Từ những điều được phân tích ở trên có
thể nhận thấy rằng, hệ thống chính trị của
mỗi quốc gia được nhìn nhận là một cấu
trúc phức tạp bao gồm các đảng phái chính
trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội. Việc xác lập cấu trúc và
tổ chức hoạt động của chúng đều phải tuân
theo các quy luật khách quan tất yếu. Con
người là tổng hòa các quan hệ xã hội, đồng
thời cũng là một tế bào - thể chế thu nhỏ
của quốc gia. Trong hệ thống chính trị, thì
thể chế chính trị là vấn đề cơ bản. Thể chế
chính trị phản ánh hệ thống chính trị của quốc
gia. Mỗi thể chế chính trị đều có những nét
đặc thù riêng, phản ánh tính đa dạng của các
quốc gia. Tuy nhiên, chúng cũng đều mang
tính phổ biến, phản ánh quy luật chung, khách
quan của đời sống chính trị, xã hội loài người
khi nhà nước xuất hiện. Việc đổi mới thường
xuyên hệ thống chính trị ở các quốc gia là rất
cần thiết, nhằm tạo sự phát triển bền vững của
quốc gia. Điều đó cũng có nghĩa là, đổi mới và
phát triển có thể được nhìn nhận như một cặp
song hành trong quá trình tiến hóa của xã hội
loài người. Đổi mới hệ thống chính trị của
quốc gia luôn phải gắn liền với đổi mới thể chế
chính trị, tức đổi mới cấu trúc của thể chế đó
làm sao cho hợp lý, vừa phải đảm bảo đầy đủ
các bộ phận chức năng cần thiết, lại vừa phải
thật tinh gọn, hoạt động hoàn hảo đáp ứng
được các yêu cầu về quản trị quốc gia, thực
hiện phát triển bền vững nhằm đạt được các
mục tiêu đặt ra
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 784 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thể chế chính trị và hệ thống chính trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3
Thể chế chính trị và hệ thống chính trị
Nguyễn Hữu Đổng1
Tóm tắt: Hệ thống chính trị là khái niệm cơ bản của chính trị học, được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu. Trong hệ thống chính trị, thì thể chế chính trị là cốt lõi. Thể chế chính trị phản ánh hệ
thống chính trị của mỗi quốc gia. Do vậy, để nhận thức khái niệm hệ thống chính trị cần phải nhận
thức rõ khái niệm thể chế chính trị. Bài viết phân tích các khái niệm hệ thống chính trị, thể chế
chính trị, đồng thời chỉ ra việc đổi mới hệ thống chính trị cũng như thể chế chính trị là yêu cầu cần
thiết khách quan của mỗi quốc gia hiện đại trong quá trình phát triển.
Từ khóa: Khái niệm; hệ thống chính trị; thể chế; thể chế chính trị.
Abstract: The political system is a fundamental concept of the political science, which has been studied by
many scientists. The core of the system is political institutions, which reflect the political system of each
country. Therefore, to apprehend the concept of the political system, it is necessary to apprehend well that of
political institutions. The paper analyses the two concepts and points out the objective demand for all modern
countries, during their development process, to renovate their political system and political institutions.
Keywords: Concepts; political system; institutions; political institutions.
1. Đặt vấn đề
Thể chế chính trị và hệ thống chính trị đã
được đề cập đến nhiều ở Việt Nam sau đổi
mới. Tuy nhiên, các khái niệm này chưa
được các nhà khoa học phân tích, làm rõ về
mặt học thuật. Do vậy, có không ít những
khó khăn trong việc nghiên cứu vấn đề này.
Ở Việt Nam hiện nay, các khái niệm này
càng cần được luận giải sáng tỏ để làm cơ
sở cho việc xây dựng các thể chế, đáp ứng
yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
Bài viết này góp phần làm rõ thêm về nội
dung, bản chất của các khái niệm thể chế
chính trị và hệ thống chính trị.
2. Thể chế chính trị
Thể chế được hiểu một cách cô đọng
nhất là “những nguyên tắc xác định mối
quan hệ giữa xã hội và các thành viên trong
xã hội”. Xét về hình thức,1thể chế ở các
quốc gia cho đến nay được biểu hiện ở các
loại hình cơ bản như sau: thể chế kinh tế,
thể chế chính trị và thể chế văn hóa, tức các
thể chế trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và
văn hóa. Các loại hình thể chế (tiểu thể chế)
này gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo nên một
“đại thể chế” - quốc gia.
