Tập huấn - Trao đổi với người nghiện ma túy về phòng chống HIV

Bản báo cáo này là một phần trong bộ các báo cáo về quan điểm của ba nhóm có nguy cơ lây truyền HIV cao: phụ nữ mại dâm, những người nghiện chích ma túy, và nam tình dục đồng giới, về sự thay đổi hành vi của họ trong phòng ngừa HIV. Nếu độc giả muốn có các bản báo cáo này, xin liên hệ với FHI, số điện thoại 84-4-934-8560 hoặc qua địa chỉ email: fhivn@fhi.org.vn. Bản báo cáo này được thực hiện với sự tham gia của các giáo dục viên sức khỏe và các cán bộ tư vấn và xét nghiệm tự nguyện (VCT). Đặc biệt chân thành cảm ơn chị Mai Hoàng Anh đã phân tích và tổng hợp các tài liệu. Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế tại Việt Nam (FHI/Vietnam) xuất bản báo cáo này với sự hỗ trợ kinh phí của Kế hoạch Hỗ trợ khẩn cấp cho Phòng chống HIV/AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR) thông qua Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID).

pdf20 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2081 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tập huấn - Trao đổi với người nghiện ma túy về phòng chống HIV, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV Vietnamese and americans in partnership to fight hiV/aids 2 Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV Bản báo cáo này là một phần trong bộ các báo cáo về quan điểm của ba nhóm có nguy cơ lây truyền HIV cao: phụ nữ mại dâm, những người nghiện chích ma túy, và nam tình dục đồng giới, về sự thay đổi hành vi của họ trong phòng ngừa HIV. Nếu độc giả muốn có các bản báo cáo này, xin liên hệ với FHI, số điện thoại 84-4-934-8560 hoặc qua địa chỉ email: fhivn@fhi.org.vn. Bản báo cáo này được thực hiện với sự tham gia của các giáo dục viên sức khỏe và các cán bộ tư vấn và xét nghiệm tự nguyện (VCT). Đặc biệt chân thành cảm ơn chị Mai Hoàng Anh đã phân tích và tổng hợp các tài liệu. Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế tại Việt Nam (FHI/Vietnam) xuất bản báo cáo này với sự hỗ trợ kinh phí của Kế hoạch Hỗ trợ khẩn cấp cho Phòng chống HIV/AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR) thông qua Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Nội dung Thực Trạng 4 PháT hiện chính 5 những trở ngại đối với việc giảm hành vi tiêm chích không an toàn 5 1. Tin là bạn chích không mắc bệnh 5 2. Dùng chung dụng cụ tiêm chích 5 3. Thiếu tiền 6 4. Tiếp cận bơm kim tiêm sạch khó khăn, đặc biệt là vào ban đêm 6 5. Sự kỳ thị của cộng đồng 7 6. Sợ bị gia đình phát hiện việc sử dụng ma túy 7 7. Sợ bị công an bắt 7 8. Bản thân chưa có ý thức trách nhiệm trong việc phòng ngừa HIV 8 Vượt qua những trở ngại đối với việc giảm hành vi tiêm chích không an toàn 8 những trở ngại đối với việc sử dụng bao cao su thường xuyên 10 1. Tình yêu đối với bạn tình 10 2. Thiếu khả năng thuyết phục bạn tình sử dụng bao cao su 10 3. Tác động cuả rượu và sự hấp dẫn mạnh mẽ với vẻ bề ngoài của bạn tình 10 4. Hiểu biết sai lệch trong nhóm NCMT về HIV và đường lây truyền HIV 11 5. Cảm giác bất lực, đặc biệt ở những người đã nhiễm HIV 11 Khuyến nghị giúp nâng cao tỷ lệ thường xuyên sử dụng bao cao su 12 Trở ngại trong việc tiếp cận dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện (VcT) 12 1. Chưa nhận thức được lợi ích của việc phát hiện tình trạng nhiễm HIV 12 2. Không tin rằng mình có nguy cơ bị lây nhiễm vì không thấy mình có triệu chứng gì 12 3. Lo sợ bị các nhân viên y tế kỳ thị và phân biệt đối xử 13 4. Lo sợ biết về tình trạng nhiễm HIV 13 5. Không biết về các dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện 13 Trở ngại đối với việc sử dụng các