Tập huấn - Trao đổi với phụ nữ mại dâm về phòng chống HIV

Bản báo cáo này là một phần trong bộ các báo cáo về quan điểm của ba nhóm có nguy cơ lây truyền HIV cao: phụ nữ mại dâm, những người nghiện chích ma túy, và nam tình dục đồng giới, về sự thay đổi hành vi của họ trong phòng ngừa HIV. Nếu độc giả muốn có các bản báo cáo này, xin liên hệ với FHI, số điện thoại 84-4-934-8560 hoặc qua địa chỉ email: fhivn@fhi.org.vn. Bản báo cáo này được thực hiện với sự tham gia của các giáo dục viên sức khỏe và các cán bộ tư vấn và xét nghiệm tự nguyện (VCT). Đặc biệt chân thành cảm ơn chị Mai Hoàng Anh đã phân tích và tổng hợp các tài liệu. Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế tại Việt Nam (FHI/Vietnam) xuất bản báo cáo này với sự hỗ trợ kinh phí của Kế hoạch Hỗ trợ khẩn cấp cho Phòng chống HIV/AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR) thông qua Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID).

pdf20 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 1957 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tập huấn - Trao đổi với phụ nữ mại dâm về phòng chống HIV, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV Vietnamese and americans in partnership to fight hiV/aids 2 Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV Bản báo cáo này là một phần trong bộ các báo cáo về quan điểm của ba nhóm có nguy cơ lây truyền HIV cao: phụ nữ mại dâm, những người nghiện chích ma túy, và nam tình dục đồng giới, về sự thay đổi hành vi của họ trong phòng ngừa HIV. Nếu độc giả muốn có các bản báo cáo này, xin liên hệ với FHI, số điện thoại 84-4-934-8560 hoặc qua địa chỉ email: fhivn@fhi.org.vn. Bản báo cáo này được thực hiện với sự tham gia của các giáo dục viên sức khỏe và các cán bộ tư vấn và xét nghiệm tự nguyện (VCT). Đặc biệt chân thành cảm ơn chị Mai Hoàng Anh đã phân tích và tổng hợp các tài liệu. Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế tại Việt Nam (FHI/Vietnam) xuất bản báo cáo này với sự hỗ trợ kinh phí của Kế hoạch Hỗ trợ khẩn cấp cho Phòng chống HIV/AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR) thông qua Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Nội dung Thực Trạng 4 PháT hiện chính 5 những trở ngại đối với hành vi thường xuyên sử dụng bao cao su 5 1. Khách hàng nam giới quyết định việc sử dụng bao cao su 5 2. Quan niệm sai lầm về lây truyền HIV 5 3. Nhận thức kém về nguy cơ cá nhân ở nhóm khách hàng nam giới và một số PNMD 6 4. Khó khăn khi thương lượng với người yêu hay bạn tình thường xuyên về việc sử dụng bao cao su 7 5. Nỗi lo bị mất người yêu hay bạn tình thường xuyên 7 6. Bao cao su không sẵn có và khó tiếp cận đối với PNMD 8 Khuyến nghị của PNMD nhằm cải thiện việc thường xuyên sử dụng bao cao su 8 những trở ngại đối với việc tiếp cận các dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện (VcT) & dịch vụ khám và điều trị các bệnh lây truyền qua tình dục (STi) 9 1. Không biết về các trung tâm dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện & dịch vụ khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục 9 2. Lo sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử 9 3. Trở ngại về kinh tế: Chi phí thuốc men và đi lại 10 4. Tính thuận tiện và chất lượng của các dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện & dịch vụ khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục 10 Khuyến nghị của PNMD để cải thiện việc sử dụng các dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện & dịch vụ khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục 12 những trở ngại đối với việc giảm hành vi tiêm chích không an toàn 13 1. Ý thức về nguy cơ cá nhân thấp khi phải chịu cơn vã thuốc 13 2. Khả năng tiếp cận với bơm kim tiêm sạch rất hạn chế 13 3. Dùng chung bơm kim tiêm với bạn tình thường xuyên và bạn bè 14 Khuyến nghị của PNMD nhằm giảm hành vi tiêm chích không an toàn 14 KếT luận Và Khuyến nghị 16 Tăng cường việc thường xuyên sử dụng bao cao su 16 Tăng cường việc sử dụng các dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện & dịch vụ khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục 17 Giảm hành vi tiêm chích không an toàn 18 4 Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV Trao đổi với phụ Nữ mại dâm để cải ThiệN các caN Thiệp Số liệu từ Chương trình giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) 2005 -2006 cho thấy các chương trình dự phòng HIV tập trung vào nhóm phụ nữ mại dâm (PNMD) cần giải quyết được một số rào cản hành vi chủ yếu thì mới có thể bảo vệ một cách hiệu quả nhóm đối tượng này và khách hàng, bạn tình thường xuyên của họ không bị lây nhiễm HIV