Thể chế kinh tế là các quy định của luật
pháp, các nguyên tắc xác định quyền tự do,
dân chủ của người dân trong các hoạt động
kinh tế. Điều đó có nghĩa là, thể chế kinh tế
xác lập các quyền của người dân về tự do,
dân chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh
và dịch vụ; đồng thời, nó đảm bảo sự tồn tại
1 Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Chính trị học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. ĐT:0983600506.
Email:nguyenhuudong52@gmail.com
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (107) - 2016
4
và duy trì sự cân đối giữa hai khu vực kinh
tế tư nhân và kinh tế nhà nước. Hai khu vực
kinh tế mang tính đối lập (độc lập) này
được nhìn nhận là hai hình thức cơ bản,
cùng với hai hình thức kinh tế ngành và
kinh tế vùng tạo nên cơ cấu kinh tế của mỗi
quốc gia.
Thể chế chính trị là các quy định của luật
pháp, các nguyên tắc xác định tổ chức và
hoạt động của các lực lượng (đảng phái)
chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức xã hội. Theo đó, trong hệ
thống chính trị luôn tồn tại hai lực lượng
chính trị đối lập với nhau: lực lượng chính
trị cầm quyền và lực lượng chính trị đối lập.
Lực lượng chính trị cầm quyền là các đảng
phái chính trị đã “hóa thân” [2] vào nhà
nước sau khi “thắng cử” trong các cuộc bầu
cử cạnh tranh theo quy định của luật pháp,
trừ một số trường hợp ngoại lệ (đặc biệt) do
hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia. Lực
lượng chính trị đối lập ở đây là lực lượng có
“ý kiến đối lập”, lực lượng “đứng ở phía
đối ngược lại” [8, tr.338] đối với lực lượng
cầm quyền. Khái niệm đối lập ở đây không
đồng nhất với khái niệm đối kháng. Đối lập
chỉ có thể dẫn đến đối kháng khi các mặt đó
“không thể dung hòa được” [8, tr.338] với
nhau. Lực lượng chính trị đối lập được
tham chính với các mức độ khác nhau tùy
thuộc vào sự tương quan lực lượng, hay các
quan điểm, văn hóa truyền thống và văn
hóa cầm quyền [3] của đảng chính trị cầm
quyền, đặc biệt phụ thuộc vào các quy định
của luật pháp.
Thể chế văn hóa là các quy định của luật
pháp về tổ chức, hoạt động của các tổ chức
xã hội trong các lĩnh vực như văn hóa
nghệ thuật, báo chí, y tế, giáo dục đào tạo,
thể thao du lịch Trong các lĩnh vực này
đều có các tổ chức xã hội mang tính đối
lập (độc lập), như các tổ chức thuộc nhà
nước và các tổ chức xã hội dân sự. Các tổ
chức xã hội dân sự hoạt động một cách
độc lập và chịu sự quản lý của nhà nước
bằng pháp luật.
Với cách tiếp cận thể chế dưới các hình
thức tiểu thể chế nêu trên, đại thể chế (một
quốc gia) cũng được nhìn nhận tương tự
như cơ thể của một con người, trong đó,
biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng các hình
thức (tiểu thể chế) cơ bản như sau: hai cẳng
chân tương tự như hai mặt đối lập giữa khu
vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư
nhân, bao gồm cả các lĩnh vực ngành nghề,
vùng kinh tế; hai cánh tay tương tự như hai
mặt đối lập giữa các lực lượng chính trị
(đảng) cầm quyền và các lực lượng chính
trị (đảng) đối lập; còn các cặp giác quan
(hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi) tương tự như
các cặp đối lập giữa các tổ chức thuộc nhà
nước và các tổ chức xã hội dân sự (tổ chức
xã hội độc lập).
