinh sản sau khi ngừng ñiều trị. ðiều này không thể xảy ra khi dùng phẫu thuật hoặc hóa chất, hoặc xạ trị liệu cắt buồng trứng và cũng t ránh cho bệnh nhân phải chịu sự mạn kinh dài và sớm. Biện pháp này có ý nghĩa giảm bớt các hiệu ứng tâm lý, sinh dục, mất xương và giảm nguy cơ bị bệnh tim mạch [4]. Trong nghiên cứu của chúng tôi có hai trường hợp bệnh nhân có con sau 5 năm ñiều trị (hai bệnh nhân này lúc bị bệnh ñều ở ñộ tuổi 24, 26). ðiều này nói lên một phần lợi ích của nghiên cứu này. Thời gian sống thêm không tái phát của bệnh nhân từ năm thứ nhất ñến năm thứ 5 lần lượt là: 100%, 98,6%, 95,8%, 88,7%, 85,9%. Phân tích trên 2706 bệnh nhân ung thư vú tiền mạn kinh ñã ñược phẫu thuật hoặc/và xạ trị, và/hoặc hóa chất cho thấy thời gian sống thêm không tái phát cao hơn ñáng kể ở bệnh nhân ñược ñiều trị goserelin kết hợp với tamoxifen so với các bệnh nhân sử dụng tamoxifen ñơn thuần. Goserelin kết hợp tamoxifen là liệu pháp nội tiết chuẩn cho TCNCYH 93 (1) - 2015 131 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 những bệnh nhân ung thư vú tiền mãn kinh có thụ thể nội tiết dương t ính [5; 6]. Có thể nói kết quả thu ñược từ nghiên cứu này rất khả quan khi so sánh với kết quả các tác giả khác ở trong và ngoài nước. Nghiên cứu ñiều trị bổ trợ cho bệnh nhân ung thư vú ở giai ñoạn mổ ñược cho thấy tỷ lệ sống thêm toàn bộ sau 5 năm là 67% ở nhóm ñược ñiều trị bổ trợ hóa chất ñơn thuần phác ñồ AC, khi kết hợp với cắt buồng trứng thì tỷ lệ này nâng lên là 70% và khi kết hợp với cả cắt buồng trứng và dùng tamoxifen thì tỷ lệ này là 78% [6]. Phân t ích gộp ở bệnh nhân tiền mãn kinh, cho thấy thời gian sống thêm toàn bộ của nhóm có goserelin cao hơn nhóm dùng tamoxifen ñơn thuần nhưng chưa có ý nghĩa thống kê [5; 7]. Bệnh nhân ung thư vú có thụ thể nội tiết dương t ính, sau khi kết thúc ñiều trị bằng các phương pháp tại chỗ, tại vùng bằng phẫu thuật, tia xạ, cần thiết phải bổ sung thêm phương pháp ñiều trị hệ thống bằng hoá chất và nội tiết nhằm tiêu diệt nốt các tế bào vi di căn tiềm ẩn mà các phương pháp ñiều t rị tại chỗ, tại vùng không giải quyết ñược. Tình trạng hạch vùng là yếu tố tiên lượng quan trọng nhất trong ung thư vú. Khi ñã di căn hạch nách chứng tỏ bệnh ñã vượt ra khỏi phạm vi tại chỗ, tại vùng. Số lượng hạch vùng di căn càng nhiều thì tiên lượng của bệnh càng xấu [2; 8]. Bảng 3 cho thấy tỷ lệ sống thêm không tái phát sau 5 năm ở nhóm có di căn hạch là 73,3%, giảm có ý nghĩa so với nhóm không di căn hạch là 95,1%. Nguy cơ tái phát tăng 4 lần của nhóm có di căn hạch so với bệnh nhân không di căn hạch. Tỷ lệ sống thêm toàn bộ 5 năm ở nhóm có di căn hạch là 96,7%, ở nhóm không di căn hạch là 100%, không thấy sự khác biệt có ý nghĩa vì những bệnh nhân này ñược tiếp tục ñiều trị hoá chất khi có tái phát, làm tăng tỷ lệ sống thêm toàn bộ. Tạ Văn Tờ công bố tỷ lệ sống thêm 5 năm là 53,0% ở nhóm có di căn hạch và 91,9% ở nhóm không di căn hạch [9]. Sự khác biệt này có thể là do nghiên cứu của Tạ Văn Tờ tiến hành trên các ñối tượng