Hmong poetry successfully portrays the life and fate of the Hmong people from the past to the
present, and from the personal fate to the fate of the community. The artistic messages of thought
which are expressed through the complex rhythms inspire the Hmong polyphonic soul, from
inspiration compassion-tragedy to lyrical inspiration-praise and inspiring reflections-dream
experiments. We find in poetry from traditional to modern Hmong the soul of the Hmong with full
of personality and identity
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 503 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thơ ca Hmông và những mạch nguồn cảm hứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Kiến Thọ Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 199 - 204
199
THƠ CA HMÔNG VÀ NHỮNG MẠCH NGUỒN CẢM HỨNG
Nguyễn Kiến Thọ*
Truờng Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thơ ca Hmông đã khắc họa một cách rõ nét và sinh động cuộc sống và số phận của dân tộc
Hmông từ quá khứ đến hiện tại, từ số phận cá nhân đến số phận cộng đồng. Thông điệp nghệ thuật
mang tính tư tưởng đó được biểu hiện thông qua những phức điệu cảm hứng- những phức điệu tâm
hồn Hmông, từ cảm hứng cảm thương- bi kịch đến cảm hứng trữ tình- ngợi ca và cảm hứng suy
tư- chiêm nghiệm. Chúng ta nhận thấy trong thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại một diện
mạo tâm hồn Hmông đầy cá tính và bản sắc.
Từ khóa: Dân tộc Hmông, thơ ca, cảm hứng, đổi mới, hiện đại
Trong bức tranh toàn cảnh của văn học các
dân tộc thiểu số Việt Nam, dù chỉ chiếm một
vị trí khiêm tốn, vẫn phải thừa nhận rằng, dân
tộc Hmông (Hmôngz) có một kho tàng thơ ca
phong phú và độc đáo. Đó là sản phẩm tinh
thần của một dân tộc được nuôi dưỡng và
phát triển trong một nền văn hoá giàu truyền
thống và bản sắc. Từ những truyện thần thoại,
truyện cổ tích, tục ngữ, câu đố, những bài dân
ca... đến sáng tác của những nhà thơ Hmông
thời kì hiện đại là một quá trình lao động sáng
tạo của cả một dân tộc và của từng cá nhân,
để góp phần tạo ra một nguồn thơ Hmông đặc
sắc, phản ánh chân thực và sinh động đời
sống lao động sản xuất, đời sống văn hoá-tinh
thần, đời sống tâm linh...của dân tộc này.*
Nhìn từ phương diện nội dung phản ánh, thơ
ca dân tộc Hmông mang những nét đặc trưng
riêng: Đó là quá trình mở rộng đề tài, chủ đề
gắn liền với sự đổi thay, phát triển trong đời
sống cộng đồng; đó là quá trình tiếp biến của
những phức điệu cảm hứng nghệ thuật; đó
còn là sự vận động, phát triển của năng lực
nhận thức về thế giới và con người. Đời sống
tinh thần, vật chất, những nét bản sắc văn hóa,
tâm hồn dân tộc Hmông được hiển lộ qua một
nền thơ ca từ truyền thống đến hiện đại.
Nghiên cứu thơ ca Hmông dưới góc độ cảm
hứng nghệ thuật sẽ góp phần làm nổi bật
những âm hưởng chủ đạo trong giai điệu tâm
hồn của dân tộc Hmông. Mặt khác, sẽ góp
phần lí giải một vấn đề mang tính qui luật
*
Tel: 0983 677111, Email: nguyenkientho@gmail.com
trong thơ ca- đó là quá trình hình thành, tiếp
biến và phát triển của các phức điệu cảm
hứng nghệ thuật. Nó không chỉ mặc định
những đặc trưng bản sắc trong thơ ca của dân
tộc Hmông bên cạnh thơ ca của các dân tộc
thiểu số khác, mà còn góp phần nhận diện
một gương mặt tâm hồn dân tộc Hmông đầy
cá tính và bản lĩnh.