Trong các hình thức thể chế được phân
tích ở trên, thể chế chính trị phản ánh hệ
thống chính trị của quốc gia. Điều đó có
nghĩa là, muốn nhận thức rõ hệ thống chính
trị của một quốc gia, cần phải nhận thức rõ
thể chế chính trị của quốc gia đó. Trong
mỗi quốc gia hiện đại đều có thể chế chính
trị với những yếu tố mang tính phổ biến và
những yếu tố mang tính đặc thù phụ thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể của quốc gia. Các bộ
phận cấu thành của thể chế chính trị cũng
đều tuân theo các quy luật khách quan tất
yếu của tự nhiên và xã hội. Việc tổ chức và
hoạt động của các bộ phận trong thể chế
chính trị có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ
Nguyễn Hữu Đổng
5
quan đầu não của quốc gia. Nếu ví quốc gia
như cơ thể một con người - tế bào của xã
hội - thì bộ não và trái tim của người đó
được coi là hai cơ quan chính thực hiện
chức năng điều khiển sự hoạt động của các
bộ phận cơ thể, trong đó có đôi tay - thể chế
chính trị. Do vậy, nói đến hệ thống chính trị
của một quốc gia trong xã hội hiện đại tức
là nói đến một cấu trúc phức tạp bao gồm
các tiểu thể chế của thể chế chính trị như
các đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ
chức xã hội với các chức năng nhất định;
đồng thời, sự hoạt động của chúng luôn gắn
liền với các cơ quan đầu não của quốc gia.
Cơ quan đầu não của quốc gia (quyền lực
tối thượng) được coi là chủ quyền nhân dân
thông qua bản hiến pháp - khế ước xã hội.
Nói một cách khác, trong một quốc gia thì
chủ quyền nhân dân (quyền lực của nhân
dân) được coi như bộ não, có vị trí tối
thượng và nằm ở đỉnh đầu; mọi tổ chức
đảng phái chính trị, cơ quan quyền lực nhà
nước, các tổ chức xã hội đều chỉ là các bộ
phận, có vị trí thấp hơn quyền lực của nhân
dân. Theo quy luật khách quan, mọi tổ
chức, bộ phận của thể chế chính trị đều phải
chịu sự chi phối, điều khiển bởi quyền lực
của nhân dân thông qua hiến pháp và các
đạo luật. Khi có những biểu hiện trái ngược
với quy luật này thì tất yếu sẽ dẫn đến
những hệ lụy, tổn hại đến sự phát triển xã
hội nói chung cũng như phát triển kinh tế,
văn hóa nói riêng của quốc gia. Chẳng hạn,
khi ví quốc gia thu hẹp là một con người,
thì việc vi phạm quy luật này sẽ biến thể
chế chính trị trở thành độc tài, độc đoán,
mất dân chủ. Nói một cách ví von là đã có
sự biểu hiện vung tay quá trán. Trán ở đây
là muốn nói đến phần trên của mặt từ chân
tóc đến lông mày - phần ngang bằng với vị
trí tối thượng của bộ não (hiến pháp) - nhân
dân. Còn tay ở đây là chủ yếu nói đến các
khớp khuỷu tay và bàn tay trở xuống -
tương tự như các cơ quan tư pháp và hành
pháp, hành chính.
3. Hệ thống chính trị
Từ các cách tiếp cận nêu trên có thể
nhận thấy rằng, hệ thống chính trị là một
khái niệm của xã hội hiện đại, bởi vì, nói
đến hệ thống chính trị là nói đến sự xuất
hiện, tồn tại của các đảng phái trong đời
sống chính trị, xã hội. Đồng thời, khi có
một đảng hay liên minh các đảng chính trị
thực hiện vai trò cầm quyền thì sự cầm
quyền đó đều biểu hiện một cách khách
quan bằng hai cánh tay - hình thức biểu
hiện bề ngoài của thể chế chính trị. Trong
đó, cánh tay phải có thể được nhìn nhận
như các lực lượng chính trị chính thống (đa
số) cầm quyền; còn cánh tay trái có thể
được nhìn nhận như các lực lượng chính trị
phụ giúp (thiểu số - đối lập) cầm quyền. Do
vậy, trong mỗi quốc gia hiện đại, chủ quyền
nhân dân hay nhân dân nắm quyền lực bao
giờ cũng phải bằng hai cánh tay; hai cánh
tay đó được nhìn nhận như hai mặt đối lập
giữa các lực lượng chính trị cầm quyền và
các lực lượng chính trị đối lập.