bệnh nhân ở giai ñoạn muộn hơn và có di căn hạch nách nhiều, không xét tới tình trạng thụ thể nội tiết, có nghĩa là bao gồm các cả các trường hợp thụ thể nội tiết âm tính và dương t ính. Trên thực tế cho thấy các trường hợp có thụ thể nội tiết dương t ính có tiên lượng tốt hơn so với nhóm có thụ thể âm tính do ñáp ứng tốt hơn với ñiều trị nội tiết và mức ñộ ác tính cũng thấp hơn. Tình trạng hạch nách không những là yếu tố tiên lượng quan trọng nhất mà còn có ý nghĩa thiết thực trong lâm sàng. Khi ñã có di căn hạch mà tuổi của bệnh nhân dưới 70 thì các trường hợp này có chỉ ñịnh ñiều trị bổ trợ bằng hoá chất và nội tiết nếu có thụ thể nội tiết dương tính. Các thụ thể nội tiết là các dấu ấn sinh học quan trọng trong ung thư vú, có giá trị tiên lượng và khả năng ñáp ứng ñiều trị nội tiết. Các trường hợp có thụ thể estrogen dương tính tỷ lệ ñáp ứng với ñiều trị nội tiết là 60% và tiên lượng tốt hơn so với các trường hợp có thụ thể estrogen âm t ính. Nếu cả hai thụ thể estrogen và progesterone ñều dương tính thì tỷ lệ ñáp ứng với liệu pháp nội tiết lên tới 85% và ở ñây là nhóm có tiên lượng tốt nhất [10]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ sống thêm không tái phát và toàn bộ là 89,2%; 100% ở nhóm có PR(+) so với 50%; 83,3% ở nhóm có PR(-). Sự chênh lệch giữa 2 nhóm lên tới 39,2% và 16,7%. Có thể nói rằng, nguy cơ tái phát nhóm PR(-) cao 5 lần nếu khối u có thụ thể này, góp phần dự báo khả năng tái phát. Một lần nữa, có thể thấy giá trị tiên lượng của yếu tố sinh học này trong liệu pháp nội tiết trong ung thư vú. Tuy nhiên, cỡ mẫu nghiên cứu còn hạn chế, cần nghiên cứu tiếp 132 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC theo số lượng lớn hơn ñể làm sáng tỏ yếu tố này ở phụ nữ tiền mãn kinh. Tương ñương với kết quả này, Tạ Văn Tờ nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sống thêm sau 5 năm là 78,2% ở các trường hợp ung thư vú giai ñoạn II-III có cả ER và PR(+) [9]. Silvestrini và cộng sự (2000) nghiên cứu thấy tình trạng hạch nách, k ích thước u và tình trạng thụ thể nội tiết là những yếu tố quan trọng nhất trong ung thư vú [10]. Tác giả cũng cho thấy rõ sự khác biệt về tỷ lệ sống thêm giữa nhóm ER(+) và PR(+) so với nhóm ER (+) và PR(-) ñược ñiều trị bổ trợ bằng hoá chất và nội tiết là 18,4% sau 4 năm và 20,1% sau 5 năm. - Các nghiên cứu gần ñây cho thấy HER2 liên quan có ý nghĩa với sống thêm không tái phát và tỷ lệ sống thêm toàn bộ. Những bệnh nhân có hạch nách dương tính, cường ñộ dương tính và khuyếch ñại gen này cao liên quan ñến tỷ lệ tái phát cao sau ñiều t rị [11; 12]. Trong nghiên cứu này, không bệnh nhân nào ñược ñiều trị bổ trợ bằng trastuzumab. Do vậy, lợi ích của ñiều trị bổ trợ chủ yếu dựa vào ñiều t rị nội tiết mang lại của nhóm HER(-) và nhóm HER2(+). Phân tích về ảnh hưởng của HER2 ñến kết quả sống thêm sau 5 năm cho thấy, tỷ lệ sống thêm không tái phát và toàn bộ ở nhóm HER2 âm tính là 93,5% và 100% so với 72,0% và 96,0% ở nhóm HER2(+). Khi bệnh nhân có HER2(+) thì thời gian giảm