Thiết kế ánh sáng sân khấu

Chiếu sáng cảnh quan thường dùng đèn có điện áp thấp loại nhỏ(miniature). Bắt buộc phải có một hệthống điện thếthấp đểbảo đảm an toàn hơn và giảm nguy cơbị điện giật, vì thiết bịvà hệthống dây điện thường hoạt động trong môi trường ẩm ướt. Thiết bịthường nằm trên mặt đất đểuplight cho các cây và bụi cây hay có thể được đặt trên cây uplight (hay downlight) thân cây. Các đèn cảnh quan khác bao gồm việc xửdụng các cột (bollard) chiếu sáng. Những cái cột này nhưthiết bịcó rất nhiều loại và thường được xửdụng đểthắp sáng đường đi, lá cây hay các khu vực bên ngoài khác. Cột đèn trang trí, có sốlượng không giới hạn của thiết kếcũng thường được xửdụng. Thông thường, ánh sáng cảnh quan được đặt trên một hệthống điều khiển có thểbiến hệthống "mở” hay “tắt" vào các thời điểm cụthể. Cách khác, một hệthống có thểxửdụng một điều khiển dùng tế bào quang điện, biến hệthống mởvào lúc hoàng hôn và tắt lúc bình minh.

pdf34 trang | Chia sẻ: tuanhd28 | Lượt xem: 3495 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thiết kế ánh sáng sân khấu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c - để chỉ cho ánh sáng thoát ra khi cần thiết. Cạnh chùm tia có thể được điều chỉnh từ "cứng" đến "mềm" tùy thuộc vào mục tiêu thiết kế. Đôi khi chùm tia máy chiếu và đèn PAR loại ”pinspot” này cũng thích hợp để xử dụng cho đặc biệt. Những thiết bị góc hẹp này chỉ có thể cung cấp một chùm tia cạnh mềm, thường là một hình hơi bầu dục. Khi người thiết kế xử dụng đặc biệt cho người biểu diễn, phải có đủ thời gian trong buổi diễn tập ánh sáng để cho phép các diễn viên “tìm ánh sáng của ông ấy” và tự tin rằng ông có thể “trên điểm đánh dấu” mỗi lần diễn. Một diễn viên mà đi ra khỏi đặc biệt cô lập của mình thường làm cho tất cả mọi người nhìn thấy xấu, nên dành thêm thời gian để làm cho đặc biệt thực hiện. 2.10 – PHƯƠNG PHÁP BÍ MẬT (SECRET) 1) PHƯƠNG PHÁP BÍ MẬT CỦA THIẾT KẾ ÁNH SÁNG Có thể không có một phương pháp cho ánh sáng sân khấu hay có thể không có “quy tắc” cho thiết kế ánh sáng - Tuy nhiên, có "bí mật" cho thiết kế ánh sáng tốt. Bí mật là: KIẾN THỨC (KNOWLEDGE), HIỂU BIẾT (UNDERSTANDING), KINH NGHIỆM (EXPERIENCE), và TRÌNH ĐỘ (PROFICIENCY). Nhiều thiết kế ánh sáng có thể "thử nghiệm" phương pháp tiếp cận, và chỉ cần cố gắng, không có phương pháp thực tế, hay khái niệm về những gì họ đang cố gắng để đạt được. Đôi khi phương pháp này cho kết quả rực rỡ và ngoại lệ. Nhiều hơn thì thường không có. Thử nghiệm rất quan trọng cho những người thiết kế ánh sáng và tất cả người thiết kế nên thử những điều mới bất cứ khi nào có thể. Đó là thông qua một cách tiếp cận có hệ thống, tuy nhiên các người thiết kế ánh sáng sẽ có thể cung cấp kết quả dự đoán và nhất quán trong bất kỳ số lượng tình huống khác nhau nào. Người thiết kế phải biết những gì họ đang chiếu sáng và họ muốn chương trình thể hiện ra như thế nào. Người thiết kế phải rất quen thuộc với kịch bản và tất cả yêu cầu về ánh sáng của chương trình. Họ phải xử dụng những phẩm chất của ánh sáng và mục tiêu của ánh sáng sân khấu để cho phép anh ta hình dung đầy đủ, diễn đạt và xác định khái niệm thiết kế và ý định của mình. Người thiết kế phải có một sự hiểu biết đầy đủ các loại khác nhau của thiết bị đèn, được xử dụng ở các vị trí ánh sáng khác nhau (một mình và kết hợp). Họ phải biết những vị trí ánh sáng trong chương trình FRONTLIGHT, SIDELIGHT, DOWNLIGHT, BACKLIGHT, UPLIGHT và DIAGONA - trong sự kết hợp bất kỳ. Đây là các khối xây dựng của thiết kế ánh sáng và thiết kế theo bản năng phải biết những dùng thiết bị nào và đặt hướng nào. Điều này chỉ đến từ kinh nghiệm. Người thiết kế cũng phải biết làm thế nào để nhận ra THỰC TẾ (PRACTICALLY) thiết kế của họ trong một nhà hát thực tế hay không gian biểu diễn. Các người thiết kế phải biết chỗ rọi sáng và chi tiết của tất cả các vị trí ánh sáng. Họ phải biết thiết bị nào cần thiết để nhận ra hình ảnh trực quan của chương trình và xử dụng nó. Họ phải biết rất nhiều phương pháp thiết kế có sẵn, (nguồn, điểm nguồn đơn, đa nguồn, v.v) và họ phải chọn phương pháp nào sẽ đáp ứng cả hai tiêu chí thiết kế của mình - và ngân sách. Thiết kế ánh sáng không phải là một nghệ thuật đơn độc. Người thiết kế phải học cách cộng tác với các thành viên khác của nhóm và đội sản xuất thiết kế. Trong khía cạnh này của người thiết kế “kỹ năng con người -human kill” có thể thực hiện hay phá vỡ toàn bộ thiết kế ánh sáng. Các người thiết kế ánh sáng chuyên nghiệp phải quan tâm với THỦ TỤC (PROCEDURE). Tuy nhiên, họ cũng phải quan tâm đến KẾT QUẢ (RESULT) - và biết làm thế nào để có được nó. PHẦN 3 - Ứng dụng các phương pháp thiết kế 3.01 Sân khấu 3.02 Nhà hát 3.03 Múa 3.04 Opera 3.05 Âm nhạc 3.06 Hòa nhạc 3.07 Arena 3.08 Ngoài trời 3.09 Trưng bày 3.10 Truyền hình & Video 3.11 Ảnh & Nhiếp Ảnh 3.12 Film & Picture Motion 3.13 Bảo tàng / Thư viện ảnh 3.14 Kiến trúc 3.15 Cảnh quan 3.01 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG SÂN KHẤU 1.) GIỚI THIỆU Theo truyền thống, khi chúng ta nói về ánh sáng sân khấu, chúng ta thường nghĩ đó là ánh sáng áp dụng cho chương trình của sân khấu “chính thống” diễn ra trong một nhà hát thực tế. Khi biểu diễn nghệ thuật và giải trí phát triển trong suốt những năm 1900, ánh sáng sân khấu đã làm được nhiều hơn so với “chỉ chơi ánh sáng”. Ánh sáng mới đặc thù được sinh ra và các tiêu chuẩn ánh sáng mới đã được thiết lập, opera, ballet, múa hiện đại, hòa nhạc trực tiếp, trượt băng, chương trình công nghiệp, truyền hình và những trình diễn “sống-live” khác. ÁNH SÁNG SÂN KHẤU với sự điều khiển và các ứng dụng ánh sáng đã làm cho khán giả có cảm xúc và quan tâm nhiều hơn mà chỉ cần chiếu sáng sân khấu cho đạt được tầm nhìn. Hiện nay sự biểu diễn hiện đại có những phương tiện phong cách biểu diễn đa dạng hoạt động bên trong chúng. Tiện nghi bao gồm nhiều loại nhà hát, khán phòng, phòng hòa nhạc, quảng trường (arena) lớn, sân vận động, trung tâm mua sắm và những địa điểm thông thường và không thông thường khác. Hầu hết các sự kiện thương mại (sân khấu, múa, nhạc kịch) thường diễn ra trong một nhà hát thực tế. Đây là một điều rất tốt, một nhà hát chỉ kiểm soát môi trường có thể chịu được các yêu cầu đòi hỏi về dàn dựng, khán giả thoải mái, âm thanh và ánh sáng hy vọng sẽ thích hợp. Ngày nay ngày càng có nhiều show rời khỏi nhà hát và vào quảng