Ở mỗi quốc gia trong xã hội hiện đại,
các tổ chức chính trị (đảng phái), tổ chức
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội đều tồn tại trong đại thể chế
nói chung và trong tiểu thể chế chính trị
nói riêng.
Các tổ chức chính trị (đảng phái) tồn tại
và hoạt động trong thể chế chính trị, tức
hoạt động thông qua cấu trúc tổ chức bộ
máy nhà nước bằng hai cánh tay. Do vậy,
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (107) - 2016
6
các đảng viên của các đảng chính trị theo
quy định của luật pháp, hiện diện một cách
khách quan trong các cơ quan lập pháp và
cơ quan hành pháp tùy theo đặc điểm cụ thể
trong thể chế chính trị của quốc gia. Việc
đảm bảo sự cân đối hợp lý, hợp tác với
nhau giữa các đảng viên của các đảng chính
trị trong lực lượng cầm quyền và lực lượng
đối lập có vai trò quan trọng trong hoạt
động cầm quyền (quản trị) của mỗi quốc
gia. Khi số lượng đảng viên của các đảng
phái chính trị trong bộ máy cầm quyền có
sự chênh lệch quá mức, tức thiếu cân bằng
giữa lực lượng chính trị cầm quyền và lực
lượng chính trị đối lập, hoặc thiếu sự hợp
tác với nhau giữa chúng thì có thể sẽ dẫn
đến các hệ lụy trong việc thực hiện vai trò
quản trị (lãnh đạo, quản lý) trong quốc gia, đặc
biệt là ở các quốc gia có luật pháp nói chung và
luật về đảng chính trị nói riêng không chặt chẽ,
thiếu tính nghiêm minh. Ngoài ra, khi nói tới
vai trò lãnh đạo, quản lý của các nhà cầm quyền
quốc gia có nghĩa là nói tới vai trò quản trị của
họ. Lãnh đạo và quản lý (chỉ đạo, điều hành) là
hai khái niệm khác nhau, không đồng nhất với
nhau. Lãnh đạo là các hoạt động nhưng các
hoạt động đó không sử dụng tới công cụ quyền
lực; còn quản lý là các hoạt động sử dụng tới
công cụ quyền lực như luật pháp, quy chế, quy
định, kiểm tra, giám sát tùy từng hoạt động
cụ thể. Hoạt động lãnh đạo được nhìn nhận như
việc sử dụng quyền lực “mềm”; hoạt động quản
lý được nhìn nhận như việc sử dụng quyền lực
“cứng”; còn hoạt động quản trị được nhìn nhận
như việc sử dụng quyền lực “thông minh”, tức
kết hợp cả hoạt động lãnh đạo và hoạt động
quản lý.
Các tổ chức, cơ quan của bộ máy nhà
nước tồn tại và hoạt động thể hiện chủ yếu
về hình thức ở bề ngoài các bộ phận trong
thể chế chính trị, tức trên hai cánh tay như
đã nêu ở trên. Chẳng hạn, phía đầu khớp
trên của cánh tay có thể được coi là cơ quan
lập pháp; khớp khuỷu tay có thể được coi là
cơ quan tư pháp; khớp bàn tay trở xuống có
thể được coi là cơ quan hành pháp và các
chính quyền địa phương; còn các ngón tay
có thể được coi là các bang hay chính
quyền địa phương với ba cấp chính quyền
(tỉnh, huyện, xã) tương tự theo các khớp
của ngón tay. Ba cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp tồn tại độc lập và không thể
thiếu trong thể chế chính trị của mỗi quốc
gia. Sự hoạt động (vận hành) của ba cơ
quan này đều phải chịu sự điều khiển của
bộ não (hiến pháp và các đạo luật) do nhân
dân thỏa thuận lập ra. Do vậy, cơ quan lập
pháp chỉ có thể được coi là cơ quan quyền
lực nhà nước tối cao của thể chế chính trị
trong quốc gia chứ không phải là cơ quan