có ý nghĩa so với bệnh nhân thụ thể âm tính [9,12]. Khi kết hợp các yếu tố thụ thể nội tiết và yếu tố phát triển biểu mô, tác giả nhận thấy tỷ lệ sống thêm sau 5 năm cao nhất tới 82,3% ở nhóm có 3 yếu tố thuận lợi tức là có ER(+), PR(+) và HER2(-); kế ñến là nhóm có 2 yếu tố thuận lợi với tỷ lệ sống thêm sau 5 năm là 69,5%. Nhóm có 1 yếu tố thuận lợi có tỷ lệ 50,8% và nhóm không có yếu tố thuận lợi tức là ER(-), PR(-) và HER2(+) thì tỷ lệ sống thêm chỉ ñạt 40,7% [12]. V. KẾT LUẬN Nghiên cứu trên 71 phụ nữ tiền mạn kinh bị ung thư vú ở giai ñoạn I-IIIa, thụ thể nội tiết dương tính, ñiều trị bổ trợ bằng Goserelin kết hợp với tamoxifen, mất kinh sau 1 lần tiêm zoladex và có kinh trở lại sau 7 tháng sau khi ngừng tiêm. Tỷ lệ sống thêm không tái phát sau 2 năm, 5 năm lần lượt là 98,6%, 85,9%. Hạch nách di căn dự báo có ý nghĩa về khả năng tái phát 5 năm: không di căn hạch là 95,1% so với 73,3% ở nhóm có di căn hạch. Giai ñoạn bệnh: tỷ lệ sống thêm không tái phát và toàn bộ sau 5 năm ở giai ñoạn I, IIa là 94,6% và 100% so với 76,5% và 97,1% ở giai ñoạn IIb, IIIa. Thụ thể progesterone dương tính góp phần kết quả tốt hơn so với không có thụ thể: Tỷ lệ sống thêm không tái phát giảm từ 89,2% nhóm PR(+) so với 50% nhóm PR(-). Bệnh nhân có HER2(+) có tiên lượng xấu hơn bệnh nhân có HER(-). Lời cám ơn Xin chân thành cám ơn ban giám ñốc bệnh viện K, phòng khám bệnh ñã cấp thuốc và theo dõi chặt chẽ bệnh nhân ngoại trú này theo phác ñồ. Phòng kế hoạch tổng hợp cho lấy tư liệu nghiên cứu hồi cứu và cũng cám ơn bệnh nhân và gia ñình người bệnh ung thư vú ñã hồi âm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Bá ðức, Nguyễn Chấn Hùng, Huỳnh Quyết Thắng và cộng sự (2004). Kết quả bước ñầu nghiên cứu dịch tễ học mô tả một số bệnh ung thư tai 6 vùng ñịa lý Việt Nam giai ñoạn 2001 - 2003. Tạp chí Y học thực hành, (498), 27 - 31. TCNCYH 93 (1) - 2015 133 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 2. Bùi Diệu (2003). Ung thư vú, Thực hành xạ trị ung thư. Nhà xuất bản Y học, 278 - 295. 3. Sharma R, Hamilton A, Beith J (2009). LHRH agonists for adjuvant therapy of early breast cancer in premenopausal women, Cochrane Database Syst Rev. 4. H Yang (2013). Combined effects of goserelin and tamoxifen on estradiol level, breast density, and endometrial thickness in premenopausal and perimenopausal women with early-stage hormone receptor-positive breast cancer: a randomised controlled clinical trial, British Journal of Cancer, 109, 324 - 309. 5. Nguyễn Bá ðức(2003). Kết quả ñiều trị nội tiết bổ trợ trên bệnh nhân ung thư vú tiền mạn kinh giai ñoạn II-III có thụ thể nội tiết es- trogen dương tính. Số ñặc biệt chuyên ñề Ung bướu học, 107 - 112. 6. Coombes RC, Hall E, Gibson LJ et al (2004). A randomized trial of exemestane after two or three years of tamoxifen therapy in postmenopausal women with primary breast cancer, N Engl J Med, 350, 1081 - 1092. 