và các bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Các hành vi nguy cơ chủ yếu của PNMD tại tất cả các tỉnh thành được tiến hành điều tra bao gồm: Tỷ lệ thường xuyên sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục với khách hàng và bạn tình • thường xuyên thấp Khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện (VCT) và khám định • kỳ STI thấp Tỷ lệ dùng chung bơm kim tiêm trong nhóm phụ nữ mại dâm nghiện chích ma túy khá cao• Điều tra IBBS đã đưa ra được các số liệu rất giá trị về mức độ lây nhiễm HIV, STI, các hành vi nguy cơ, và việc tiếp cận với các can thiệp của nhóm PNMD. Tuy nhiên, các số liệu định lượng từ điều tra IBBS chưa thể giúp các nhà quản lý chương trình và giáo dục viên sức khỏe hiểu được nguyên do tại sao các hành vi nguy cơ vẫn tiếp diễn và tại sao việc tham gia vào các can thiệp lại thấp ở một số trường hợp. Với sự hỗ trợ về kỹ thuật của Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế tại Việt Nam (FHI/Việt Nam) và tài trợ kinh phí của USAID/PEPFAR, các giáo dục viên sức khỏe và nhân viên VCT đã triển khai một cuộc đánh giá nhanh để tìm hiểu một số nguyên nhân tiềm ẩn mang tính cá nhân, xã hội và môi trường có tác động đến hành vi nguy cơ của PNMD. Họ đã tiến hành đánh giá nhanh nhóm đối tượng đích ở Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, và Cần Thơ, thông qua phương pháp tiếp cận tại cộng đồng. Qua những cuộc trao đổi sử dụng bộ câu hỏi mở với PNMD đường phố và PNMD nhà hàng, các nhân viên VCT đã phần nào tìm hiểu được quan niệm của họ về nguy cơ, về những rào cản đối với việc thực hiện các biện pháp tình dục an toàn, những gợi ý của nhóm đối tượng này về các biện pháp giúp cải thiện khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ VCT và STI, cũng như quan điểm về những trở ngại trong việc giảm hành vi tiêm chích không an toàn đối với PNMD nghiện chích ma túy. Các cuộc phỏng vấn không mang tính chất là một nghiên cứu định tính dân tộc học mà chỉ là những cuộc phỏng vấn nhanh giữa các giáo dục viên sức khỏe và đối tượng đích, trong khuôn khổ qui trình đảm bảo nâng cao chất lượng hoạt động. Phương pháp này có thể sẽ dẫn đến việc một số thông tin thu thập còn có những hạn chế. Tuy nhiên, nó tạo điều kiện cho các giáo dục viên sức khỏe hiểu sâu thêm về các nhu cầu của nhóm đối tượng đích, giúp ích cho công việc hàng ngày của họ. Thực trạng 5Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV 1. Khách hàng nam giới quyết định việc sử dụng bao cao su Hầu hết PNMD cho biết đa số các trường hợp không dùng bao cao su là do quyết định của khách hàng nam giới. Nhiều PNMD cho biết mặc dù họ đã cố gắng thuyết phục và khích lệ khách hàng dùng bao cao su, nhưng bị từ chối. Các PNMD đề cập rượu là một yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của khách hàng. Theo lời những PNMD này, trong một vài trường hợp, mặc dù họ đã tiết lộ tình trạng HIV dương tính của mình, khách hàng vẫn từ chối sử dụng bao cao su. “Hầu như mấy ông đi chơi không chịu xài là mấy ông xỉn không hà, lúc mấy ông xỉn nói mấy ông không nghe.” -PNMD đường phố, Cần Thơ Hơn nữa, nhiều PNMD nói rằng có những khách hàng trả thêm tiền để họ không dùng bao cao su. Trong những trường hợp như thế, lợi ích tài chính từ hành vi tình dục không an toàn lấn át động cơ bảo vệ bản thân khỏi lây nhiễm HIV/STI. PNMD có thể chấp nhận nguy cơ này vì nhu cầu tài chính hoặc vì không ý thức được nguy cơ đối với họ. “Nhiều ông mình cũng thuyết phục nhưng cho mình thêm 50-60 nghìn để mình không dùng, mà không nghe ông ấy không được.” -PNMD đường phố, Hà Nội “Có lần đi khách chỉ có 50.000 đồng. Ban đầu kêu đi bao ông cũng chịu nhưng khi vào phòng ông kêu không đi bao thì 200.000 đồng.” -PNMD đường phố, TP HCM 2. Quan niệm sai lầm về lây truyền HIV PNMD trong nhiều trường hợp cho biết cả họ và khách hàng của họ đều không nghĩ là HIV hay STI có thể lây truyền qua quan hệ tình dục bằng đường miệng hoặc hậu môn. Khách hàng nam giới cũng có quan niệm sai lầm rằng xuất tinh ra ngoài thì không bị nhiễm. “Trước đây có biết đâu, đâu biết là HIV lây qua đường miệng và đường hậu môn, mình không biết và khách cũng không biết là HIV cũng lây qua đường miệng.” -PNMD đường phố, Hà Nội NhữNG TrỞ NGại đỐi với hÀNh vi ThƯỜNG XUYÊN SỬ dụNG Bao cao SU phát hiện chính 6 Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV 3. Nhận thức kém về nguy cơ cá nhân ở nhóm khách hàng nam giới và một số PNMD PNMD nói rằng nhận thức về nguy cơ trong nhóm khách hàng còn rất thấp và đó chính là trở ngại đối với việc sử dụng bao cao su. Trong nhiều trường hợp, PNMD cho biết họ rất sợ bị nhiễm HIV hay STI nhưng khách hàng của họ lại không hề tỏ ra sợ hãi về điều này. “…họ cho rằng đã chịu chơi thì không sợ gì hết [sợ bị nhiễm], mất tiền chơi mà vẫn phải dùng bao thì về nhà ngủ với vợ còn sướng hơn.” -PNMD đường phố, Hà Nội “...