quyền lực cao nhất của quốc gia. Trong ba
cơ quan này, cơ quan tư pháp được nhìn
nhận như cơ quan trọng tài, tương tự như
một cán cân công lý nhằm duy trì sự cân
bằng giữa hai cơ quan lập pháp và hành
pháp - các cơ quan đều có xu hướng phá vỡ
sự cân bằng giữa chúng. Khi cơ quan tư
pháp không được độc lập, nghĩa là có sự chỉ
đạo của một cá nhân hay tập thể nào đó,
nhất là của nhà nước (đảng chính trị cầm
quyền) thì lập tức nó không giữ được thế
cân bằng giữa hai cơ quan lập pháp và hành
pháp. Điều này cũng có nghĩa là, trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
cần phải đảm bảo tính minh bạch gắn với
trách nhiệm giải trình của các cá nhân và
các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Luận
cứ này được chứng minh bởi một thực tế là,
Nguyễn Hữu Đổng
7
trong cánh tay (thể chế chính trị), cơ quan
lập pháp và hành pháp chỉ có thể giữ được
thế cân bằng giữa chúng khi chúng hoạt
động trong khuôn khổ mặt lật ngửa của
cánh tay, tức đảm bảo sự công khai, minh
bạch. Còn ngược lại, khi trong bộ máy nhà
nước thiếu sự công khai, minh bạch, hay
che giấu sự thật, tức là hoạt động của cánh
tay đã theo hướng lật úp, sẽ dẫn đến nguy
cơ diễn ra các hậu quả khó lường của thể
chế chính trị như bất cân bằng giữa các cơ
quan lập pháp và hành pháp, hay các tình
trạng độc đoán, chuyên quyền, thiếu dân
chủ trong thể chế chính trị.
Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội (các hội) cũng tồn tại và hoạt động
trong thể chế chính trị, ngoài sự tồn tại và
hoạt động trong thể chế kinh tế và văn hóa.
Trong thể chế chính trị, các tổ chức này tồn
tại và hoạt động thông qua việc tham gia
của một số thành viên vào bộ máy cầm
quyền của quốc gia, đặc biệt trong cơ quan
lập pháp. Trong một số trường hợp, có một
số thành viên của các hội, đặc biệt là trong
các giáo hội cũng có vai trò nhất định trong
bộ máy cầm quyền của quốc gia tùy thuộc
vào các đặc điểm lịch sử, truyền thống văn
hóa, pháp luật của mỗi quốc gia. Ở một số
quốc gia trong xã hội hiện đại, do những
hoàn cảnh đặc thù, có sự hiện diện của các
tổ chức chính trị - xã hội, dạng như tổ chức
Mặt trận - tổ chức đặc thù trong quốc gia.
Mặt trận là một tổ chức chính trị - xã hội
được hình thành, hoạt động do nhu cầu thực
tiễn và phụ thuộc vào từng giai đoạn, phù
hợp với các đặc điểm cụ thể của quốc gia.
Mặt trận được hình thành, phát triển phụ
thuộc rất lớn vào quan điểm, ý chí của các
đảng chính trị, vào truyền thống văn hóa
dân tộc, đặc điểm thể chế chính trị của quốc
gia. Mặt trận chính là một tổ chức nhằm để
thống nhất, bảo đảm sự đồng thuận, đoàn
kết giữa các lực lượng chính trị cầm quyền
và các lực lượng chính trị đối lập, hay giữa
nhà nước và xã hội, giữa đảng chính trị cầm
quyền và các giai tầng trong xã hội. Nếu
trong một quốc gia hiện đại không có các
lực lượng chính trị đối lập hay không có các
tổ chức xã hội dân sự độc lập, thì sự hiện
diện của Mặt trận cũng sẽ ít có tác dụng.
Bởi lúc đó, sự hiện diện của tổ chức này
thường chỉ mang tính hình thức, vì chúng
đã bị chi phối, tác động bởi lực lượng chính
trị cầm quyền.