7. Jonat W, Kaufmann M, Sauerbrei W, et al (2002). Goserelin versus cyclophosphamide, methotrexate, and fluorouracil as adjuvant therapy in premenopausal patients with node - positive breast cancer, The Zoladex Early Breast Cancer Research Association study. J Clin Oncol, 20, 4628 - 4635. 8. Recchia F, Saggio G, Amiconi G et al (2006). Gonadotropin - releasing hormone analogues added to adjuvant chemotherapy protect ovarian function and improve clinical outcomes in young women with early breast carcinoma. Cancer, 106, 514 - 523. 9. Tạ Văn Tờ (2004). Nghiên cứu hình thái học, hóa mô miễn dịch và giá trị tiên lượng của chúng trong ung thư biểu mô tuyến vú. Luận án tiến sĩ y học - Trường ðại học Y Hà Nội. 10. Sverrisdottir A, Johansson H, Jo- hansson U et al (2011). Interaction between goserelin and tamoxifen in a prospective randomised clinical trial of adjuvant endocrine therapy in premenopausal breast cancer. Breast Cancer Res Treat, 128(3), 755 - 763. 11. Huiart L, Dell'Aniello S, Suissa S (2011). Use of tamoxifen and aromatase in- hibitors in a large population-based cohort of women with breast cancer, Br J Cancer, 104, 1558 – 1563. 12. Vũ Hồng Thăng, ðỗ Anh Tú, Vũ Quang Toản và CS (2010). Phân tích giá trị tiên lượng của yếu tố phát triển biểu mô trong bệnh ung thư vú phụ nữ. Tạp chí Ung thư học, 1, 448 – 452. 13. Francesco R, Giampiero C et al (2010). High-risk early breast cancer in patients under 40 years of age: Improved clinical outcome with total estrogen blockade and tailored chemotherapy. Cancer Inverst, 16, 867 - 872. Summary SURVIVAL RATE OF YOUNG PATIENTS WITH BREAST CANCER RECEIVING ADJUVANT GOSERELIN PLUS TAMOXIFEN IN THE NATIONAL CANCER HOSPITAL The aim of this study was to estimate the outcome of adjuvant therapy as goserelin and ta- moxifen in young patients with stage I-IIIa breast cancer. Retrospective study based on 71 pre- 134 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC menopausal women younger than 40 years old with primary breast cancer, hormone receptor- positive, complemented by goserelin treatment for 2 years in combination with tamoxifen. Follow-up was to assess longitudinal survival rate. Results showed that all patients stopped menstruation after one Zoladex injection, with re-menstruation 7 months after stopping the injections. The recurrent/metastastic frequency is 14.1%. Disease-free survival rate at 2 years, 5 years were 98.6%, 85.9%, respectively. Survival in patient group without lymph node metastasis was 95.1% compared with 73.3% in those with lymph node metastasis. Patients with progester- one receptor - positive tumor had better survival than compared to those without this receptor. Overall survival and recurrence - free survival is 89.2% in the PR(+) group and 50% in PR(-) subgroup. Patients with HER2 (+) had a worse prognosis as compared with HER2(-) group, 70% survival with recurrent cancer compare to 93.5%. Keyword: young breast cancer, adjuvant endocrine therapy, breast cancer survival

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf150_374_1_sm_6758.pdf
Tài liệu liên quan