[khách hàng của tôi nói] anh không sợ thì thôi chứ em lo gì.” -PNMD đường phố, Hà Nội “Họ không sợ hậu quả. Họ tự khẳng định bản thân không mang bệnh nên không cần tự vệ.” -PNMD nhà hàng, Cần Thơ Một vài PNMD cho rằng họ không có nguy cơ bị lây nhiễm HIV và tin rằng họ cũng không là nguy cơ cho người khác vì họ rất trẻ, khoẻ mạnh hoặc vì họ luôn giữ gìn vệ sinh cá nhân. “Với cả ngày trước ở bên Trung Quốc người ta cũng thường dạy bọn em như thế, dùng nước rửa vệ sinh và cứ một tuần thì đi truyền nước – cái loại nước kháng sinh cao cấp ấy 120 ngàn một chai, truyền loại đấy bảo đảm không bị làm sao vì nó phòng chống bệnh tốt lắm, tăng sức đề kháng cho cơ thể.” –PNMD đường phố, Hà Nội “Tụi em ở đây giữ kỹ lắm nên không có nguy cơ đâu” -PNMD nhà hàng, TP HCM “Nghiện nên tắm ít nhưng riêng cái đó thì chơi xong là phải rửa không thì ngứa, rát không thể chịu được, cứ rửa xong sạch sẽ là không sao.” -PNMD đường phố, Hà Nội Ngoài ra, một số phụ nữ lầm tưởng rằng họ sẽ không bị nguy cơ nếu khách hàng của họ trẻ trung, khỏe mạnh hay có địa vị xã hội tốt. “Các ông ấy kể ra cũng toàn là người tử tế, cũng là sếp này sếp nọ ở các cơ quan lớn cả đấy chứ.” -PNMD nhà hàng, Hà Nội. “Em không biết, nhìn anh ấy to cao như vậy thì không có bệnh gì cả.” -PNMD nhà hàng, Hà Nội “Lần đó có thằng khách đàng hoàng lắm, dân làm việc mà. Chị thấy nó lịch sự, đẹp, không có gì nên chị đi với nó không xài bao. Chị đâu có sợ vì thằng này nó làm công an mà, nó không nhiễm đâu.” -PNMD nhà hàng, Cần Thơ 7Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV 4. Khó khăn khi thương lượng với người yêu hay bạn tình thường xuyên về việc sử dụng bao cao su PNMD thường cho biết dù họ rất muốn sử dụng bao cao su để bảo vệ bản thân và bạn tình thường xuyên hay người yêu của họ, nhưng trên thực tế, việc thuyết phục được bạn tình thường xuyên hay người yêu sử dụng bao cao su là hết sức khó khăn, nhất là khi đã xây dựng được niềm tin trong quan hệ với nhau. Nhiều khi, đó lại được xem là “hành vi không thể chấp nhận khi hai người đã yêu và tin tưởng lẫn nhau”. Khi bạn tình thường xuyên hay người yêu của PNMD từ chối sử dụng bao cao su, nhiều phụ nữ cảm thấy đó là do họ thiếu quyền lực, kỹ năng và khả năng thuyết phục một cách hiệu quả. “Có, chị biết thế [biết nguy cơ bị lây HIV dù chỉ là một lần quan hệ không dùng bao] nhưng với khách thì còn khéo léo thuyết phục chứ với người yêu mình thì thuyết phục như thế nào được.” -PNMD nhà hàng, Hà Nội “Có một vài lần đề nghị không được. Anh cho rằng đã là vợ chồng phải tin tưởng nhau. Thế là mình thôi không đề nghị nữa và chuyển sang uống thuốc ngừa thai.” –PNMD nhà hàng, Cần Thơ 5. Nỗi lo bị mất người yêu hay bạn tình thường xuyên Trở ngại phổ biến đối với việc sử dụng bao cao su khi quan hệ với bạn tình thường xuyên hay người yêu chính là nỗi lo sợ làm phiền lòng bạn tình mà vì thế quan hệ của họ bị tan vỡ. “Sợ, thì có sợ, nhưng chẳng biết làm thế nào, nếu không nghe thì khách không trả tiền, có khi còn bị đánh, còn người yêu thì chán rồi bỏ đi cặp với đứa khác.” -PNMD đường phố, Hà Nội “Anh ấy thích [quan hệ không dùng bao cao su] thì bọn mình chẳng bao giờ từ chối, tại vì là nếu không anh ấy sẽ đi với người khác ngay.” -PNMD nhà hàng, Hải Phòng PNMD cũng thường cho rằng không dùng bao cao su chính là cách thể hiện sự khác biệt giữa khách hàng và bạn tình thường xuyên. “Với lại chị không muốn dùng vì muốn nó khác đi một chút, nếu không thì cũng giống như đi khách, mình muốn có tình cảm hơn, tin nhau hơn.” -PNMD đường phố, Hà Nội 8 Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV 6. Bao cao su không sẵn có và khó tiếp cận đối với PNMD Mặc dù PNMD cho rằng bao cao su không đắt (1 gói 3 bao chỉ có 1.000 đồng) nhưng lại không sẵn có vào đúng nơi, đúng lúc cần. Hơn nữa, vì mại dâm ở Việt nam bị coi là phạm pháp, nhiều PNMD rất sợ bị bắt quả tang mang theo bao cao su. Điều này cũng khiến chủ các cơ sở giải trí như quán karaoke và phòng mát-xa thận trọng trong việc trang bị bao cao su tại quán của họ vì sợ rằng người ta cho nơi đó là tụ điểm hành nghề mại dâm. Chính phủ Việt Nam đã ban hành một chính sách rất tiến bộ, yêu cầu các cơ sở giải trí phải luôn có sẵn bao cao su. Nhưng đáng tiếc, ám ảnh từ những chính sách ban hành trước đây vẫn làm cho PNMD và chủ các cơ sở giải trí cảm thấy e sợ. “Công an thấy mình có bao trong người là họ chụp liền.” -PNMD đường phố, TP HCM “Nhưng bọn em không được