trường. Khán giả ở quảng trường lớn có thể tạo ra doanh thu nhiều hơn mà chỉ cần một show duy nhất, tuy nhiên điều kiện trong hầu hết các quảng trường thường ít lý tưởng hơn nhiều. Để cung cấp cho khán giả ánh sáng (và âm thanh) tốt nhất có thể trong không gian này có nhiều vấn đề, thường có nhu cầu một lượng lớn thiết bị. Một chương trình đơn giản trong một nhà hát có thể yêu cầu 24-100 đèn. Các chương trình tương tự trong một quảng trường có thể yêu cầu 300-500 thiết bị ánh sáng. Show cho quảng trường (arena) đã trở nên có công nghệ rất cao, đầy nhiệt huyết và rất sáng tạo trong những năm gần đây. Các công cụ mới bao gồm các thiết bị ánh sáng tự động và thay đổi màu sắc đã mang lại một chiều hướng mới cho thiết kế ánh sáng sân khấu, không bao giờ nhìn thấy trước đây. Ngày nay, người thiết kế ánh sáng sân khấu đã phát triển thành NGƯỜI THIẾT KẾ ÁNH SÁNG GIẢI TRÍ. Thế hệ mới của người thiết kế thường sẽ làm việc trong nhiều địa điểm, thực hiện các phép lạ liên tục cho một số lượng vô tận các sự kiện khác nhau. Sau đây là tổng quan chung của các phương pháp ánh sáng cơ bản đối với một số điểm về hiệu suất và không hiệu suất của các ngành công nghiệp liên quan. Về thông tin, chúng nó cũng bao gồm: ánh sáng trưng bày, ánh sáng kiến trúc, ánh sáng cảnh quan, ánh sáng chụp ảnh và ánh sáng cho bảo tàng và phòng trưng bày. 3.02 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG NHÀ HÁT 1.) Ánh Sáng Sân Khấu Ánh sáng cho nhà hát thường có nghĩa là thiết kế trên một phạm vi rộng các loại hình khác nhau của chương trình, trình diễn trong các nhà hát hay không gian được thiết kế để có chức năng như một nhà hát. Chương trình có thể bao gồm nhiều loại kịch, hài kịch, bi kịch, nhạc kịch, hòa nhạc và kịck ngắn. Nhà hát “điển hình'” có thể từ một loại ngoài phông màn truyền thống của nhà hát, từ một "sự đột phá", một sân khấu 3 mặt, sân khấu 4 mặt hay sân khấu không có mặt nào cả. Chỗ ngồi có thể dao động từ 200 chỗ ngồi trong một nhà hát nhỏ đến hơn 2.500 chỗ ngồi trong một khán phòng lớn cấp thành phố. Chương trình nhỏ trong hội trường công cộng có thể xử dụng 12 - 20 đèn. Một chương trình chuyên nghiệp điển hình có thể xử dụng 48 - 200 thiết bị. Hiện nay không phải là hiếm khi một “mega- musical” lớn xử dụng 500 thiết bị hay nhiều hơn. Show Broadway của “Lion King” hình như xử dụng 700 thiết bị. 2.) VỊ TRÍ TREO ĐÈN Ở NHÀ HÁT Ánh sáng sân khấu có hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào các vị trí lắp đặt thiết bị có sẵn trong không gian. Hầu hết các nhà hát thường có vị trí lắp đặt ánh sáng cố định (hay ống tube). Một số thường được cài đặt ở vị trí chiếu sáng bên trên chỗ ngồi khán giả phía trước sân khấu (đôi khi được gọi là "Ceiling Coves”). Các vị trí ánh sáng trong khán phòng thường bao gồm “Box boom” (ống thẳng đứng liền kề với các phiӘa ngoa ӗi ma ӗn) và một “Balcony Rail”). Tất cả ánh sáng nằm trong khán phòng được gọi là ánh sáng “FOH” (Front of House). Các vị trí khác được cài đặt ở trên sân khấu và thường bao gồm một mạng lưới đường ống tube cố định hay một hệ thống ống tube cơ giới hóa (hay đối trọng - counterweight). Khoảng cách chiếu sáng (sân khấu) thường nằm trong khoảng 30-80 feet cho các thiết bị gắn trên đầu khán giả, và 20-40 feet cho các thiết bị gắn trên sân khấu. Thiết bị ánh sáng bổ sung thường được đặt trên sàn sân khấu để “chiếu ngược- uplight” lên phông nền, hay footlight (ít dùng hơn trong những năm gần đây). Việc xử dụng “Box boom”, “Sào cánh gà-tormentor boom” và ”sào sân khấu-stage boom” di động như một phương pháp gắn cố định, cũng khá phổ biến. 3) ÁNH SÁNG NHÀ HÁT - KỸ THUẬT Hầu hết các phương pháp ánh sáng sân khấu đều “lỏng lẻo-loosely” dựa vào phương pháp McCandless, trước tiên chiếu sáng diễn viên cho tầm nhìn, sau đó chiếu sáng phong cảnh, và bối cảnh cho bầu không khí và sự quan tâm. McCandless cũng đưa ra một phương pháp đơn giản của ánh sáng KHU VỰC cho sân khấu phiӘa ngoa ӗi ma ӗn. Phương pháp này phân chia các sân khấu ra một số khu vực nhỏ hơn và sau đó cung cấp cho mỗi khu vực 2 frontlight được gắn một số thiết bị khoảng cách cách nhau. Thiết bị phải được đặt chính xác để cung cấp các góc độ ánh sáng thích hợp và hướng ánh sáng vào diễn viên. Khu vực cũng phải được kiểm soát về kích thước, để tránh ánh sáng không cần thiết “tràn-spill” trên các khu vực hay phông cảnh liền kề. Một loại ánh sáng phía trước góc 70 độ (ngang) đến một diễn viên có thể khá phù hợp với chương trình, trong khi một góc dưới 50 độ có thể phù hợp hơn cho một vở kịch hài. Nếu tất cả các diễn viên đều đội nón, thì có thể cần đặt ánh sáng phía trước không quá 45 độ, để cung cấp thêm ánh sáng cho khuôn mặt của họ. 4.) LOẠI THIẾT BỊ CHO NHÀ HÁT Người thiết kế phải cẩn thận lựa chọn thiết bị làm việc có hiệu quả từ một vị trí chiếu sáng cụ thể (khoảng cách). Đối với hầu hết các ứng dụng ánh sáng sân khấu tổng quát, người thiết kế sẽ làm việc với chỉ năm (5) loại thiết bị cơ bản. Tuy nhiên, mỗi loại có sẵn một vài loại công suất, đường kính thấu kính và luồng sáng tỏa khác nhau. Các loại thiết bị cơ bản được xử dụng cho ánh sáng trong nhà hát là: FRESNEL, SPOTLIGHT ELLIOSOIDAL PAR, BOX FOODLIGHT và STRIPLIGHT. Công suất điển hình là 500-2000 watt. FOLLOWSPOT cũng đôi khi được xử dụng cho các vở kịch cách điệu, hài kịch. 3.03 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG CHO MÚA (DANCE) 1.) ÁNH SÁNG CHO MÚA Ánh sáng cho múa có nghĩa là cho tất cả các dạng thức trình diễn múa, bao gồm: Ballet, Hiện đại và Đương đại. Các dạng thức truyền thống hơn của múa thường được trình bày theo các điều kiện kiểm soát của một nhà hát thích hợp, với cơ sở vật chất kỹ thuật và ánh sáng hoàn chỉnh. Các hình thức khác của múa (Hiện đại và Đương đại) có thể được thoải mái trong không gian "tìm thấy-found" hay không quy ước (nonconventional). Trong khía cạnh này các địa điểm cho bộ môn múa có phạm vi từ phi Әa ngoaӗi ma ӗn nhà hát thanh lịch, đến tầng hầm nhà thờ và đến cả các trung tâm mua sắm. 2) ÁNH SÁNG CHO MÚA - KỸ THUẬT Ánh sáng thông thường thì chú tâm đến chiếu sáng mặt của diễn viên cho tầm nhìn. Ánh sáng múa trước hết quan tâm đến chiếu sáng dạng thức con người, nhấn mạnh đến tính tạo hình, sự thích thú và tác động cảm xúc và thứ hai mới đến khả năng hiển thị khuôn mặt. Trong nhà hát, ánh sáng mặt tiền thường cung cấp ánh sáng chính cho các