Cho đến nay, những thành quả ban đầu trong
nghiên cứu về dân tộc Hmông chủ yếu vẫn là
hướng tiếp cận trên các phương diện văn hoá
học, ngôn ngữ học và dân tộc học với các
công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu có
tên tuổi như: Đặng Nghiêm Vạn, Lê Trung
Vũ, Cư Hoà Vần, Trần Hữu Sơn, Đỗ Đức
Lợi, Trần Trí Dõi...Tuy nhiên, việc nghiên
cứu về văn học nói chung và thơ ca nói riêng
của dân tộc Hmông vẫn còn hết sức khiêm
tốn, thiếu sự đồng bộ và chưa toàn diện. Hầu
như các nhà nghiên cứu mới chỉ hướng sự chú
ý vào mảng thơ ca dân gian Hmông (chủ yếu
là dân ca), còn mảng thơ ca Hmông thời kì
hiện đại cho đến nay vẫn chưa thật sự được
quan tâm. Theo khảo sát của chúng tôi, cho
đến thời điểm hiện tại, hầu như chưa có một
công trình, bài viết nào tập trung nghiên cứu
về thơ ca Hmông dưới góc độ cảm hứng nghệ
thuật, có chăng, vấn đề cảm hứng chỉ có thể
được nhắc đến với tư cách là một trong những
yếu tố góp phần thể hiện nội dung/chủ đề của
thơ ca Hmông. Đáng chú ý là các bài viết tiêu
biểu: "Tiếng hát làm dâu, tiếng hát yêu
thương, tiếng hát căm hờn, ngàn đời của
người phụ nữ Mèo" của Tô Hoài (Tạp chí Văn
học, số 2, 1965), "Tâm hồn và tiếng hát
Nguyễn Kiến Thọ Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 199 - 204
200
Hmông" cuả Chế Lan Viên (Lời giới thiệu
cuốn Dân ca Hmông, Nxb Văn học, 1984).
Đây là những gợi ý quan trọng để chúng tôi
nảy sinh ý tưởng và những luận điểm khoa
học cho bài viết này.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: "Cảm hứng là
trạng thái tâm lí đặc biệt khi sức chú ý được
tập trung cao độ kết hợp với cảm xúc mãnh
liệt, tạo điều kiện cho óc tưởng tượng và năng
lực sáng tạo hiệu quả nhất"[1]. Từ trước đến
nay, có nhiều ý kiến khác nhau về việc định
danh và phân loại cảm hứng. Ý kiến của
N.Pôxpôlôv trong Dẫn luận nghiên cứu văn
học chia cảm hứng làm 6 loại: Cảm hứng anh
hùng ngợi ca, cảm hứng kịch tính, cảm hứng
lãng mạn, cảm hứng cảm thương, cảm hứng
bi kịch và cảm hứng trào phúng [2]. Nhà
nghiên cứu Phương Lựu chia cảm hứng làm 3
loại: cảm hứng lịch sử dân tộc, cảm hứng thế
sự và cảm hứng đời tư [3]. Về cơ bản, chúng
tôi tán đồng với cách phân loại như trên. Tuy
nhiên, trong một tác phẩm văn học nhất định,
có hiện tượng phổ biến là các loại cảm hứng
nói trên không tồn tại độc lập, mà kết hợp,
đan xen lẫn nhau. Do vậy, khi xem xét đối
tượng cụ thể là thơ ca dân tộc Hmông từ
truyền thống đến hiện đại, chúng tôi chủ
trương phân loại và định danh các phức hợp
cảm hứng gắn liền với các giai đoạn lịch sử
nhất định và với sự vận động, phát triển của
thơ ca Hmông: Từ cảm hứng cảm thương-bi
kịch, đến cảm hứng trữ tình- ngợi ca và bao
trùm lên tất cả là cảm hứng suy tư- chiêm
nghiệm như là một nét đặc trưng trong việc
biểu hiện lối tư duy, cách diễn đạt mang đậm
bản sắc Hmông.