để trong cửa hàng đâu, bà chủ không cho, với lại sợ bị công an kiểm tra mà có bao cao su thì không giải thích được.” –PNMD nhà hàng, Hà Nội Khuyến nghị của PnMD nhằm cải thiện việc thường xuyên sử dụng bao cao su Nhiều PNMD nhấn mạnh rằng khách hàng nam giới là những người quyết định có sử dụng bao cao su hay không. PNMD cũng cho rằng cách tốt nhất để cải thiện hành vi thường xuyên sử dụng bao cao su là nâng cao khả năng thuyết phục khách hàng một cách hiệu quả của bản thân, đồng thời nâng cao kiến thức về lây truyền HIV cũng như ý thức về nguy cơ đối với bản thân khách hàng. “Dùng lý lẽ: ‘dân chơi mà không biết tới bao cao su? Ông chơi bời nhiều nên bị SIDA rồi? Sao vậy anh? Không ai tấn công được em nhưng bệnh thì chưa chắc à?!’ kết hợp chìu chuộng bằng ngôn ngữ không lời: âu yếm, vuốt ve, giả vờ giận dỗi, gợi cảm, quyến rũ, sẽ tăng mức độ thành công hơn.” -PNMD nhà hàng, Cần Thơ “Bọn em có giỏi thì đi truyền thông cho mấy ông ấy, rồi dí bao cao su tận tay may ra các ông ấy còn tò mò muốn dùng thử.” -PNMD nhà hàng, Hà Hội Một số PNMD khác thì cho rằng phân phát bao cao su miễn phí chính là một biện pháp tốt giúp tăng cường khả năng tiếp cận bao cao su. “Theo em các chị cứ mang bao cao su đến các cơ sở dịch vụ ấy. Chúng nó tranh nhau ấy mà.” – PNMD đường phố, Hà Nội. 9Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV 1. Không biết về các trung tâm dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện & khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục Trong khi đa số PNMD đều biết đến các dịch vụ VCT và STI tại cộng đồng và có thể nêu tên cũng như địa điểm cung cấp dịch vụ đó thì một số chị em vẫn nói rằng họ không hề biết là có những trung tâm như thế cũng như vị trí của các trung tâm này. “Em không biết...Nếu em biết đến trung tâm tư vấn và xét nghiệm tự nguyện miễn phí thì em sẽ đi ngay.” -PNMD đường phố, Hà Nội 2. Lo sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử Lo sợ bị cộng đồng kỳ thị và phân biệt đối xử là một trong những lý do được nhắc đến nhiều nhất khi nói về nguyên nhân không tìm đến các dịch vụ VCT và STI. Hầu hết các chị em đều lo sợ rằng nếu họ bị phát hiện là đã đến trung tâm đó họ sẽ bị lộ là mình đang hành nghề mại dâm hoặc mọi người trong cộng đồng sẽ ngay lập tức cho rằng họ có HIV hay STI. “Nhưng chỉ có chị nào có chồng rồi mới đi khám, những ai chưa có chồng mà đi khám thì ngại lắm, người ta xì xào sợ lắm.” -PNMD nhà hàng, Hà Nội NhữNG TrỞ NGại đỐi với việc TiẾp cẬN các dỊch vụ TƯ vấN XéT NGhiệm Tự NGUYệN & khám vÀ điềU TrỊ các BệNh lâY TrUYềN qUa đƯỜNG TìNh dục 10 Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV “…Lo đi lên đó [trung tâm VCT] người ta phỏng vấn…rồi chụp hình đưa lên mục xã hội, bị chụp ảnh thì hàng xóm thấy thì làm sao mà dám đi đâu, nó đưa lên tivi chắc chết quá.” -PNMD đường phố, TP HCM “Khi tới phòng tư vấn xét nghiệm HIV mà có đứa nào trong bãi thấy được về nó đồn là mình bị SIDA…Thôi chị ơi tốt nhất là em không đi.” -PNMD đường phố, Cần Thơ 3. Trở ngại về kinh tế: chi phí thuốc men và đi lại Hầu hết những chị em đã từng đến các trung tâm cung cấp dịch vụ VCT và STI và những chị em quan tâm muốn đến các trung tâm này đều nói rằng chi phí đi lại cũng như chi phí thuốc men điều trị STI là trở ngại. Một số chị em gợi ý trung tâm nên hỗ trợ một phần chi phí đi lại và thuốc men. “Bởi mình không có xe và cũng không có tiền để đi xe ôm.” -PNMD đường phố, Hà Nội “Vì không có phương tiện.” -PNMD nhà hàng, Cần Thơ 4. Tính thuận tiện và chất lượng của các dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện & khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục Nhiều PNMD nói rằng một trong những tiêu chuẩn quan trọng đối với các dịch vụ VCT và STI là tính thuận tiện. Chính sách hiện nay của Chính phủ quy định về việc thuê nhân viên làm việc tại các cơ sở giải trí phải có giấy chứng nhận người đó không mắc các bệnh truyền nhiễm. Nhưng trong rất nhiều trường hợp, các trung tâm VCT không cấp bất kỳ giấy chứng nhận chính thức nào về tình trạng sức khỏe, nên rất nhiều PNMD nhà hàng thích trả tiền để đi khám tại các phòng khám hay bệnh viện, nơi có thể cung cấp giấy xác nhận sức khỏe cho họ. “Em cũng đi xét nghiệm ở Bạch Mai rồi. ở đấy miễn phí thật nhưng mấy ngày sau mới có kết quả lại không được cấp giấy nên bất tiện lắm, vì đa phần chủ tạo điều kiện cho nhân viên đi phải có kết quả để trình về, mình đi về mà không có giấy đưa cho họ xem họ lại nghi mình thế này thế khác rách việc lắm, cuối cùng mình vẫn phải đi thử lại vừa tốn công lại mất nhiều máu nên em lên trên Hàng Bài cho tiện…Khi đi làm xét nghiệm xong nên cấp cho người ta giấy để mang về nộp cho chủ, bây giờ tất cả các cơ sở mát-xa phải có đầy đủ những thủ tục đó mới được làm việc. Nếu ở Bạch Mai chỉ tư vấn, xét nghiệm không, khó thu hút được chị em đến lắm. Như em mấy hôm trước đi xét nghiệm ở đấy xong mấy hôm sau lại phải đi xét nghiệm lại để lấy giấy, như thế phức tạp và mất thời gian quá. Những người làm mát-xa như em họ không đi đâu.”