khu vực diễn xuất. Ở Múa, ánh sáng hai bên lại là một nguồn chiếu sáng chính. Ánh sáng mặt tiền (frontlight), nếu được dùng, tất cả thường được dành cho việc cung cấp wash màu hay kỹ xảo. Ánh sáng hai bên cạnh cho múa đã được giới thiệu bởi Jean Rosenthal, một người thiết kế ánh sáng nổi tiếng của Mỹ vào đầu những năm 1940. "Hệ thống của tôi yêu cầu sào ánh sáng cố định dọc theo cạnh bên ở mọi lối vào, là một cơ sở cho sự linh hoạt và chiếu sáng toàn bộ sân khấu. Điều đó làm những điệu múa ballet nhìn khác nhau, đã khích động biên đạo múa và người thiết kế châu Âu cho “Ballet International vào năm 1944". (Rosenthal, The Magic of Light). Bà Rosenthal cũng đã làm việc với biên đạo múa người Mỹ nổi tiếng, Martha Graham, trong nhiều năm. Ngoài việc xử dụng rộng rãi ánh sáng bên, ánh sáng múa thường xử dụng “downlight” (tạo vũng sáng), và "backlight" (tạo bóng vũ công). Ánh sáng mặt tiền hiếm khi được xử dụng do đặc điểm “phẳng- flat” của nó, và vị trí này thường được dành riêng cho loại ánh sáng “colors wash”. Followspot cũng thường được xử dụng trong Ballet để làm nổi bật các vũ công chính. Kỹ thuật ánh sáng hai cạnh bên, thường đòi hỏi bố trí các sào ánh sáng theo chiều dọc trong mỗi “chân cánh gà” hay lối vào. Thông thường có thể yêu cầu 4-6 sào (mỗi bên). Mỗi sào có thể có một (1) thiết bị ánh sáng hay hơn (thường là 3-5). Các thiết bị (thường là ellipsoidals) có tiêu điểm thẳng qua sân khấu, và thường dùng “màn trập-shutter” off, ở phía đối diện, nơi bị sân khấu che đi. Một bộ gồm ba (3) sào thiết bị điển hình, có thể gắn thiết bị ở độ cao 10', 8’ và 1 ft, so với sàn sân khấu. Các thiết bị thường ở vị trí TOP, MID hay SHIN (ống quyển). Các thiết bị TOP và MID thường được xử dụng cho ánh sáng cạnh bên. Thông thường TOP và MID sẽ có bộ lọc màu khác nhau. Đèn bên dưới (ống quyển hay giữa ống quyển) được xử dụng truyền thống cho ánh sáng chân của các vũ công ballet, và để cho ra ánh sáng, dưới váy xòe (tutu). Người thiết kế vũ đạo hiện đại có thể xử dụng “ống quyển-shin” như là nguồn chủ yếu cho một góc độ ánh sáng không tự nhiên, thường có (nhiều) màu sắc mạnh. Nếu dùng shutter off đúng cách với sàn sân khấu, hiệu ứng này có thể làm cho các vũ công hiện ra sẽ “nổi- float” trên sàn sân khấu. Hiệu quả rất ấn tượng, đặc biệt là với màu sắc đối lập từ phía đối diện. 3.04 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG CHO OPERA 1.) ÁNH SÁNG CHO OPERA Ánh sáng cho opera được xử dụng để ám chỉ “opera lớn-grand'' truyền thống, tuy nhiên, ngày nay nó cũng có thể ám chỉ opera đương đại. Như vậy, opera có thể trình diễn trong phòng hòa nhạc vĩ đại nhất, hay chỉ trong một phần ngắn của sân khúc côn cầu (hockey). Opera là về âm nhạc, sân khấu, ca hát, diễn xuất và nhảy múa, và thiết kế ánh sáng cho opera thường là một sự kết hợp của kỹ thuật ánh sáng sân khấu múa và sân khấu âm nhạc. May mắn thay cho các người thiết kế ánh sáng, vì do sự cần thiết âm thanh tốt, hầu hết thiết kế opera chuyên nghiệp được thực hiện trong nhà hát hay khán phòng hòa nhạc. 2) ÁNH SÁNG OPERA - KỸ THUẬT Ánh sáng opera phải chiếu sáng ca sĩ cho rõ ràng, chú trọng tới các vũ công và dàn hợp xướng và cảnh quan cho có “không khí”. Opera có thể chỉ là chiếu đơn giản và thẳng về phía trước, hay rất phức tạp và cách điệu. Không phải là bất thường khi “tầm nhìn” xuất hiện từ trong “hư không-nowhere". Cũng không phải bất thường để có “ma quỷ-devil” thường xuyên xuất hiện hay biến mất trong suốt chương trình. Người thiết kế ánh sáng opera phải sẵn sàng cho việc này và còn nhiều hơn nữa. “Quy mô” của ánh sáng opera thường có thể vượt quá tầm của ánh sáng nhà hát, múa, sân khấu âm nhạc. Thông thường, opera sẽ xử dụng một không gian biểu diễn lớn. Sân khấu này thường lớn, bố trí ánh sáng thường là một “high trim” ở 28'-35' và thường phải chiếu sáng một số lượng lớn phong cảnh. Tiếp tục vấn đề phức tạp, thiết kế cho opera phải làm việc một cách nhanh chóng. Nói chung có ít thời gian để “chiếu sáng-light” một opera hơn là cho một sân khấu âm nhạc, nhà hát hay chương trình múa. Tập hợp diễn viên chuyên nghiệp và đội ngũ diễn viên phụ lại rất tốn kém (và quá nhiều người) và người thiết kế ánh sáng opera thường chỉ có một hay hai buổi diễn tập ánh sáng, trước khi mở chương trình. Hầu hết các ca sĩ opera giống như con bướm đêm và họ có khuynh hướng hút hướng chiếu tới của ánh sáng. Họ hiếm khi bỏ lỡ sự đặc biệt của họ và nếu họ làm, họ "tìm ánh sáng của họ” rất tốt và nhanh. Người thiết kế đã học được rằng không có vấn đề các đạo diễn có thể ngăn chặn (block) một vở opera như thế nào, hầu hết các ngôi sao opera sẽ ở vị trí dưới sân khấu (downstage) - ở phía trước nhạc trưởng, trong hầu hết thời gian. Bên cạnh đạo diễn opera, là Maestro (nhạc trưởng) chạy chương trình. Nhạc trưởng là một thành viên rất quan trọng của đội ngũ nghệ thuật và có liên quan với sự việc các ca sĩ và nhạc sĩ kết hợp âm thanh lại với nhau bằng cách nào. Trong khi biểu diễn, phải chú ý đến Maestro khi ông ta vào hố dàn nhạc. Hơn nữa bắt buộc các ca sĩ và nhạc sĩ, tất cả đều có thể thấy rõ ràng bàn tay của Maestros tại tất cả các thời điểm. Trong khía cạnh này, Downlight thường được dùng từ trên cao, chiếu sáng toàn người của nhạc trưởng, cánh tay và bàn tay của nhạc trưởng. Thường giả định rằng, người thiết kế ánh sáng opera phải nghe quen âm nhạc và thuộc vở opera mà họ đang làm ánh sáng, dĩ nhiên trừ khi chỉ mới bắt đầu làm ánh sáng cho một vở opera. Bắt buộc phải có kiến thức về opera là và thường phải giả định khi người thiết kế là người làm thuê. Nếu người thiết kế không biết về opera, họ có một cơ hội lớn để có bản tổng phổ và bản ghi âm (CD, Video, v.v) và dần quen thuộc với nó ngay cả trước khi họ tham dự buổi diễn tập đầu tiên của mình. Bảng tổng phổ (score) và ghi âm (recording) sẽ cung cấp sự hỗ trợ có giá trị: phân tích cảnh (scene breakdown), tâm trạng & không khí, ngăn chặn (blocking) và “cái nhìn ánh sáng-lighting looks" tổng quát. 3.05 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG NHẠC KỊCH 1.) ÁNH SÁNG NHẠC KỊCH Ánh sáng cho "âm nhạc", thường đề cập đến ánh sáng sân khấu cho chương trình nhạc kịch quy mô lớn (tại Broadway hay West End). Chương trình cổ điển bao gồm: "Dolly", "My Fair Lady", "The King & I”, ”Oklahoma “, “Showboat”, “Guys & Doll”, “Sound of Music", “Annie” v.v. Những vở nhạc kịch khác đương