Từ cảm hứng cảm thương- bi kịch...
Cảm hứng cảm thương- bi kịch là những rung
động mãnh liệt của cảm xúc, bộc lộ sự thương
cảm sâu sắc của các tác giả trước những vấn
đề hiện thực nghiệt ngã, mang tính bi kịch của
xã hội. Đây là cảm hứng chủ đạo trong thơ ca
dân gian Hmông cũng như thơ ca của các dân
tộc thiểu số khác trước Cách mạng.
Trong xã hội cũ, và xa hơn nữa, từ các cuộc
thiên di trong lịch sử, hành trình cuộc sống
của người Hmông là hành trình của những nỗi
buồn triền miên từ thực tại và những ám ảnh
nặng nề trong quá khứ. Đời sống du canh du
cư đầy bất ổn, những niềm tin bị đánh cắp,
những ước mơ bị vùi dập... đã khiến cho
người Hmông sống khép lòng mình, ít cởi mở
và giao lưu. Vì vậy, thơ Hmông truyền thống
chủ yếu được viết theo lối giãi bày tâm trạng
và âm điệu chủ đạo của nó là tiếng than. Nói
cách khác, đó là sự biểu hiện của cảm hứng
cảm thương- bi kịch. Toàn bộ truyện thơ của
người Hmông là điệp khúc của những éo le và
khổ đau bất tận. Trong dân ca Hmông, với 5
mảng đề tài chính thì chỉ có Tiếng hát tình
yêu (gầu plềnh) còn có chút le lói của niềm
vui, của niềm hy vọng vào một thứ hạnh phúc
vốn còn quá mong manh, một cách xa xăm
mơ hồ, bên cạnh những giai điệu trầm buồn,
ám ảnh, day dứt, ngân vang của Tiếng hát làm
dâu (gầu ua nhéng), Tiếng hát mồ côi (gầu tú
giua) và cả Tiếng hát cúng ma (gầu tuờ).
Cảm hứng cảm thương- bi kịch trong thơ ca
Hmông là sự soi chiếu những bi kịch cay
đắng nghiệt ngã của dân tộc Hmông từ trong
lịch sử. Đó là bi kịch của số phận dân tộc, số
phận cộng đồng và số phận cá nhân với tất cả
những hệ luỵ của nó.
Lịch sử của người Hmông là lịch sử của các
cuộc thiên di và những cuộc đấu tranh quyết
liệt chống lại sự đô hộ của người Hán. Trên
hành trình khổ đau bất tận ấy, bi kịch của
người Hmông trở thành những ám ảnh tâm lí
nặng nề hằn sâu trong tâm hồn dân tộc: đó là
ám ảnh về sự mất tự do, mặc cảm bị thua thiệt
đã in đậm và hình thành tâm lí tự ti dân tộc:
Người Hmông ta ở Quí Chân đến/ Vì người
Hmông ta không có chữ/ Thua kiện người
Hán ta mới đi ; Người Hán có chữ/ Người
Hán ăn không hết tài hết phép/ Người Hmông
không có chữ/ Quanh năm suốt tháng cơ hàn
(Dân ca Hmông). Định mệnh đã đưa đẩy một
dân tộc từ trong truyền thuyết vốn đã có một
quốc gia riêng, một tên gọi riêng đầy kiêu
hãnh, đến một cuộc sống du canh du cư
thường trực nỗi lo âu, bất ổn.
Bi kịch cộng đồng của người Hmông khởi
phát từ những điều kiện nghiệt ngã của công
cuộc mưu sinh: điều kiện địa lí và xã hội
không ưu ái cho những người đến muộn.