-PNMD nhà hàng, Hà Nội Quá trình cấp giấy chứng nhận tình trạng sức khỏe cho nhân viên quán karaoke và đặc biệt là việc sử dụng các giấy tờ này của chủ các cơ sở giải trí cần được các cán bộ y tế theo dõi cẩn thận. Chủ các cơ sở giải trí có thể chỉ đơn giản sử dụng giấy tờ này như là sự “bảo đảm” rằng nhân viên của họ an toàn và không bị nhiễm HIV, nên không phải quan tâm đến việc sử dụng bao cao su. Nhiều chị em nói rằng họ không hài lòng với chất lượng các dịch vụ STI. Các lý do chủ yếu đưa ra là trung tâm trông không chuyên nghiệp, trang thiết bị và thuốc men thường xuyên thiếu. Nhiều người nhận xét rằng mặc dù miễn phí, nhưng các dịch vụ STI không đáp ứng những gì mà họ mong đợi. 11Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV “Bước vào phòng khám bác sĩ bảo trèo lên khám luôn, cả thảy từ khi vào đến khi khám xong em thấy mất khoảng 5 đến7 phút, khám như thế thì “chả bõ công tụt quần”. Nhìn qua một tý bác sĩ ghi cho em giấy gì màu hồng nói phải lên Nguyễn Khuyến xét nghiệm. Cuối cùng đi vẫn hoàn đi, chẳng giải quyết được vấn đề gì cả. Em không hiểu khám như thế bệnh tình có chính xác không vì mọi thứ đơn giản quá mức, bác sĩ chỉ nhìn bằng mắt thường rồi kết luận bệnh em sợ khó chuẩn lắm, cuối cùng ai cũng nghi, ai cũng phải đi xét nghiệm thế thì lên thẳng trên đấy cho đỡ tốn xăng đi lại.”- PNMD nhà hàng, Hà Nội Họ cũng nêu nguyên nhân không sử dụng các dịch vụ STI thường xuyên là do những kinh nghiệm không hay trước đó. Theo lời kể của các chị em, có những lần đi khám tại các phòng khám STI, nhân viên y tế hết sức vội vàng, không dành thời gian để khám và chẩn đoán một cách kỹ lưỡng, và thái độ không thân thiện. “Em thấy ở đây bác sĩ khám sơ sài như thế thì biết gì mà phòng chống cơ chứ. Bác sĩ không cẩn thận, em vào kê bệnh, chưa khám bác sĩ đã viết đơn thuốc rồi, lại còn bảo em cứ về uống thử, chẳng may không đúng bệnh đấy, nhầm thuốc thì em chết à. Lần trước em khám cũng sơ sài, nhanh lắm, tý cái là xong. Thế này thì cần gì khám nữa đâu.” -PNMD đường phố, Hà Nội “Y tá thì dễ thương mà Bác sĩ khó tính lắm, nói nặng lời, nói nhẹ nhẹ dễ nghe còn đi, lên đó đã sợ rồi mà còn.” –PNMD nhà hàng, TP HCM 12 Khuyến nghị của PnMD để cải thiện việc sử dụng các dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện & khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục Khi được hỏi làm thế nào để tăng cường việc sử dụng và tần suất sử dụng các dịch vụ VCT và STI, các chị em đều nói các dịch vụ cần thân thiện và thuận tiện hơn. Họ cho biết rằng họ thường phải nhận tư vấn ở một nơi, xét nghiệm ở một nơi, và mua thuốc ở một nơi khác. Chị em đề nghị là nên có một trung tâm cung cấp trọn gói đầy đủ các dịch vụ: tư vấn, xét nghiệm dành cho STI và thuốc men. Ngoài ra, nhiều chị em cũng thấy rằng thuận tiện nhất cho họ là có thể nhận kết quả xét nghiệm ngay lập tức chứ không phải quay trở lại phòng khám lần thứ hai vài ngày sau đó. “Mình nghĩ là để khuyến khích chị em đến khám thì phòng khám phải có các bác sĩ nhiệt tình, tâm lý, tất cả các dịch vụ phải gói gọn trong phòng khám luôn như: xét nghiệm, điều trị…để chị em đỡ mất công đi lại.” -PNMD đường phố, Hà Nội “Chị thấy nên gọn nhẹ, tư vấn, xét nghiệm, lấy kết quả nhanh như ở Hàng Bài thì chắc là đông người đến lắm. Chứ em biết đấy bọn chị tiền không, xe không, đi lại mất công lắm.” -PNMD đường phố, Hà Nội Một số chị em khác cho rằng chất lượng dịch vụ cần được cải thiện hơn; nhân viên cần có kỹ năng và thân thiện hơn; phòng tư vấn cần tạo được không khí tiếp đón ân cần; thuốc men nên sẵn có tại phòng khám; phòng khám nên mở cửa cả vào các buổi chiều để thuận tiện cho PNMD. “ở đó phải vệ sinh mới được, phòng khám rộng rãi cũng được và phải có nhiều người, ít quá bước vô đó lạnh tanh thì sợ lắm. Mấy chị đó cũng phải vui vẻ, khám nhẹ tay chứ mạnh tay quá làm đau thì đi một lần là tởn luôn.” -PNMD nhà hàng, Cần Thơ “Thời gian mở cửa phải phù hợp với tụi em, như tụi em muốn đi khám thì phải đi buổi chiều mới được.” -PNMD đường phố, Cần Thơ. 13Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV 1. Ý thức về nguy cơ cá nhân thấp khi phải chịu cơn vã thuốc Tất cả PNMD nghiện chích ma túy đều hiểu rất rõ nguy cơ lây nhiễm HIV khi dùng chung bơm kim tiêm. Tuy hầu hết PNMD nghiện chích