đại bao gồm: “Lion King","Phantom of the Opera", "Cats ", và còn nhiều nữa. Nhạc kịch điển hình chứa các yếu tố của kịch, múa, ca hát và âm nhạc. Một nhạc kịch nhỏ có thể có một dàn diễn viên chỉ 4 người biểu diễn và 2 nhạc sĩ. Một nhạc kịch lớn có thể có một dàn diễn viên 5- 10, diễn viên và vũ công và 50 nhạc sĩ. Vở nhạc kịch “di chuyển-move” nhanh chóng và thường có nhiều cảnh và địa điểm khác nhau. Chương trình nhạc kịch thông thường diễn ra phiӘa ngoài ma ӗn của nhà hát, với dàn nhạc nằm trong hố nhạc. Thông thường, nhà hát không bao giờ lớn, chỉ đủ để đáp ứng số lượng đầy đủ cảnh quan, ánh sáng, diễn viên, nhạc sĩ, và những gi cần thiết. Nhạc kịch thường có cấu trúc với nhiều scene thay thế, biểu diễn ở downstage với một phông nền khác. Điều này cho phép một scene đầy đủ đã được "cài sẵn-preset" upstage. Khi thả xuống, chúng ta chuyển thần kỳ sang một thiết lập một sân khấu mới. 2) ÁNH SÁNG NHẠC KỊCH - KỸ THUẬT Hầu hết các vở nhạc kịch “cổ điển'” cố gắng cho tính hiện thực. Đó là, nhiều scene được thiết kế quá hoang phí, rất giống thực tế và nội tâm hay biểu lộ khá xác thực. Về mặt này, ánh sáng được dự kiến sẽ tạo ra một tâm trạng, không khí và biểu thị cụ thể của thời điểm trong ngày. Thường thì thông tin này cũng được cung cấp bởi lời bài hát và kịch bản. Ngoài ra, các yếu tố của chủ nghĩa hiện thực được mong đợi bởi khán giả, nhạc kịch cũng có các yếu tố tưởng tượng và bất ngờ. Không phải là hiếm nếu suốt một bài hát, người biểu diễn bị hoàn toàn cô lập với đèn follow-spot, và sau đó đột nhiên "trở lại thực tế” ở cuối bài hát. Yếu tố khác có thể là để lấp đầy chương trình, với giàn đồng ca và các vũ công có yêu cầu thay đổi ánh sáng nhanh đầy màu sắc xuyên suốt vở kịch. Thông thường, nhạc kịch xử dụng followspots rất nhiều. Điều này cần thiết nếu diễn viên muốn được cô lập trong nhóm âm nhạc, và đặc trưng trong cảnh "ưa thích-book". Thường xử dụng hai (2) đến năm (5) followspots, từ trên trần của khán phòng. Followspots cũng đôi khi được dùng từ phía sau vòm bên ngoa ӗi ma ӗn (bridge spot) để cung cấp một góc chiếu sáng dốc hơn cô lập nhiều hơn cho sân khấu. Kỹ thuật ánh sáng cho âm nhạc đa dạng. Khả năng hiển thị thường được cung cấp bởi followspots. “Khu vực ánh sáng” thường cung cấp cho "cảnh ưa thích -book scenes", màu sắc; wash, sidelight và backlight thường được cung cấp cho chương trình và nhóm múa. Phông nền và màn vây được chiếu sáng để có sự quan tâm và tâm trạng. Nhạc kịch thường có ánh sáng “quyến rũ” (hay có hiệu ứng) mức độ cao. Strobes, neon, đèn hiệu (beacon), tracking bulb, trái châu, v.v, tất cả đều bình thường. 3.06 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG HÒA NHẠC (CONCERT LIGHTING) 1.) ÁNH SÁNG HÒA NHẠC (CONCERT) Năm 1960 là lĩnh vực tương đối mới của thiết kế ánh sáng hòa nhạc (hay giải trí) đã được sinh ra. Ở New York tại Filmore East và ở California tại Filmore West, âm nhạc phổ biến tổ chức thường xuyên hơn và với điều đó, một phong cách trình diễn mới đã được sinh ra bởi nhà thiết kế ánh sáng hòa nhạc nổi tiếng nhất người Mỹ trước nay là Monk Chip. Tại Filmore, ánh sáng hoạt động theo đúng nghĩa đen bao gồm các người vận hành thực sự "nhảy múa” trên một bức tường của autotransformer dimmers đồng thời với âm nhạc. Nhiều buổi biểu diễn trước đây tại Filmore, Electric Circus và các nơi khác khắp nước Mỹ, được hỗ trợ bởi một “light show”. Một số hiệu ứng chiếu hình bắn phá một màn hình lớn phía sau những người biểu diễn, tạo ra các mô hình ánh sáng năng động và liên tục thay đổi. Việc chiếu hình thường tạo ra những quan điểm xung đột, hết sức dơ bẩn hay hoàn toàn tạo ảo giác và đặc sắc. Thiết kế ánh sáng hòa nhạc đã trở thành một đặc trưng được công nhận và nhiều người thiết kế chỉ làm việc trong lĩnh vực này mà thôi. vẫn áp dụng các nguyên tắc cơ bản để thiết kế, chỉ khác là các đồ chơi lớn hơn, và đắt tiền hơn. 2) ÁNH SÁNG HÒA NHẠC - KỸ THUẬT Ánh sáng giải trí ngày nay đã trở nên rất thú vị. Ngành công nghiệp này bây giờ gần như độc quyền xử dụng thiết bị ánh sáng “tự động-automated”. vẫn xử dụng thiết bị thông thường, tuy nhiên ít và ít thường xuyên hơn. thiết bị PAR 64 vẫn còn rất phổ biến cho ánh sáng hòa nhạc, thiết bị này khá hiệu quả và tương đối rẻ tiền. Nó không phải là không phổ biến nếu kết hợp với color change, hiệu ứng chuyển động, hình ảnh và chiếu nền, panel mành hình, strobes, Blacklight, fog, pyro, ánh sáng đuổi và các hiệu ứng hình ảnh khác. Giới hạn của bầu trời... uh ... giới hạn của ngân sách. Thông thường tất cả các thiết bị được điều khiển bằng tín hiệu DMX từ một vị trí trung tâm. Ánh sáng hòa nhạc xử dụng các thiết bị tự động phụ thuộc rất nhiều vào hai người quan trọng – Người thiết kế ánh sáng và người lập trình . Vị trí của “người lập trình-programmer” được sinh ra trong năm 1980 vì thiết bị tự động bắt đầu có nhiều hơn và có công năng (và phức tạp) nhiều hơn nữa. Một người lập trình tốt sẽ hiểu rõ thiết bị của mình và có thể nhanh chóng xây dựng để có nhiếu “cái nhìn-looks” khác nhau, dựa trên các tiêu chí cơ bản của người thiết kế. Một lập trình viên dở mang đến rất ít và có thể làm cho một triệu đô la của thiết bị xem như mười xu! Cách khác, người một lập trình tốt có thể tạo ra kết quả tuyệt vời với rất ít thời gian và thiết bị. Hầu hết các người biểu diễn hòa nhạc cũng còn lưu diễn nữa, vì vậy ánh sáng hòa nhạc phải cực kỳ bền, đóng gói bao bì tốt, và phù hợp cho thiết lập (set-up) và tháo gỡ (take-down) nhanh chóng. Giàn sào (truss) ánh sáng “bay-flown” được phát triển cho ngành công nghiệp này và thường dùng để treo tất cả các thiết bị ánh sáng trên sân khấu. 3.07 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG QUẢNG TRƯỜNG (SÂN VẬN ĐỘNG) (ARENA) 1.) ÁNH SÁNG SÂN VẬN ĐỘNG Chiếu sáng cho "Arena" thường đề cập đến ánh sáng của các sự kiện quy mô lớn, bao gồm cả Rock show, hoạt cảnh, show trượt băng, xiếc và các chương trình giải trí khác khá lớn. Chỗ ngồi cho những sự kiện này có thể dao động từ 5.000 đến 25.000 khán giả, hay nhiều hơn. Thông thường có thể là một “sân khấu chính” ở một đầu của sân vận động, hay luân phiên, một số khu vực hiệu suất khác nhau, trên khắp toàn bộ sân vận động. Người biểu diễn thường bao gồm các diễn viên, ca sĩ, vũ công, nhạc sĩ, người trượt ván (skater), biểu diễn trên không (aerial) và những người biểu diễn khác. Sự kiện thường ngoạn mục và có thể xử dụng khói, sương mù, laser, pyro (pháo hoa), slide, chiếu phim hay video. Hơn nữa, thiết bị chiếu sáng luôn luôn bao gồm nhiều thiết bị tự động nếu ngân sách cho phép. Hai yếu tố rất quan trọng lĩnh vực ánh sáng arena là từ các dạng thức khác của ánh sáng sân khấu truyền thống. Đầu tiên, “quy mô-scale” lớn hơn nhiều so với quy mô nhà hát bình thường. Điều này đề cập đến quy mô của tất cả mọi thứ, bao gồm cả các khu vực biểu diễn và khán giả, cảnh quan, khoảng cách chiếu sáng và các loại thiết bị ánh sáng. Thứ hai, tất cả mọi thứ chỉ là gắn tạm thời. Thông thường, tất cả các thiết bị ánh sáng đặc biệt phải được đưa vào sân vận động, treo, cột và điều chỉnh, sau đó tháo bỏ (hạ xuống) sau sự kiện này. Ánh sáng nên được thiết kế để có sự “nhanh chóng“ và “hiệu quả" (không nhất thiết phải “nhanh chóng và bẩn”). 