Trong thẳm sâu tâm hồn, người Hmông đã coi
Nguyễn Kiến Thọ Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 199 - 204
201
Việt Nam là quê hương thứ hai của mình:
Người Mèo ta cũng có quê/ Quê ta là Mèo
Vạc (Dân ca Hmông). Môi trường sống của
họ là chót vót trên những đỉnh non cao với
khí hậu khắc nghiệt: Từ một đến hai tháng
tuyết phủ trắng phau/Giống nương, giống rẫy
khoanh tay, xếp chân, co ro ngồi (Dân ca
Hmông); họ luôn phải còng lưng bới đá gieo
hạt ngô và be bờ ruộng bậc thang mỗi năm
một vụ (Đất quê hương, Mã Én Hằng)...
Bi kịch lớn nhất của người Hmông trong xã
hội cũ là bi kịch thân phận và quyền sống của
con người. Đó là bi kịch của những người phụ
nữ với những đắng cay cơ cực, nạn nhân của
xã hội phụ quyền, không thể quyết định số
phận và tương lai của bản thân. Hay bi kịch
của những con người mồ côi; bi kịch của
những lứa đôi yêu nhau mà không đến được
với nhau. Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát làm
dâu và cả kho tàng Truyện thơ Hmông (Luk
tẩuv Hmôngz) là những mảng đề tài thể hiện
sâu sắc và sinh động nhất cảm hứng nói trên.
"Trong vốn văn học của các dân tộc ít người
vùng cao, Tiếng hát làm dâu của dân tộc Mèo
là những tiếng hát đầy uất hận lên án tập tục
ép duyên, cảnh làm dâu nhà người "như con
ngựa trong tàu". Người trong truyện không
chịu ép một bề mà đã tìm cách thoát ra ngoài
cảnh éo le, đôi bạn tình không lấy được nhau
đã cùng nhau ăn lá ngón chết, với dự định lên
"trời" kiện ông tơ hồng đã làm cho họ lỡ làng
ở trần gian và đòi được sống bên nhau ở thế
giới bên kia" [4; tr15]. Trước thực tế xã hội
nghiệt ngã đó, không thể có chuyện tự do yêu
đương và chọn lựa hạnh phúc cho những
người phụ nữ Hmông. Biết bao những lứa đôi
yêu nhau tha thiết để rồi phải chia lìa. Khổ
đau, uất ức vì bị đối xử tệ bạc, có bao cô gái
Hmông chỉ biết than thân trách phận:Trời ơi!
Thân chị như thân ngựa/Không biết tự mình
hạ bao hạ túi [5]; có người lại trách kẻ phụ
tình, trách người con trai không chủ động bày
tỏ tình yêu: Gió về, tại sao giậu vườn không
cản gió/Để gió đi xô giậu vườn đổ ngổn
ngang/Anh có lòng muốn cùng tôi kết đôi/Sao
anh không sớm cùng tôi ngỏ lời?[6]. Có khi,
cô gái Hmông lại chỉ biết trách móc mẹ cha
nỡ lòng ép duyên con phải đi vào con đường
gai góc, đau khổ, để rồi, phải chịu đựng một
cách nhẫn nhịn, uất ức: Em chỉ còn biết lên
đỉnh núi cao em khóc/Cho nước mắt thấm ba
tầng đất đen [7]...
Trong khổ đau, uất ức vì bị đối xử tệ bạc, đã
có lúc người phụ nữ Hmông vùng vẫy, đứng
lên đấu tranh tự giải thoát mình. Các tác giả
dân gian Hmông đã để cho người phụ nữ với
thân phận của người con dâu, phản kháng
quyết liệt với mẹ chồng, như một sự thách
thức: Bà không ưa tôi, bà hãy kêu họ nhà tôi
tới nói cho bỏ thật chân, buông thật tay/Tôi sẽ
theo chân họ nhà tôi, tôi đi/... Và lúc ấy tôi sẽ
vỗ tay nhảy/Vui mừng như người đi làm ăn
[8]. Người con dâu đã thẳng thừng, chống đối
mãnh liệt với mẹ chồng (đại diện cho lễ giáo
phong kiến khắc nghiệt) để đòi tự do, để thoát
khỏi cảnh làm dâu nghiệt ngã. Câu thơ- lời
phản kháng đó mang đậm chất Hmông, bản
lĩnh Hmông, tính cách Hmông mạnh mẽ,
quyết liệt (rất hiếm gặp thái độ và bản lĩnh
như thế của những người phụ nữ cùng cảnh
ngộ trong thơ ca của các thơ ca dân tộc thiểu
số khác).