ma túy đều nói rằng họ luôn tránh dùng chung bơm kim tiêm khi có thể, đặc biệt là với người lạ, điều này thường rất khó tránh khi họ thiếu tiền và cần phải dồn tiền để mua ma túy. Thêm nữa, nhiều PNMD nghiện chích ma túy cho biết rằng họ hoàn toàn mất cảm giác sợ bị nhiễm HIV khi lên cơn vã thuốc. “Có lúc thì dùng chung với bạn bè, lúc vật rồi thì đứa nào cũng dùng chung được. Lúc vật rồi đầu óc đâu còn tỉnh táo nữa mà để ý đến bơm kim tiêm.” -PNMD đường phố, Hà Nội 2. Khả năng tiếp cận với bơm kim tiêm sạch rất hạn chế Khả năng tiếp cận bơm kim tiêm sạch còn hạn chế luôn là một trở ngại. Nhiều PNMD tiêm chính ma túy cho biết rằng các hiệu thuốc cách quá xa nơi họ tiêm chích. Các nhân viên của các hiệu thuốc cũng không muốn bán bơm kim tiêm cho người nghiện chích ma túy. Những người bán bơm kim tiêm trên đường phố thì lại thường đòi giá quá cao. “Nhiều lúc vật không có bơm kim tiêm phải ra bờ sông, bờ hồ nhặt về rửa sạch rồi dùng.” –PNMD đường phố, Hà Nội “Chị biết đấy, vào hiệu thuốc nhìn mình nghiện ngập nhiều lúc nó không bán cho đâu, với lại chỗ bọn em tụ tập làm gì gần hiệu thuốc. Còn bọn bán bơm kim tiêm ngoài bãi thì chúng nó bán giá cắt cổ, lấy đâu ra tiền mà mua. Chúng nó mua ở hiệu thuốc 900 đồng/ bơm kim tiêm, mà bán ra 3.000đ/bơm kim tiêm.” -PNMD đường phố, Hà Nội NhữNG TrỞ NGại đỐi với việc Giảm hÀNh vi TiÊm chÍch khÔNG aN ToÀN 14 Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV Thời điểm khó tránh khỏi việc dùng chung bơm kim tiêm nhất là vào đêm khuya hoặc lúc trời mưa. “Thời điểm ban đêm là dễ thiếu bơm nhất, muốn mua phải lên cổng bệnh viện Bạch Mai để mua, từ đây lên đấy xa thế mua được bơm phải mất ít nhất 15.000, xe ôm 10.000, bơm 5.000 tiền đâu ra, chị bảo như thế chỉ có chung nhau mà chích chứ đứa nào đi mua.” -PNMD đường phố, Hà Nội 3. Dùng chung bơm kim tiêm với bạn tình thường xuyên và bạn bè Dùng chung kim tiêm với bạn bè thân thiết, bạn tình thường xuyên, người yêu hay chồng thực sự là khó tránh nhất bởi vì họ tin tưởng rằng đó là những người an toàn và không bị lây nhiễm. “Em thường xuyên chích chung với bồ em vì nó nói vợ chồng chích chung không sao có chết thì cả hai đứa cùng chết .” –PNMD đường phố, Cần Thơ “Là người yêu cũ, anh ấy đi Đức về, do tình cảm mà mình và anh ấy chích chung. Nói chung là được người yêu chích cho thì sướng hơn là mình chích nhiều. Vì có tình cảm mà.” –PNMD đường phố, Hải Phòng Khuyến nghị của PnMD nhằm giảm hành vi tiêm chích không an toàn Nhiều chị em cho biết phương pháp tiếp cận tại cộng đồng bằng cách truyền thông trực tiếp, trực diện vẫn là cách tiếp cận tối ưu đối với PNMD nghiện chích ma túy nhằm tuyên truyền về tiêm chích an toàn hay cung cấp thông tin về làm thế nào để có bơm kim tiêm sạch. “Mấy chị phải nói nhiều lần cho người ta thấm như em nè, nói thiệt mấy chị đấy cũng nói cho em nhiều lần rồi nhưng em cũng lo lo hà, bây giờ chị nói vậy thì em mới nghĩ tới con em, để em còn lo cho nó nữa… với lại chị nên nói trên Ti- vi những nơi làm giống như chỗ chị để người ta biết địa chỉ mà người ta đến chứ.” -PNMD đường phố, TP HCM “Ngày nào sinh hoạt thì mấy chị làm một ngày định kỳ hàng tháng cho mọi người biết chắc luôn.” -PNMD nhà hàng, TP HCM Một chị nói rằng việc người nghiện chích ma túy bị coi là phạm pháp chính là trở ngại khiến họ không tiếp cận được với bơm kim tiêm sạch. Để giảm thiểu hành vi dùng chung bơm kim tiêm, chính sách của chính phủ cũng như môi trường xã hội nên tạo điều kiện cho người nghiện chích ma túy giảm hành vi tiêm chích không an toàn. “Có thể đừng bắt những người chơi ma túy nữa thì họ không dấu. Không dấu thì họ dễ dàng mua kim và chơi riêng” -PNMD đường phố, TP HCM 15Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV Tiêm chích an toàn phụ thuộc vào khả năng tiếp cận được với bơm kim tiêm mà hiện vẫn đang là rào cản chủ yếu đối với nhiều chị em nghiện chích ma túy. Khuyến nghị của PNMD nghiện chích ma túy gồm phân phát bơm kim tiêm sạch miễn phí và tăng khả năng tiếp cận được với bơm kim tiêm vào đêm khuya. Một gợi ý là có thể để lái xe ôm bán bơm kim tiêm. “Thì cứ đi phát như mấy chị, phát nhiều lên chứ các chị phát hẻo quá lấy đâu mà xài riêng. Chị cứ nghĩ đi mỗi ngày xài 2 cữ, có khi hơn mà mấy chị phát bấy nhiêu sao mà xài đủ cho cả tuần.” - PNMD đường phố, TP HCM “Thì bọn em đi phát cho bọn chị như phát bao cao su ấy, đứa nào cần thì nó đến xin. Nếu khuya quá không đi phát được thì đưa cho mấy ông xe ôm… Thì bọn chị mua, nhưng vẫn tốt vì không phải mất công đi, có khi các ông ấy còn bán rẻ hơn hàng nước.” - PNMD đường phố, Hà Nội 16 Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV FHI/Việt