2) ÁNH SÁNG ARENA - KỸ THUẬT Khoảng cách chiếu sáng trên không trong nhà hát thông thường thường dao động từ 20-50 feet. Trong sân vận động, khoảng cách chiếu sáng có thể dao động từ 40-100 feet, hay nhiều hơn. Khoảng cách lớn hơn, đòi hỏi phải xử dụng đèn góc hẹp hơn và mạnh hơn so với dùng cho chiếu sáng sân khấu truyền thống. Thông thường, tất cả các thiết bị ánh sáng được treo (thường là treo & di dây điện sẵn) trên một số giàn sào ánh sáng (dài 20-60 feet). Lắp ráp giàn sào, bố trí trên nền sân, và sau đó kéo lên treo đúng vị trí bằng động cơ xích, gắn liền với các kết cấu mái nhà thép bên trên trên. Đội kỹ thuật ánh sáng được đào tạo tốt sẽ cố định nó từ mái nhà hay leo lên bằng dây thừng hay thang từ sàn sân khấu để tiếp cận từng giàn. Kế đó, họ đi bộ cẩn thận dọc theo các giàn và tập trung vào mỗi thiết bị từng cái một. Tác giả đã có một đội kỹ thuật có tay nghề cao với bốn (4) thợ điện canh chỉnh trên 300 thiết bị, cao 50 feet cách sàn sân khấu, chưa tới bốn (4) giờ. Thiết bị ánh sáng phù hợp cho các ứng dụng sân vận động bao gồm các ellipsoidals góc hẹp (5-20 độ) 1KW, 1KW. Par64-NSP, và 2KW. ellipsoidals, fresnels, và máy chiếu luồng sáng. đôi khi cũng xử dụng thiết bị HID với dimmers cơ khí. Thiết bị kỹ xảo thường bao gồm các thiết bị color scrollers và tự động (di chuyển). Followspot thường dùng số lượng lớn cho sự kiện sân vận động (arena). Thông thường, các followspots được bố trí ở trên cao trên trần nhà chung quanh chu vi các bức tường. Mỗi loại thiết bị ánh sáng hấu hết có từ bốn 4 - 8 thiết bị trở lên. Một số chương trình lưu diễn yêu cầu cung cấp nhất quán từ địa điểm này đến địa điểm khác, dùng followspots riêng của họ, gắn trong các khung sào chiếu sáng tạm thời. 3.08 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG NGOÀI TRỜI (OUTDOOR) 1.) ÁNH SÁNG NGOÀI TRỜI Ánh sáng cho sân khấu ngoài trời bao gồm cả không gian mở hay mở một nửa. Chương trình có thể bao gồm kịch drama, thi sắc đẹp (pageant), nhạc kịch, múa, hòa nhạc, show rock, lễ hội, diễu hành, và nhiều loại khác hay các sự kiện sân khấu. Các phương tiện ngoài trời có thể thay đổi từ một khu vực mở, một nửa sân vận động, đến một phương tiện nhà hát hay âm nhạc xây dựng đặc biệt. Thông thường, sân khấu được bao quanh hay được che phủ nhưng khán giả thì không có gì. Đôi khi chỉ cần đảo ngược là đúng. phương tiện ngoài trời được định hướng để ánh nắng mặt trời chiếu sáng sân khấu, hướng từ phía sau khán giả. Điều này thường tạo ra khả năng hiển thị tối đa và giữ cho tầm nhìn trực tiếp của ánh nắng mặt trời từ phía khán giả. Phương tiện tinh vi hơn sẽ kèm theo sân khấu với một “stagehouse”, một số cung cấp đầy đủ phương tiện “bay-flying”. Thường thì sự kiện ngoài trời đều “hẹn giờ-timed” để bắt đầu vào buổi tối trước khi mặt trời lặn, và kết thúc trong bóng tối của ban đêm. Một trong khái niệm cơ bản mà người thiết kế ánh sáng làm việc trên một sân khấu ngoài trời phải học là: “Thật không dễ cạnh tranh với mẹ thiên nhiên”. Ánh sáng sân khấu trong một ngày nắng sáng là hầu như không cần và không có tác động. Ánh sáng sân khấu trong một ngày có mây hay u ám có thể có một số tác động, nhưng thường tốt nhất là chỉ cung cấp ánh sáng cơ bản. Suốt ngày, người thiết kế có thể cần phải cung cấp hàng trăm kW ánh sáng đến chỗ cần đôi khi chỉ là một đối tượng nhỏ trên sân khấu. Ánh sáng chỉ có thể để lấp đầy trong bóng tối là tốt nhất. Nếu đột nhiên một đám mây đi qua mặt trời, mức độ ánh sáng sân khấu dường như tăng lên đáng kể.Tuy nhiên, khi mặt trời đã bắt đầu lặn, một thiết bị chỉ cần 1 kilowatt là có thể tạo sáng hơn với khán giả hơn hàng trăm KW trước đây yêu cầu cung cấp cho đối tượng cùng một hình ảnh. Tôi thường xuyên thiết kế ánh sáng sân khấu âm nhạc chuyên nghiệp ngoài trời lớn nhất của Canada – Sân khấu cầu vồng (sân khấu bao bọc). Cơ sở này nằm trong một trong những công viên lớn nhất và đẹp nhất của Winnipeg, không xa trung tâm thành phố. Cơ sở 2.500 chỗ ngồi được bao phủ bằng một mái vòm đường kính 200 feet, và quang cảnh cây cỏ, bên dưới. Xuất diễn 1 thường bắt đầu lúc 8:00 pm và đòi hỏi gần như tất cả ánh sáng phải ĐẦY ĐỦ do mức độ ánh sáng ban ngày của môi trường chung quanh khá cao trong khán phòng và ánh sáng đèn hầu như không được chú ý đến. Chậm - nhưng đều đặn, mặt trời bắt đầu lặn, ánh sáng trở nên đáng chú ý hơn. Phải cần thực hiện các thao tác điều chỉnh liên tục để bù đắp cho ánh sáng ban ngày của môi trường chung quanh đã bắt đầu tối. Thời điểm mặt trời đã lặn hẳn, lúc nàu chỉ cần ánh sáng ít hơn nhiều để cung cấp cho đối tượng, so với vài phút trước đó. Sự kiện ngoài trời thường liên quan đến các địa điểm rộng với khán giả nhiều. Về mặt này thiết bị ánh sáng sân khấu được xử dụng mạnh và hiệu quả nhất. Thiết bị PAR 64 1000 watt là một sự lựa chọn phổ biến cho các ứng dụng ánh sáng ngoài trời, do kích thước nhỏ gọn, trọng lượng nhẹ và hiệu quả cao. Thiết bị H.I.D. (high intensity discharge) cũng được xử dụng, với bộ đổi màu tự động và dimmers. Followspots công suất cao cũng khá phổ biến cho các sự kiện ngoài trời. 3.09 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG TRƯNG BÀY (DISPLAY) 1.) ÁNH SÁNG TRƯNG BÀY Ánh sáng trưng bày bao gồm tất cả các ánh sáng cho việc buôn bán thương mại, bao gồm chiếu sáng cho cửa sổ các cửa hàng và vật trưng bày trong cửa hàng. Phương pháp này được thảo luận ở đây vì có những cá nhân có thể thực hành ánh sáng trưng bày nhiều hơn so với chiếu sáng sân khấu, chỉ có điều họ hầu hết không biết điều