Tuy nhiên, những hành động phản kháng như
vậy trong thơ ca Hmông không nhiều. Trái
lại, họ thường phản kháng tiêu cực một cách
quyết liệt, mà hành động phổ biến là ăn lá
ngón. Cái chết bi thảm của họ như một sự
cảnh tỉnh người thân và lên án xã hội bất
công. Hình tượng cây lá ngón hoa vàng trở
nên quen thuộc trong thơ ca Hmông như một
phương thuốc hữu hiệu cho sự giải thoát khỏi
cuộc đời và số phận:Em ơi! Chị ngắt lá thuốc
độc đắng thật đắng/Đưa lên mồm, nuốt ực
cho nát quách lá gan/Chị ngắt lá thuốc độc
cay thật cay/Đưa lên miệng nuốt ực..., hay:
Nàng ơi! Ta trở về nắm cây thuốc độc rễ
không chắc/Ta trở về, ta được nàng thì
thôi/Không được nàng, ta ăn lá thuốc độc
chết đi cho thịt rữa tan...[9]
Trong một chừng mực nào đó, thơ ca đối với
dân tộc Hmông trước cách mạng tháng Tám
chính là phương tiện để bộc lộ, giãi bày tâm
trạng chứ không phải là phương tiện để nhìn
nhận cuộc sống với tất cả sự phong phú, đa
dạng của nó. Để rồi, bước sang thời kì hiện
đại, thơ ca Hmông có một sự thay đổi quan
trọng. Từ điểm nhìn bản thân mang tính
Nguyễn Kiến Thọ Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 199 - 204
202
hướng nội đã được thay thế bằng điểm nhìn
xã hội mang tính hướng ngoại, mà dấu ấn rõ rệt
nhất là từ phương diện cảm hứng nghệ thuật.
Đến cảm hứng trữ tình- ngợi ca ...
Cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại đã giải
phóng cuộc đời của cả dân tộc Việt Nam.
Đồng bào miền núi nói chung và đồng bào
dân tộc Hmông nói riêng cũng đã thoát khỏi
cảnh đời tăm tối để bắt tay vào xây dựng một
cuộc sống mới, một tương lai mới cho dân tộc
mình. Lớp thế hệ nhà thơ Hmông đầu tiên
được ra đời và lớn lên trong cuộc sống hoà
bình, hiểu sâu sắc giá trị của cuộc sống, của
hai chữ tự do. Chính vì vậy mà cảm hứng nổi
trội nhất trong thơ ca dân tộc Hmông thời kỳ
hiện đại là cảm hứng ngợi ca cuộc sống mới
do Cách mạng, Đảng và Bác Hồ đem lại.
Thơ ca Hmông thời kì hiện đại là một bài ca
ca ngợi cuộc sống và tình yêu mà biểu hiện
sâu sắc và chân thực nhất là lòng biết ơn.
Dường như, với các tác giả người Hmông, khi
đặt bút làm thơ, mục tiêu đầu tiên là thể hiện
được tấm lòng của mình, của dân tộc mình,
lòng biết ơn đối với Cách mạng đã khai sinh
cho người Hmông có được một cuộc đời mới.
Hùng Đình Quí có các bài thơ Người Mông
có chữ (1968), Ơn Đảng (1969), Nhớ Bác Hồ
(1969), Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải, Việt
Bắc ngày nay (1972); Giàng A Của có bài thơ
Có Cụ Hồ về; Vừ Thị Dưa có bài Nhớ đến
Chính phủ; rồi Giàng Páo Ly, Giàng A Páo,
Mùa A Sấu, Sùng Nhìa Tú... đều có những
bài thơ nói lên lòng biết ơn sâu nặng của dân
tộc Hmông đối với Đảng, với Chính phủ và
Bác Hồ.