Mặt trận là tổ chức chính trị - xã hội,
biểu tượng của sự “thống nhất” giữa các tổ
chức chính trị, xã hội, phù hợp với hoàn
cảnh ở các quốc gia khi có xảy ra các cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc hay nội
chiến. Tổ chức này thường chỉ phát huy
hiệu quả khi trong các quốc gia hiện đại có
sự tồn tại các tổ chức xã hội dân sự hay còn
gọi là xã hội công dân. Bởi khi đó, Mặt trận
mới thực sự đóng vai trò là một tổ chức
trung tâm tạo sự đồng thuận, kết nối (đoàn
kết) giữa các đảng phái chính trị, giữa các
tổ chức nhà nước và các tổ chức xã hội dân
sự. Tổ chức Mặt trận như vậy chỉ có thể tạo
được sự đoàn kết trong quốc gia khi biết đặt
lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết,
đồng thời biết giải quyết hài hòa các lợi ích
giữa các giai tầng trong xã hội. Trong xã
hội hiện đại, hình thức tạo sự thống nhất,
đồng thuận như dạng Mặt trận cũng có thể
được nhận thấy trong các thể chế kiểu quân
chủ lập hiến, khi mà trong đó có sự tồn tại
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (107) - 2016
8
mang tính tượng trưng của các “ngôi vua”
(Quốc vương, Nữ hoàng).
4. Kết luận
Từ những điều được phân tích ở trên có
thể nhận thấy rằng, hệ thống chính trị của
mỗi quốc gia được nhìn nhận là một cấu
trúc phức tạp bao gồm các đảng phái chính
trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội. Việc xác lập cấu trúc và
tổ chức hoạt động của chúng đều phải tuân
theo các quy luật khách quan tất yếu. Con
người là tổng hòa các quan hệ xã hội, đồng
thời cũng là một tế bào - thể chế thu nhỏ
của quốc gia. Trong hệ thống chính trị, thì
thể chế chính trị là vấn đề cơ bản. Thể chế
chính trị phản ánh hệ thống chính trị của quốc
gia. Mỗi thể chế chính trị đều có những nét
đặc thù riêng, phản ánh tính đa dạng của các
quốc gia. Tuy nhiên, chúng cũng đều mang
tính phổ biến, phản ánh quy luật chung, khách
quan của đời sống chính trị, xã hội loài người
khi nhà nước xuất hiện. Việc đổi mới thường
xuyên hệ thống chính trị ở các quốc gia là rất
cần thiết, nhằm tạo sự phát triển bền vững của
quốc gia. Điều đó cũng có nghĩa là, đổi mới và
phát triển có thể được nhìn nhận như một cặp
song hành trong quá trình tiến hóa của xã hội
loài người. Đổi mới hệ thống chính trị của
quốc gia luôn phải gắn liền với đổi mới thể chế
chính trị, tức đổi mới cấu trúc của thể chế đó
làm sao cho hợp lý, vừa phải đảm bảo đầy đủ
các bộ phận chức năng cần thiết, lại vừa phải
thật tinh gọn, hoạt động hoàn hảo đáp ứng
được các yêu cầu về quản trị quốc gia, thực
hiện phát triển bền vững nhằm đạt được các
mục tiêu đặt ra.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Hữu Đổng (Chủ biên) (2009), Đảng
và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống
chính trị Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
[2] Nguyễn Hữu Đổng (2013), “"Đảng hóa thân
vào Nhà nước" trong đổi mới phương thức
cầm quyền của Đảng ta”, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 17.
[3] Nguyễn Hữu Đổng (2014), “Văn hóa cầm
quyền và xây dựng văn hóa cầm quyền của
Đảng”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8.
[4] Nguyễn Hữu Đổng (2015), “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về thể chế “Đảng lãnh đạo
Nhà nước” ở nước ta”, Thông tin Chính trị
học, Viện Chính trị học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, số 1.
[5] Nguyễn Hữu Đổng (2015), “Vấn đề “nguyên
tắc tập trung dân chủ” trong tổ chức, hoạt động
của Đảng và Nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 10.
[6] Nguyễn Hữu Đổng, Phạm Thế Lực (2015),
“Tính phổ biến và tính đặc thù của con đường
đi lên xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”,
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5.
[7] Hồ Sĩ Quý (2014), Một số vấn đề về Dân chủ,
Độc tài và Phát triển, Viện Thông tin khoa học
xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
[8] Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng
Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học,
Hà Nội - Đà Nẵng.
[9] N.M.Voskresenskaia và N.B.Davletshina (2009),
Chế độ dân chủ - Nhà nước và xã hội, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26406_88756_1_pb_3061_2007454.pdf