đó. Người thiết kế ánh sáng trưng bày thường không phải là người thiết kế ánh sáng, họ chỉ đơn giản là người "làm ra ánh sáng- does the lights". Về khía cạnh rèn luyện, mục tiêu và cách tiếp cận có khác nhau đáng kể. Ánh sáng trưng bày thường được thực hiện bởi người “trưng bày gian hàng-display department” của cửa hàng bách hóa lớn hay của các thành viên của đội ngũ bán hàng, và về mặt này không có tiêu chuẩn cụ thể. Thế giới của ánh sáng trưng bày và ánh sáng sân khấu là cả hai hoàn toàn khác nhau nhưng lại hoàn toàn tương tự. Hiếm khi có sự khác nhau trong thiết kế ánh sáng sân khấu và ánh sáng trưng bày, nếu liên hệ chúng với nhau. Ánh sáng gian hàng trưng bày và ánh sáng sân khấu khá tương tự, trong đó hầu hết các mục tiêu và phương pháp đều giống nhau. Sự khác biệt cơ bản duy nhất là quy mô nhỏ hơn và thiết bị có công suất thấp hơn, thường xuyên gặp phải trong lĩnh vực ánh sáng trưng bày. Các mục tiêu tương tự như các mục tiêu của ánh sáng sân khấu trong ánh sáng trưng bày là phải tạo ra tầm nhìn, tâm trạng, quan tâm, tác động và nó phải truyền đạt được một cái gì đó - ngay cả khi khái niệm này chỉ là để bán hàng. 2) ÁNH SÁNG TRƯNG BÀY - KỸ THUẬT Khoảng cách chiếu sáng khác nhau, từ 6-20 feet - ngắn hơn so với khoảng cách thường dùng trong các ứng dụng ánh sáng sân khấu. Vì lý do này, ánh sáng làm cho việc trưng bày xử dụng các thiết bị có góc chiếu tương đối rộng. Thiết bị ánh sáng cho trưng bày thường nhỏ và chắc gọn hơn so với các thiết bị nhà hát. Thiết bị trưng bày điển hình bao gồm “ellipsoidal reflector” 3,5", Fresnel 3" và một số thiết bị trưng bày đặc biệt. Thiết bị trưng bày đặc biệt bao gồm cả hai loại: điện áp nhà đèn (120/240) và điện áp thấp của 'R' (chóa) và đèn “PAR”, gắn vào vỏ bao nhỏ. Pinspot cũng khá phổ biến. Công suất tiêu biểu của đèn trưng bày dao động từ khoảng 100-300 watt. “Ánh sáng-rọi theo-track lighting” thường được dùng cho cửa sổ trưng bày và ánh sáng trưng bày trong cửa hàng thông thường. Một số thiết bị khác nhau có sẵn rất đơn giản, chỉ cấn “bẻ-clip” để rọi theo, vì vậy ánh sáng có thể thay đổi nhanh chóng như những thay đổi của vật trưng bày. Hãy chắc chắn rằng dùng bất cứ thiết bị nào mà nó có thể dùng thêm một phụ kiện lọc màu. Hầu hết đều không có. 3.10 – ÁNH SÁNG TRUYỀN HÌNH (TV) & VIDEO 1.) ÁNH SÁNG TRUYỀN HÌNH Ánh sáng cho truyền hình bao gồm truyền hình thương mại và mạch kín (closed circuit), các chương trình video chuyên nghiệp - hay phát sóng trực tiếp & ghi lại (recording). Phương pháp thiết kế ánh sáng truyền hình cuối cùng được sinh ra từ việc thực hành kết hợp ánh sáng của sân khấu và nhiếp ảnh. Hiện nay, ước tính trên toàn thế giới có những thiết kế thực sự làm việc trong các lĩnh vực ánh sáng video và truyền hình, hơn bất cứ bộ môn ánh sáng nào khác. Các người thiết kế truyền hình được biết đến như ĐẠO DIỄN ÁNH SÁNG (LIGHTING DIRECTOR) Cả hai loại, thiết kế ánh sáng truyền hình lẫn sân khấu có thể được coi là một hình thức nghệ thuật, ít nhất cũng là trợ thủ đắc lực. Trong khi các người thiết kế sân khấu quan tâm nhất với mắt của khán giả phản ứng với ánh sáng, thiết kế ánh sáng truyền hình quan tâm nhiều hơn với việc camera phản ứng ra sao với ánh sáng. Thuở sơ khai của truyền hình, camera đen trắng đầu tiên có nhu cầu ánh sáng khoảng 250 foot- candle hay nhiều hơn. Khi camera màu ra đời, thường yêu cầu có ánh sáng nhiều hơn. Trong những thập kỷ vừa qua, lượng ánh sáng cần thiết cho tín hiệu hình ảnh tốt đã giảm đều đặn, cũng như công nghệ camera truyền hình đã được cải thiện. Hiện nay tuy chưa phổ biến, các camera màu nghệ thuật đòi hỏi ít hơn 50 f.c Người thiết kế ánh sáng truyền hình không chỉ quan tâm đến độ sáng (footcandles), họ cũng quan tâm đến chất lượng của ánh sáng, cũng giống như là người thiết kế ánh sáng sân khấu. Người thiết kế ánh sáng truyền hình cũng quan tâm với nhiệt độ màu và độ tương phản (tương phản giữa người biểu diễn và các thiết lập chung quanh hay bối cảnh nền-background). Trong thực tế, người thiết kế ánh sáng truyền hình quan tâm nhiều hơn về độ tương phản (contract), hay cụ thể là sự khác biệt về độ tương phản, ở khắp mọi nơi trên toàn lĩnh vực hình ảnh. Điều này thực tế là do camera truyền hình ghi nhận một phạm vi tương phản ít hơn nhiều so với mắt người. Mặc dù mắt người có thể điều chỉnh độ tương phản trong các lĩnh vực của tầm nhìn có tỷ lệ 100.000:1, camera truyền hình chỉ có thể xử lý trong phạm vi tương phản 100:1, là cao nhất. Kỹ thuật ánh sáng truyền hình cũng cần cung cấp một mức độ quan tâm hay cân bằng hình ảnh thị giác. Thông thường, người thiết kế truyền hình sẽ tạo ra một ánh sáng hướng mạnh KEY LIGHT đến một nghệ sĩ biểu diễn từ một bên và một ánh sáng nhẹ nhàng hơn FILL LIGHT ít dữ dội, ở một góc khoảng 90 độ ánh sáng KEY. Tiếp theo, một ánh sáng BACK thường được dùng để giúp đỡ trực quan biểu diễn riêng biệt từ phía sau. Như trong nhà hát, một lần người biểu diễn được chiếu sáng cho khả năng hiển thị (hay tín hiệu, thích hợp với TV), nền (background) và khung cảnh (surrounding) chung quanh được chiếu sáng để cân bằng thị giác, (BASE LIGHT). Thiết bị ánh sáng TV tương tự như thiết bị sân khấu ngoại trừ nó thường lớn và có công suất cao hơn. Các đèn Fresnel 2,5 và 10 Kw thường được xử dụng cho ánh sáng KEY, và BACK. Thiết bị khác bao gồm SCOOP và FLOOD thường được xử dụng để làm đầy ánh sáng nền. Hầu hết các thiết bị TV được thiết kế để lấy tiêu điểm và điều chỉnh từ sàn studio bằng cách xử dụng một “long pole". 