dịch vụ khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STi) 13 1. Không thấy xuất hiện các triệu chứng 13 2. Các dịch vụ khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục chưa thuận tiện 14 3. Lo sợ khi biết mình mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục 14 4. Chi phí cho dịch vụ 14 KếT luận Và Khuyến nghị 15 Giảm hành vi tiêm chích không an toàn 15 Thường xuyên sử dụng bao cao su 17 Tăng cường sử dụng các dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện & dịch vụ khám và điều điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục 18 4 Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV Kết quả Chương trình giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI 2005-2006 (IBBS) cho thấy các hành vi nguy cơ cao vẫn tiếp tục tồn tại trong nhóm người nghiện chích ma túy (NCMT) và các chương trình dự phòng HIV ở một số lĩnh vực vẫn còn hạn chế về khả năng tiếp cận. Những lĩnh vực được IBBS xác định cần phải cải thiện bao gồm: Tình trạng dùng chung bơm kim tiêm vẫn còn khá phổ biến trong vòng một tháng qua• Tỷ lệ dùng bao cao su thường xuyên khi quan hệ tình dục với các bạn tình còn thấp• Khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tư vấn và xét nghiệm tự nguyện (VCT) cũng như • khám định kỳ các bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI) còn thấp Điều tra IBBS được thực hiện nhằm cung cấp các số liệu về tỷ lệ nhiễm HIV, STI, hành vi nguy cơ cao và việc tiếp cận với các can thiệp của nhóm người NCMT. Tuy nhiên, các số liệu định lượng từ điều tra IBBS không giúp các nhà quản lý chương trình cũng như nhân viên y tế hiểu được lý do tại sao các hành vi nguy cơ vẫn tiếp tục tồn tại và tại sao việc tiếp cận với các can thiệp còn thấp trong một số trường hợp. Vì thế, Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế tại Việt Nam (FHI/ Việt Nam) thu thập và sử dụng các thông tin định tính nhằm cải thiện các chương trình dự phòng HIV cho nhóm NCMT. Nhóm điều tra IBBS đã tiến hành một cuộc đánh giá nhu cầu của những người NCMT trong tháng 7 và tháng 8 năm 2007 nhằm xác định rõ các bước tiếp theo của chương trình can thiệp. Để tìm hiểu những nguyên nhân tiềm ẩn mang tính cá nhân, xã hội, và môi trường có thể làm ảnh hưởng đến hành vi nguy cơ của nhóm NCMT, cũng như hoàn cảnh xảy ra các hành vi nguy cơ này, với sự hỗ trợ về kỹ thuật của Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế (FHI) và nguồn tài trợ từ USAID/PEPFAR, các giáo dục viên sức khỏe và nhân viên VCT đã tiến hành một cuộc đánh giá nhanh tại 4 tỉnh/thành phố: Hải Phòng, An Giang, Quảng Ninh và Cần Thơ. Thông qua các cuộc phỏng vấn định tính với các người NCMT, các giáo dục viên sức khỏe đã cố gắng tìm hiểu rõ hơn những trở ngại đối với nhóm NCMT trong việc tiêm chích chung và tình dục an toàn cũng như những vấn đề tồn tại trong tiếp cận với các dịch vụ VCT và STI. Các cuộc phỏng vấn sâu với đối tượng NCMT đã gợi mở những suy nghĩ thực sự của khách hàng về những trở ngại trong việc thay đổi hành vi cũng như các kiến nghị của họ nhằm cải thiện các chương trình can thiệp. Các cuộc phỏng vấn không mang tính chất là nghiên cứu định tính dân tộc học mà chỉ là những cuộc phỏng vấn nhanh giữa các giáo dục viên sức khỏe và người hưởng dịch vụ, trong khuôn khổ quy trình đảm bảo chất lượng và cải thiện họat động. Phương pháp này có thể sẽ dẫn đến việc một số thông tin thu thập còn có những hạn chế, tuy nhiên, phương pháp này tạo điều kiện cho các giáo dục viên sức khỏe hiểu được thực sự nhu cầu của nhóm đối tượng đích, giúp ích cho công việc hàng ngày của họ. Thực trạng Trao đổi với NhữNg Người