Nam đã chia sẻ kết quả phỏng vấn nhanh PNMD tại hội thảo được tổ chức cho cán bộ dự án các tỉnh, giáo dục viên sức khỏe, giáo dục viên đồng đẳng, chủ nhiệm các câu lạc bộ, và các cán bộ quản lý dự án của đối tác. Mục đích của hội thảo này nhằm đánh giá thực trạng hiện tại của chương trình và xây dựng các phương pháp tiếp cận mới khắc phục những trở ngại đối với hành vi nguy cơ của PNMD. Các khuyến nghị dưới đây phản ánh những phát hiện chủ yếu khi thực hiện phỏng vấn nhanh PNMD cũng như quan điểm của giáo dục viên đồng đẳng và nhân viên dự án đã được chia sẻ tại hội thảo. TĂNG cƯỜNG việc ThƯỜNG XUYÊN SỬ dụNG Bao cao SU Tăng cường khả năng thuyết phục sử dụng bao cao su một cách hiệu quả cho PnMD.• Nhiều chị em cho rằng họ không cảm thấy mình có đủ kỹ năng để thuyết phục một cách hiệu quả khách hàng nam giới cũng như bạn tình thường xuyên sử dụng bao cao su. Trở ngại đối với việc sử dụng bao cao su rất khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng đó là khách hàng hay bạn tình thường xuyên. Vì thế, kỹ năng thuyết phục cần phải thích hợp tùy từng trường hợp. Tạo môi trường thuận lợi cho việc sử dụng bao cao su thường xuyên thông qua sự tham gia của • đồng đẳng. Các giáo dục viên đồng đẳng đưa ra khuyến nghị nhấn mạnh vai trò của hỗ trợ đồng đẳng trong việc cải thiện hành vi sử dụng bao cao su thường xuyên. Khuyến nghị nêu rõ cần phải có sự tham gia của cả những bạn tình của PNMD, những người dắt khách, chủ các cơ sở giải trí, và cả những đồng đẳng khác nhằm khích lệ và nhắc nhở PNMD ý thức tự bảo vệ bản thân họ cũng như khách hàng của họ khỏi bị lây nhiễm HIV/STI. Xóa bỏ những nhận thức sai lầm về lây truyền hiV và niềm tin gây cản trở hành vi thường • xuyên dùng bao cao su. Kết quả phỏng vấn nhanh cho thấy nhận thức sai lầm về lây truyền HIV chính là một rào cản đối với PNMD và khách hàng của họ. Cả PNMD và khách hàng của họ đều nói rằng HIV không thể lây truyền qua quan hệ tình dục đường miệng hoặc hậu môn. Ngoài ra, niềm tin cho rằng những khách hàng nam giới cao to, đẹp trai, và có địa vị xã hội thì “an toàn hơn” là khá phổ biến. PNMD cũng lầm tưởng rằng họ không có nguy cơ hay không bị nhiễm bởi vì họ còn trẻ, khỏe mạnh, và luôn giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ. Các chiến dịch truyền thông đại chúng và thay đổi hành vi cần tập trung tháo gỡ những rào cản về nhận thức và những nhầm tưởng còn đang rất phổ biến này trong nhóm PNMD và khách hàng của họ. Tăng cường các can thiệp dự phòng hiV nhằm vào khách hàng nam giới, bạn tình nam giới và • quần thể nam giới nói chung. PNMD thường xuyên nêu sự bất bình đẳng và sự phụ thuộc của họ vào khách hàng nam giới để mưu sinh là nguyên nhân khiến nam giới trở thành người có quyền quyết định trong quan hệ tình dục và việc sử dụng bao cao su. Để bắt đầu tháo gỡ những rào cản đối với hành vi sử dụng bao cao su thường xuyên, việc xây dựng các chương trình truyền thông thay đổi hành vi và dự phòng toàn diện nhằm vào nhóm khách hàng nam giới và nhóm nam giới nói chung là rất quan trọng. Các chiến dịch truyền thông thay đổi hành vi cần hiểu rõ hơn điều gì là quan trọng đối với nam giới, điều gì khiến họ thay đổi hành vi, cũng như đưa ra được những thông điệp phù hợp giúp họ ý thức được về nguy cơ lây nhiễm HIV một cách rõ ràng. Thực hiện nghị định của chính phủ mới ban hành yêu cầu các cơ sở giải trí phải có bao cao su. • Một chính sách tiến bộ đã được ban hành vào tháng 6/2007 yêu cầu tất cả các cơ sở giải trí phải có bao cao su. Nghiêm chỉnh triển khai và bắt buộc thi hành chính sách này tại các cơ sở giải trí, đặc biệt là tại các phòng mát-xa và các quán karaoke nhằm tạo môi trường thuận lợi hơn cho việc sử dụng bao cao su, nâng cao kết luận và khuyến nghị 17Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV tính sẵn có, và “bình thường hóa” quan niệm xã hội về bao cao su. FHI/Việt Nam khuyến nghị nên xây dựng chương trình “cở sở làm việc an toàn với HIV” cho PNMD tại các cơ sở vui chơi giải trí. TĂNG cƯỜNG việc SỬ dụNG các dỊch vụ TƯ vấN XéT NGhiệm Tự NGUYệN & khám vÀ điềU TrỊ các BệNh lâY TrUYềN qUa đƯỜNG TìNh dục cải thiện chất lượng và tính thuận tiện của các dịch vụ VcT/STi. • Nhiều PNMD cho rằng các dịch vụ VCT và STI cần được cải thiện và thuận tiện hơn cho họ. Cả PNMD và giáo dục viên đồng đẳng đều đưa ra khuyến nghị là các câu lạc bộ, các cơ sở dịch vụ VCT và STI nên phối hợp cung cấp các dịch vụ lồng ghép gồm các dịch vụ VCT, STI, tư vấn, thuốc men, giáo dục giải trí, và chuyển tuyến. Tăng cường khả năng tiếp cận với các dịch vụ VcT/STi thông qua các hoạt động xây dựng hình • ảnh sáng tạo và tiếp cận cộng đồng