Dân tộc Hmông là một dân tộc có tính cộng
đồng rất cao. Có lẽ do sống khu biệt trên các
đỉnh núi hẻo lánh nên tình cảm cộng đồng
được cộng hưởng, được nở rộ như những
bông hoa dưới ánh mặt trời. Không khí vui
tươi, sôi nổi rộn rã ở miền Bắc trong những
năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã lan toả
đến tận các bản làng heo hút của người
Hmông. Cuộc sống dần văn minh, xoá bỏ
những hủ tục cũ kỹ, lạc hậu là đối tượng miêu
tả, biểu hiện của các nhà thơ Hmông. Những
thửa ruộng bậc thang lúa vàng trĩu hạt; những
mái trường có con em của người Hmông theo
học, như những “bầy ong tung tăng đi hút nhị
hoa”; Những chính sách của Đảng tựa như
những làn điệu dân ca bay bổng, lay động,
thấm sâu vào tâm hồn người Hmông. Khắp
nơi rộn rã không khí đổi mới vui tươi, tràn
ngập niềm tin vào cuộc sống. Cảm giác lâng
lâng của con người được giải phóng, được tự
do thật là kì diệu, để người Hmông nhìn thiên
nhiên cũng thấy có tâm hồn, có sự đồng điệu,
say mê: Mặt trời nâng hoa mây/Bồng bềnh
sáng núi đá (Mặt trời hoa mây - Giàng A
Páo). Cuộc sống của người Hmông có sự bình
yên, êm đềm, đẹp một cách lãng mạn. Chất
lãng mạn ngấm sâu vào tim vào óc mỗi người
để thăng hoa thành những tâm hồn nghệ sĩ.
Trong thơ ca Hmông, Tiếng hát tình yêu (gầu
plềnh) chiếm một vị trí vô cùng quan trọng.
Đó là ánh trăng sáng lung linh trên bầu trời
thơ ca, đẹp một cách huyền diệu. Chính cảm
hứng trữ tình-ngợi ca đã làm cho những câu
thơ có sức lay động và quyến rũ diệu kì, "có
thể nằm không hổ thẹn trong những tuyển tập
thơ hay của thế giới" (Chế Lan Viên). Tuy
nhiên, cả trong cuộc sống và tình yêu, người
Hmông đều hồn nhiên và mãnh liệt đến độ
cực đoan. Đã sống- sống hết mình; đã yêu-
yêu đến nồng nàn đam mê; đã ghét- ghét đến
tận cùng xương tuỷ. Thơ ca Hmông là sứ giả
trung thành cho việc bộc lộ những cung bậc
và trạng thái tình cảm ấy: Gió về gió thổi lá
cây lật lả lướt bên khe/ Nếu ta là hạt mưa hạt
sương/ Ta xin tan trên bàn tay nàng; Đêm đã
qua, sao lượn vòng đổi chỗ/ Ngày đã rạng, lối
đi đã toe/ Ta lê bước về nhà/ mà hồn như còn
ngủ ở thắt lưng em (Dân ca Hmông)
Cuộc sống của người Hmông trên núi cao đơn
sơ nhưng không đơn điệu, một phần cũng bởi
người Hmông có đời sống tinh thần phong
phú. Âm nhạc chính là một chất men say
trong tâm hồn người Hmông. Người Hmông
yêu âm nhạc bằng một tình yêu gần như là
bản năng, đầy chất nghệ sĩ. Cuộc sống của
đồng bào dân tộc Hmông không thể thiếu
những tiếng khèn, tiếng đàn môi, kèn lá -
những nhạc cụ quen thuộc và gần gũi của dân
tộc Hmông. Chàng trai Hmông múa khèn tài
hoa như những nghệ sĩ đích thực trong các
buổi chợ phiên, những đêm trăng hay trong
Nguyễn Kiến Thọ Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 199 - 204
203
các lễ hội “Gầu tào”: “Điệu khèn vui xóm núi/
Tiếng đàn môi giục lòng” (Giàng Xuân Hồ).