3.11 - ÁNH SÁNG PHOTO và NHIẾP ẢNH 1.) ÁNH SÁNG NHIẾP ẢNH Ánh sáng nhiếp ảnh chỉ là một hình thức nghệ thuật như là thiết kế ánh sáng sân khấu. Nói chung, không có tên gọi như là người thiết kế ánh sáng “chụp ảnh”. Nhiếp ảnh gia thường làm ánh sáng cho riêng mình và như vậy, họ có trách nhiệm về tất cả các yếu tố nghệ thuật của hình ảnh, bao gồm cả ánh sáng, độ tương phản, cân bằng, bố cục, phong cách, ấn tượng, tâm trạng, v.v Các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp phải biết các thuộc tính của bộ phim của mình liên quan đến độ lộ sáng (exposure), độ bão hòa (saturation) và độ tương phản (contract) thích hợp. Mặc dù mắt người có thể điều chỉnh một trong phạm vi rộng “độ sáng- brightness), tất cả cùng một lúc trong lĩnh vực thị giác, máy ảnh và phim có thể không làm được. Độ tương phản bị giới hạn, có lẽ không quá 3:01 đối với một số loại phim. Đôi khi các người thiết kế ánh sáng sân khấu sẽ có mặt trong tiến trình sản xuất để làm việc với một nhiếp ảnh gia, làm phim tài liệu hay cảnh chụp quan hệ công cộng của tác phẩm. Người thiết kế có thể giúp các nhiếp ảnh gia bằng cách bảo đảm rằng có ánh sáng đáng quan tấm ở nơi cần thiết. Ngoài ra, nền phong cảnh và cycloramas hiện ra đầy đủ ánh sáng cho mắt, có thể xảy ra màu tối, xám xịt và thiếu sáng cho phim.Thêm ánh sáng bổ sung cho những yếu tố này là cần thiết để giảm chủ đề về tương phản của phông nền (background). Thông thường nhiếp ảnh gia cho nhà hát sẽ xử dụng máy tốc độ cao, phim đen trắng hay màu. Phim dương bản (slide) vẫn còn được ưa thích bởi hầu hết các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, đối với phim màu, độ bão hòa màu sắc cao hơn và do thực tế rằng họ "tái tạo-reproduce” tốt hơn làm bản in, cho hầu hết các ứng dụng. 2) ÁNH SÁNG NHIẾP ẢNH - KỸ THUẬT Ánh sáng tự nhiên và ánh sáng studio, cả hai thường được xử dụng cho các ứng dụng ánh sáng chụp ảnh. Ánh sáng studio là thường dựa trên gốc cơ bản của McCandless. Hai đèn chiếu sáng được đặt ở mức 45 độ với nhau, ở phía trước của đối tượng. Thường thì loại ánh sáng sáng hơn (KEY LIGHT) được dùng để cung cấp một cảm giác có định hướng và động lực. Ánh sáng khác (FILL LIGHT), có cường độ hơi thấp hơn và "mềm hơn", được xử dụng để lấp đầy chỗ tối tạo ra bởi ánh sáng chính. Và ánh sáng “nghịch-back” với chủ đề, giúp cô lập các đối tượng từ phía sau. Ánh sáng bổ sung sau đó chiếu sáng cho background khi cần thiết. Có rất nhiều kỹ thuật ánh sáng nhiếp ảnh thể hiện trong nhiều sách về nhiếp ảnh. Một trong những kỹ thuật yêu thích của tôi là như sau: Để chụp ảnh một căn phòng rất lớn, (nhà thờ, giảng đường, v.v) với ánh sáng bị thiếu, làm như sau: Chọn một tốc độ và độ nhạy phim sao cho phép có thể lộ sáng 3-5 phút. Sau đó, mở ống kính và đi khắp gian phòng với đèn flood 1000 watt, “sơn” đồng đều tất cả các bề mặt. Tất cả các bề mặt trong hình ảnh này sẽ được lộ sáng, và "thợ sơn ánh sáng" sẽ vô hình, không lộ diện nếu họ đã di chuyển đủ nhanh. Đơn giản chỉ cần “sơn” nhiều ánh sáng hơn ở bề mặt tối hơn hay chi tiết cần bổ sung. Bắt buộc phải có nhiều lần thử nghiệm với tiến trình này. 3.12 – ÁNH SÁNG PHIM VÀ ẢNH ĐỘNG (MOTION PICTURE) 1.) ÁNH SÁNG FILM Ánh sáng cho phim là một hình thức nghệ thuật trong chính nó. Chỉ cần chứng kiến, nhiều tác phẩm điện ảnh tốt (và không tốt) trong những thập kỷ qua. Ngoài ra, phim là một phương tiện tuyệt vời và có giá trị để nắm bắt và sau đó nghiên cứu ánh sáng và kỹ thuật ánh sáng. Ánh sáng cho phim là một cuộc hôn nhân giữa cameraman, bộ phim của mình và phòng lab. Kỹ thuật ánh sáng cho phim phụ thuộc nhiều vào kiến thức để đánh giá từng bộ phim sẽ phản ứng với từng loại ánh sáng về cường độ (intensity), độ tương phản (contract) và độ màu như thế nào. Một trong nhiều phẩm chất hình ảnh có sẵn là cách thao tác, độ lộ sáng, độ màu và xử lý phim. 2) ÁNH SÁNG FILM - KỸ THUẬT Cả hai: ánh sáng ban ngày lẫn các nguồn sáng nhân tạo đều được xử dụng cho ánh sáng phim. Thiết bị ánh sáng cho ngành công nghiệp điện ảnh tương tự như thiết bị ánh sáng sân khấu, ngoại trừ chúng lớn hơn và có công suất cao hơn. Mặc dù vẫn dùng thiết bị đốt tim, thiết bị mới xử dụng nguồn H.I.D, bây giờ cũng thường được xử dụng. Đèn Fresnel, Flood mặt mở (mở rộng) và “9 light” là tất cả các thiết bị ánh sáng phim phổ biến. Thiết bị “9 light”, bao gồm 9 bóng đèn PAR gắn kết trong một ma trận 3 x 3. Điều này cung cấp một “nguồn kích cỡ lớn”, và rất tuyệt vời cho ánh sáng “key” hay ánh sáng động lực. Nhiệt độ màu và cân bằng màu rất quan trọng trong ánh sáng phim. Thông thường các nguồn sẽ được cân bằng bằng cách xử dụng các bộ lọc hiệu chỉnh màu sắc, qua riêng mỗi thiết bị, hay chính trên ống kính của camera. Ánh sáng phim xử dụng rất nhiều các thiết bị phản chiếu (với nhiều loại bề mặt khác nhau) để thu nhận và phản chiếu ánh sáng và “lấp đầy-fill” chỗ bị tối. Thiết bị ánh sáng thường được gắn cao qua đầu, trên chân đứng hay trên xe tải. Khi máy phát điện lớn “vào chỗ-on location”, “hàng dặm-miles” dây cable điện được xử dụng để cung cấp năng lượng cho các thiết bị. 3.13 – ÁNH SÁNG BẢO TÀNG VÀ PHÒNG TRƯNG BÀY NGHỆ THUẬT (MUSEUM & ART GALLERY) 1.) ÁNH SÁNG BẢO TÀNG VÀ PHÒNG TRƯNG BÀY NGHỆ THUẬT Ánh sáng cho các bảo tàng và phòng trưng bày luôn luôn là một thách thức. Thường xuyên làm việc này là chính các nhân viên viện bảo tàng. Mặt khác, một người thiết kế ánh sáng sân khấu hay chuyên gia ánh sáng khác có thể được tham gia để cung cấp sự hỗ trợ. Ánh sáng của các đối tượng của nghệ thuật phải được tiếp cận với sự chăm sóc. Cũng nên biết rằng những tác động có hại từ bức xạ hồng ngoại và tia cực tím có thể thường xuyên gây thiệt hại gần như bất kỳ đối tượng nào, tùy thuộc vào mức độ phơi nhiễm. Mặc dù các bảo tàng hay người thiết kế ánh sáng phòng trưng bày có thể muốn ánh sáng cho sự quan tâm, chú ý và khả năng hiển thị, quan tâm đầu tiên của họ phải là bảo quản được hiện vật quý và các đồ tạo tác. Trong khía cạnh này, các nhân viên phụ trách của viện bảo tàng hay phòng trưng bày thường xuyên sẽ áp đặt sự hạn chế ánh sáng rất nghiêm ngặt đối với từng bề mặt trực diện hay phòng. Ngay cả ngày nay cũng có những tiêu chuẩn cho thấy những mức độ tiếp xúc an toàn với tia hồng ngoại và tia cực tím cho các đối tượng quý hiếm này. Nhiều người quản lý giả thuyết là không. Các nghiên cứu khác cho phép mức độ của ánh sáng khác nhau (footcandles hay lux) dựa trên vật liệu, xây dựng, điều kiện và quý hiếm của đối tượng – so với các thuộc tính cụ thể của nguồn ánh sáng được xử dụng. Không cần phải nói, ánh sáng cho các hiện vật quý phải được xem xét rất cẩn thận. Chúng ta đã biết rằng những tác động có hại của bức xạ cực tím và hồng ngoại vẫn được tích lũy. Đó là, độ phơi nhiễm dài (thời gian) sẽ lớn hơn những thiệt hại. Trong trường hợp có liên quan đến ánh sáng tự nhiên, không nên để ánh sáng mặt trời rọi trực tiếp vào các hiện vật nhạy cảm, bao gồm tranh vẽ, bản vẽ, đồ họa in, thảm trang trí, ... Các hiện vật này có thể bị hư hỏng do nhiệt (IR) và tẩy trắng bởi tia cực tím. Ánh sáng tự nhiên mức độ cao gián tiếp, nói chung cũng nên tránh, ngoại trừ cho các hiện vật chắc chắn và bền hơn. Trong trường hợp cần thiết, để hạn chế những tác động có hại từ một hệ thống chiếu