đích. Cần có các can thiệp mục tiêu nhằm giúp tăng cường việc sử dụng các dịch vụ VCT và STI của PNMD. Phương pháp tiếp cận cần hướng tới những thành phần khác nhau trong nhóm PNMD (như PNMD đường phố, PNMD nhà hàng, và PNMD nghiện chích ma túy). Có thể thí điểm các mô hình phòng khám lưu động cung cấp các dịch vụ VCT và STI lồng ghép nhằm tiếp cận được với PNMD hiện đang sinh sống ở xa trung tâm thành phố hoặc với những chị em mà rào cản tiếp cận chính là thiếu phương tiện đi lại. nâng cao năng lực của nhân viên VcT và STi để họ có thể cung cấp các dịch vụ thân thiện cho • khách hàng. Nhiều PNMD nói rằng họ không hài lòng về cách điều trị mà họ nhận được tại các cơ sở dịch vụ VCT và STI khi đến kiểm tra sức khỏe ở đó. Nhân viên y tế cần phải được tập huấn và hỗ trợ thêm để nâng cao năng lực trong lĩnh vực này. PNMD gặp rất nhiều trở ngại trong việc đi khám thường xuyên như xấu hổ vì sợ bị bác sĩ và nhân viên y tế phát hiện ra họ hành nghề mại dâm, do đó sẽ bị đối xử khiếm nhã. Đào tạo nhân viên y tế của các cơ sở dịch vụ VCT và STI giúp họ thấy rõ lợi ích của việc cung cấp dịch vụ chăm sóc và điều trị cho tất cả bệnh nhân một cách thân thiện và không kỳ thị chính là phương cách hữu hiệu làm tăng nhu cầu sử dụng các dịch vụ VCT/STI. 18 Trao đổi với phụ nữ mại dâm: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV Thực hiện các chiến dịch truyền thông đại chúng nhằm giảm kỳ thị đối với việc sử dụng các • dịch vụ VcT và STi. Nhiều PNMD cho biết lo sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử là rào cản chủ yếu ngăn họ đến để điều trị STI cũng như những dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV. Ở Việt Nam, việc sử dụng các dịch vụ VCT và STI vẫn còn bị kỳ thị. Nhiều người cho rằng các dịch vụ này chỉ dành cho nhóm có nguy cơ rất cao. Việc mở rộng nhanh chóng phạm vi dịch vụ VCT và STI phục vụ cho công chúng nói chung, đặc biệt là cho nhóm khách hàng mua dâm, sẽ làm giảm kỳ thị đối với các dịch vụ này đồng thời cải thiện nhận thức chung về mức độ nguy cơ. Giảm hÀNh vi TiÊm chÍch khÔNG aN ToÀN Tăng cường khả năng tiếp cận bơm kim tiêm • sạch thông qua các kênh phi truyền thống. Nhiều PNMD nghiện chích ma túy cho biết những vấn đề về tính sẵn có và khả năng tiếp cận chính là trở ngại cơ bản ngăn cản họ thực hiện hành vi tiêm chích an toàn. Hiện nay, việc mua bán và phân phối bơm kim tiêm chủ yếu là qua các hiệu thuốc, phòng khám hay bệnh viện. Ở Việt Nam hiện nay, các kênh phi truyền thống có bán bơm kim tiêm còn rất hạn chế, chẳng hạn như qua những người lái xe ôm hay những người bán hàng rong trên đường phố. Bằng chứng cho thấy sự phát triển của những kênh phân phối phi truyền thống cung cấp bao cao su đã thúc đẩy nhanh chóng tính sẵn có và việc sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục. Chính vì thế, những chương trình tương tự cần được thí điểm nhằm cung cấp bơm kim tiêm sạch để đẩy mạnh hành vi tiêm chích an toàn. Xây dựng những chính sách nhằm tạo ra môi • trường không kỳ thị và thuận lợi cho hành vi tiêm chích an toàn. Quan hệ tình dục không an toàn và hành vi dùng chung bơm kim tiêm khá phổ biến trong nhóm PNMD nghiện chích ma túy. Điều này khiến cho nhóm PNMD, khách hàng, và bạn tình thường xuyên của họ dễ bị lây nhiễm HIV. Các can thiệp trên diện rộng nhằm thúc đẩy hành vi tiêm chích an toàn như các chương trình trao đổi và phân phát bơm kim tiêm sạch vẫn còn thiếu ở Việt Nam. Sự kỳ thị đối với hành vi nghiện chích ma túy có thể gây trở ngại cho tính hiệu quả của công tác tiếp thị xã hội cũng như việc mở rộng mạng lưới các kênh phân phối bơm kim tiêm sạch phi truyền thống. Cần phải xây dựng những chính sách nhằm tạo môi trường giảm kỳ thị và thuận lợi cho các hoạt động mua bán hay phân phát bơm kim tiêm. Tạo môi trường hỗ trợ hành vi tiêm chích an toàn thông qua sự tham gia của đồng đẳng. • Các giáo dục viên đồng đẳng nhấn mạnh vai trò hỗ trợ đồng đẳng đối với việc giảm hành vi tiêm chích không an toàn. Khuyến nghị nêu rõ cần có sự tham gia của các PNMD khác, bạn tình của họ, người dắt khách, lái xe ôm, và các đồng đẳng khác trong việc khuyến khích và nhắc nhở PNMD nghiện chích ma túy sử dụng bơm kim tiêm sạch. Thiết kế & in ấn: công ty lUck hoUSE GraphicS in 500 bản tiếng việt và 500 bản tiếng anh khổ 21x28 (cm) Giấy phép xuất bản số: 974-2007/cXB/01-171/vhTT cấp ngày 14-12-2007 in xong nộp lưu chiểu vào quý i năm 2008 Fhi/Vietnam Tầng 3, số 1 Bà Triệu, Hà Nội, Việt Nam Điện thoại: (84.4) 934.8560 – Fax: (84.4) 934.8650 Email: fhivn@fhi.org.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTập huấn - Trao đổi với phụ nữ mại dâm về phòng chống HIV.pdf