Những thiếu nữ Hmông thả tâm tình trong
tiếng đàn môi dìu dặt, trong tiếng kèn lá ẩn
chứa những tâm sự vui buồn: “Nhớ buổi tiễn
chân ta qua đồi/ Em ngắt lá thổi bài kèn réo
rắt” (Dân ca Hmông). Âm nhạc Hmông
không ưa sự quân bình mà ưa đi đến tận cùng
của những cung bậc thanh âm, chót vót cao
và thăm thẳm sâu. Có lẽ đó cũng chính là cá
tính của một dân tộc chứa bao điều bí ẩn
trong tâm hồn.
Cuộc sống của người Hmông không thiếu sự
thơ mộng đến lãng mạn, những chủ nhân của
núi đá vùng cao có đời sống tinh thần phong
phú, trước hết và trên hết, họ có một tình yêu
nồng nàn. Từ những đỉnh núi - cao nguyên
vừa hùng vĩ nên thơ vừa rất đỗi khắc nghiệt
đã sinh ra những nhà thơ Hmông để cất lên
những tiếng ca ca ngợi quê hương và tình yêu
của mình:“Từ đá/Sinh ra những chàng thi
sĩ/Hát ca về đất trời, tình yêu của mình”(Đá ở
Sapa - Mã A Lềnh).
Cảm hứng suy tư- chiêm nghiệm- biểu hiện
của lối tư duy, cách diễn đạt mang đậm
bản sắc Hmông.
Nhìn chung, sau năm 1975 và nhất là sau Đổi
Mới (1986), cùng với sự thay đổi lớn lao và
nhanh chóng bộ mặt đời sống xã hội của đất
nước, thơ ca dân tộc Hmông có sự chuyển đổi
cơ bản về cảm hứng nghệ thuật. Nếu như ở
các giai đoạn trước, cảm hứng cảm thương- bi
kịch và cảm hững trữ tình- ngợi ca chiếm ưu
thế chủ đạo, thì giai đoạn này, khi mối quan
hệ giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ngày
càng mạnh mẽ và sâu sắc, nhận thức của
người Hmông ngày càng được nâng cao,
những nhà thơ- sứ giả tâm hồn của người
Hmông bắt đầu có những suy tư, chiêm
nghiệm, có sự quan tâm hơn đến những vấn
đề mang tính thế sự, và cả nhu cầu tự bộc lộ
và khám phá bản thân.Thơ ca dân tộc Hmông
đi vào chiều sâu trí tuệ bằng những suy nghĩ,
cảm nhận mang dấu ấn cá nhân rõ rệt.
Người Hmông là một dân tộc ưa triết lí,
"trong thơ Hmông có yếu tố rất rõ của lí trí.
Chữ lí là chữ thường thấy trong thơ Hmông.
Người Hmông là ngưởi rất muốn biết rõ lí lẽ,
phân biệt phải trái" [10]. Ngay từ trong mạch
nguồn dân gian, chất suy tư, triết lí ấy đã
được bộc lộ. Ta thường thấy trong dân ca
Hmông những triết lí về cuộc đời: Đời người
như củ cải phơi nắng, hay: Đời người như
bóng râm từ từ ngả bên đồi, hoặc: Mình ơi!/
Sống là khổ đấy/ Chết là nát tan.. Sự suy
nghiệm, triết lí đã trở thành một nét tính cách
của người Hmông từ truyền thống, là cơ sở để
tạo nên phức điệu cảm hứng suy tư- chiêm
nghiệm trong thơ Hmông thời kì hiện đại.
Mỗi nhà thơ có một cách suy tư, chiêm
nghiệm riêng về thế sự, cuộc đời, và cách triết
lí cũng rất riêng, độc đáo và đặc sắc. Nhà thơ
Hùng Đình Quí trăn trở với những giá trị đạo
đức truyền thống, những tinh hoa văn hoá của
người Hmông đã được gìn giữ từ bao đời.