sáng nhân tạo, người thiết kế trước hết phải chọn một nguồn thấp trong cả hai loại: bức xạ hồng ngoại lẫn tia cực tím. Nguồn nóng sáng thường là nguồn của sự lựa chọn. Tuy nhiên, tia sáng của thiết bị ánh sáng chiếu hiện vật thông thường, thường có một chùm tia nóng có thể được phát hiện dễ dàng với bàn tay của một người ở một khoảng cách một vài feet. Điều này đặc biệt đúng với một số loại đèn PAR, R và MR. Nhiệt đến một đối tượng có thể được hạn chế bằng cách tăng khoảng cách chiếu sáng nhưng cũng mất một số ánh sáng tương ứng. Cách khác, có thể xử dụng đèn lưỡng sắc đặc biệt có thể loại bỏ các thành phần hồng ngoại từ các chùm tia ánh sáng đi qua bức xạ này thông qua chóa phản chiếu ở phía sau của đèn. Bức xạ cực tím từ thiết bị đốt tim hiếm khi có vấn đề như tia cực tím ít tồn tại vì đã bị “lọc ra” khỏi chùm ánh sáng bởi ống kính trong suốt của đèn. Một số nguồn halogen vonfram có thể sản xuất mức độ tia cực tím cao hơn (và khó chịu), tuy nhiên các nguồn này có thể bị lọc với một bộ lọc ngăn chặn tia cực tím có sẵn từ hầu hết các nhà cung cấp thiết bị sân khấu. 3.14 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG KIẾN TRÚC (ARCHITECTURAL) 1.) ÁNH SÁNG KIẾN TRÚC Gián tiếp liên quan đến thiết kế ánh sáng sân khấu, thiết kế ánh sáng kiến trúc là một lĩnh vực tương đối mới, trở thành phổ biến từ năm 1970. Thiết kế ánh sáng kiến trúc đề cập đến kế hoạch chiếu sáng cho cả hai: nội thất lẫn không gian bên ngoài. Xem thêm: Ánh sáng cảnh quan. Thông thường, đối với hầu hết các tòa nhà building (thương mại và công nghiệp) "chiếu sáng" theo quy định của các KỸ SƯ ĐIỆN (ELECTRICAl ENGINEER). Người tư vấn này thường chịu trách nhiệm tổng quát về các hệ thống điện, phân phối điện năng, hệ thống âm thanh, hệ thống báo cháy và ánh sáng. Thỉnh thoảng, một KỸ SƯ CHIẾU SÁNG (ILLUMINATING ENGINEER) có thể chỉ định việc chiếu sáng. Thông thường khi các kỹ sư chỉ định một hệ thống chiếu sáng, họ quan tâm nhất việc cung cấp sự chiếu sáng thích hợp cho các việc làm liên quan đến công việc cụ thể. Thiết kế ánh sáng là một nhiệm vụ bổ sung khá mới với đội ngũ kiến trúc. Mặc dù thường không phải là một kỹ sư, chuyên gia tư vấn này sẽ chỉ định tất cả các loại ánh sáng và tiêu chuẩn chiếu sáng. Họ sẽ làm việc trực tiếp với các chuyên gia tư vấn khác (kiến trúc, cấu trúc, cơ khí và điện) để bảo đảm rằng hệ thống chiếu sáng được thiết kế, thật chi tiết và có sức thu hút. Ánh sáng kiến trúc chiếu sáng xa nhiều hơn. Người thiết kế ánh sáng kiến trúc có thể quan tâm sao cho chiếu sáng các tòa nhà và không gian thật đúng. Họ có thể quan tâm đến mức độ, hiệu quả xử dụng và an toàn ánh sáng. Tuy nhiên, người thiết kế ánh sáng kiến trúc cũng nên quan tâm rất nhiều đến hiệu suất và ảnh hưởng tốt lành của con người, trong một không gian kiến trúc. Thiết kế chiếu sáng tốt luôn luôn làm việc hướng tới sự giải quyết các tiêu chí cụ thể. Ánh sáng kiến trúc có thể cung cấp “nhìn thấy được-see-ability” cơ bản cho các nhiệm vụ cụ thể, hay có thể hỗ trợ về hiệu ứng, thẩm mỹ, tiện nghi, an toàn, sức khỏe, và tốt lành. Người thiết kế ánh sáng kiến trúc phải hiểu biết đầy đủ cả hai: tính chất vật lý của ánh sáng lẫn các hiệu ứng tâm lý của ánh sáng. Họ cũng phải thành thạo với tiến trình thiết kế và xây dựng kiến trúc và phải có khả năng để thiết kế có trách nhiệm trong phạm vi ngân sách. 2) ÁNH SÁNG KIẾN TRÚC - KỸ THUẬT Có hàng trăm hãng sản xuất trên thế giới chuyên sản xuất thiết bị ánh sáng kiến trúc. Thiết bị có tất cả các loại hình, hình dạng và kích cỡ. Nghĩa đen, tồn tại hàng ngàn thiết bị khác nhau, cho những ứng dụng khác nhau. Thiết bị có thể xử dụng đèn đốt tim, đèn huỳnh quang. Nguồn H.I.D. thường được xử dụng nếu có thể vì nó được đánh giá cao về tính hiệu quả và có độ bền rất dài. Thiết bị ánh sáng sân khấu hiếm khi dùng cho ánh sáng kiến trúc. Thiết bị sân khấu xử dụng bóng đèn loại “photo'” với tuổi thọ tương đối thấp, và thiết bị không được thiết kế để hoạt động liên tục. Ánh sáng kiến trúc (như ánh sáng sân khấu) xử dụng sự kết hợp giữa kỹ thuật đèn flood và spotlight. Thiết bị thường được bố trí đèn chiếu xuống (downlight), tuy nhiên một số ứng dụng có thể yêu cầu chiếu lên (uplighting) hay chiếu cạnh (side lighting) cho ra hiệu ứng rất lớn. 3.15 THIẾT KẾ ÁNH SÁNG CẢNH QUAN (LANDSCAPE) 1.) ÁNH SÁNG CẢNH QUAN Nghệ thuật của ánh sáng cảnh quan thường kết hợp với lĩnh vực thiết kế ánh sáng kiến trúc. Các lĩnh vực chiếu sáng cảnh quan cũng liên quan chặt chẽ với loại hình kiến trúc đặc biệt tương đối mới, kiến trúc sư cảnh quan. Người thiết kế ánh sáng cảnh quan chịu trách nhiệm về thiết kế ánh sáng lớn ngoài trời (thường) bao gồm chủ yếu là thực vật và lá cây. Thông thường việc thiết kế bao gồm ánh sáng, cây xanh, hồ bơi, cầu, đường dẫn, đài phun nước, tác phẩm điêu khắc, băng ghế, các khu vực còn lại và nhiều hơn nữa. Người thiết kế chiếu sáng cảnh quan có các mục tiêu tương tự như các loại thiết kế ánh sáng khác. Họ thường chiếu sáng cho khả năng tầm nhìn, không khí, tâm trạng và sự quan tâm. Cũng như thiết kế ánh sáng sân khấu cho một bài thuyết trình ấn tượng, người thiết kế ánh sáng cảnh quan cũng thường có một mối quan tâm bổ sung rằng họ thường phải tạo ánh sáng an toàn và không khí đầu tiên, và thứ hai là sự tác động. 2) ÁNH SÁNG CẢNH QUAN - KỸ THUẬT Chiếu sáng cảnh quan thường dùng đèn có điện áp thấp loại nhỏ (miniature). Bắt buộc phải có một hệ thống điện thế thấp để bảo đảm an toàn hơn và giảm nguy cơ bị điện giật, vì thiết bị và hệ thống dây điện thường hoạt động trong môi trường ẩm ướt. Thiết bị thường nằm trên mặt đất để uplight cho các cây và bụi cây hay có thể được đặt trên cây uplight (hay downlight) thân cây. Các đèn cảnh quan khác bao gồm việc xử dụng các cột (bollard) chiếu sáng. Những cái cột này như thiết bị có rất nhiều loại và thường được xử dụng để thắp sáng đường đi, lá cây hay các khu vực bên ngoài khác. Cột đèn trang trí, có số lượng không giới hạn của thiết kế cũng thường được xử dụng. Thông thường, ánh sáng cảnh quan được đặt trên một hệ thống điều khiển có thể biến hệ thống "mở” hay “tắt" vào các thời điểm cụ thể. Cách khác, một hệ thống có thể xử dụng một điều khiển dùng tế bào quang điện, biến hệ thống mở vào lúc hoàng hôn và tắt lúc bình minh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthiet_ke_as_sk_1_6531.pdf
Tài liệu liên quan