Ông khuyên người Hmông phải biết sống
thuỷ chung, tình nghĩa, không nên "tranh đục
cũ người dùng/cướp dao mẻ người liếc". Ông
khẳng định một chân lí vĩnh hằng trong quan
niệm về sự sống và cái chết của "người
Hmông mình" (pêz Hmông): Có chết, chết
trên lưỡi sắc/ Chớ chết sau sống Dao. Ông
cảnh tỉnh những người Hmông lầm đường,
lạc lối, thiếu ý chí, nghị lực và niềm tin trong
cuộc sống: Chỉ có con cóc mới đi không hết
đường/ Trở về chết dưới bàn chân vợ. Mã A
Lềnh suy tư về số phận và tương lai của dân
tộc mình, để rồi chiêm nghiệm và khẳng định:
Ở đâu có bầu trời/ đó là Tổ quốc. Ông bằng
lòng và ca ngơi sự lựa chọn cuộc sống như là
một nét đặc trưng riêng của dân tộc mình:
Chiếc nôi êm là tảng đá giữa non ngàn. Ở đó,
người Hmông thênh thênh sống, thênh thênh
bộc lộ những vui buồn của mình. Bản lĩnh và
ý chí chính là cội nguồn sức mạnh của dân tộc
Hmông. Hình ảnh người đàn ông Hmông với
đôi chân trần đạp trên đá sắc và mái đầu trơ
một chỏm đá hoang là sự bộc lộ sâu sắc bản
lính và ý chí ấy.
Tóm lại, thơ ca Hmông với những phức điệu
cảm hứng nghệ thuật đã góp phần bộc lộ một
cách sâu sắc và chân thực con người và cuộc
sống của dân tộc Hmông trong những hoàn
cảnh lịch sử nhất định, như những lát cắt của
Nguyễn Kiến Thọ Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 199 - 204
204
"điệu tâm hồn" Hmông trước hiện thực cuộc
sống. Các phức điệu cảm hứng nói trên không
tồn tại độc lập mà có sự đan xen, tiếp biến
trên hành trình vận động từ quá khứ tới hiện
tại. Mỗi giai đoạn lịch sử có một phức điệu
cảm hứng chiếm vị trí chủ đạo, nhưng nhìn
chung, sự đan xen và phối kết hợp các loại
cảm hứng nói trên chính là sự khắc hoạ đầy
đủ và sinh động nhất diện mạo tâm hồn của
dân tộc Hmông, trong sự đa diện và với tất cả
vẻ độc đáo và đặc sắc của nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà
Nẵng, 2000.
[2]. N. Pôxpôlôv chủ biên, Dẫn luận nghiên cứu
văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội,1998.
[3]. Phương Lựu chủ biên, Lý luận văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội,1997.
[4]. Hà Văn Thư, "Vài nhận định về văn học các
dân tộc thiểu số từ cách mạng tháng Tám đến
nay", Tạp chí Văn học, (6), 1966.
[5],[6],[7],[8],[9]. Doãn Thanh, Dân ca HMông,
Nxb Văn học, Hà Nội, 1984.
SUMMARY
HMONG POETRY AND THE SOURCES OF INSPIRATION
Nguyen Kien Tho*
College of Education – TNU
Hmong poetry successfully portrays the life and fate of the Hmong people from the past to the
present, and from the personal fate to the fate of the community. The artistic messages of thought
which are expressed through the complex rhythms inspire the Hmong polyphonic soul, from
inspiration compassion-tragedy to lyrical inspiration-praise and inspiring reflections-dream
experiments. We find in poetry from traditional to modern Hmong the soul of the Hmong with full
of personality and identity.
Key words: The Hmong people, poetry, inspiration, innovative, modern,...
*
Tel: 0983 677111, Email: nguyenkientho@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_36076_39631_181201384815199_4243_2052231.pdf