NghiệN chích ma Túy để cải ThiệN caN Thiệp 5Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV 1. Tin là bạn chích không mắc bệnh Hầu như tất cả khách hàng NCMT nói rằng họ đã từng có lúc dùng chung bơm kim tiêm. Phần lớn khách hàng đều nói họ chỉ dùng chung bơm kim tiêm với những người thân thiết như vợ/chồng, bạn tình, người thân trong gia đình hay bạn thân. Nguyên nhân chủ yếu của việc dùng chung bơm kim tiêm là sự tin tưởng và niềm tin cho rằng bạn tình của mình không mắc bệnh. Hành vi dùng chung bơm kim tiêm được coi là để thể hiện lòng tin đối với nhau. Vì thế, việc từ chối không dùng chung là rất khó khăn, đặc biệt là với những người mà giữa họ đã có mối quan hệ gần gũi, thân thiết và đã tạo dựng được lòng tin. Đối với vợ/chồng, họ tin rằng nếu một người đã bị nhiễm thì việc người kia cũng bị nhiễm là không thể tránh khỏi. “Em có nghe nói có thể bị nhiễm HIV nhưng do là bạn tình nên không nghĩ đến bệnh HIV nữa.”–Cần Thơ “Em có nghe nói đến bị HIV nhưng đã là vợ chồng thì phải tin nhau chứ.” –An Giang “Nghĩ là vợ chồng có bệnh thì bệnh hết.” –An Giang 2. Dùng chung dụng cụ tiêm chích Hầu hết người NCMT đều nói họ biết nguy cơ khi dùng chung dụng cụ tiêm chích nhưng họ vẫn làm vậy khi không có đủ tiền để mua một liều riêng cho mình. Thèm ma túy buộc họ gom tiền lại để mua chung. Người NCMT còn giải thích rằng khi chung nhau thuốc, cả nhóm thường ép nhau phải dùng chung dụng cụ tiêm chích. Họ cho rằng nếu chia thuốc ra sẽ làm một lượng nhỏ ma túy bám vào bơm kim tiêm, gây lãng phí. “Hỏa, xin cứu mà đòi chích riêng thì người ta không cho.” –An Giang “Lý do khó vượt qua nhất là khi được bạn bè cứu mình (do không có thuốc, bị vã) nên mình không dám đòi hỏi chơi riêng.” –Cần Thơ “Với bọn em, thuốc là quan trọng nhất. Ba thằng góp vào mới đủ một liều thuốc, giờ mà chia ra thì rất hao thuốc. Mà chỉ bị mất một tý thuốc là bọn em tiếc chảy máu mắt rồi. Nên pha chung rồi cùng chích, lúc đó chả nghĩ gì đến bệnh tật cả.” –Quảng Ninh “Chia thuốc ấy à... Mấy thằng chung lại mới mua được tí thuốc, chia ra, chẳng may lóng ngóng, làm đổ, rơi vãi mất, thì còn gì mà chơi, chẳng thằng nào dại gì mà đi chia kiểu ấy đâu.”–Quảng Ninh NhữNg TrỞ NgẠi đỐi với việc giảm hÀNh vi TiÊm chích KhÔNg aN ToÀN phát hiện chính 6 Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV 3. Thiếu tiền Phần lớn người NCMT đều nói rằng họ dùng chung dụng cụ tiêm chích là do thiếu tiền. Phải góp tiền vào mua chung ma túy là lúc họ chẳng còn đồng nào để mua bơm kim tiêm sạch. “Vã quá...! Mua thuốc hết tiền, không còn tiền mua bơm kim tiêm nên đành chơi chung với mấy thằng bạn.” –Quảng Ninh “Đã từng nghe nhưng tình thế bắt buộc cơn nghiện đang hành tiền, lại không có tiền cho nên phải dùng chung BKT để qua cơn vã.” –Hải Phòng “Bọn anh chỉ góp đủ 100.000 để mua thuốc, chứ lấy đâu ra tiền để mua xi.” –Quảng Ninh 4. Tiếp cận bơm kim tiêm sạch khó khăn, đặc biệt là vào ban đêm Người NCMT thường xuyên nói rằng trở ngại khách quan lớn nhất còn tồn tại đối với hành vi tiêm chích an toàn là không thể mua được bơm kim tiêm vào ban đêm. Các hiệu thuốc là nơi người NCMT thường mua bơm kim tiêm thì lại chẳng bao giờ mở cửa bán hàng vào nửa đêm - thời điểm mà rất nhiều người NCMT tụ tập để tiêm chích. “Đêm khuya, chẳng còn ai bán bơm kim tiêm” –Cần Thơ “Thường tới khuya mới mua được hàng mà khi đó nhà thuốc đóng cửa hết, không mua được kim nên xài đại đi thôi.”–An Giang “Nhiều khi chơi vào ban đêm, khó mua xi, có gọi thì hiệu thuốc thì nó cũng không dám mở cửa mà bán.” –Hải Phòng 7Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV 5. Sự kỳ thị của cộng đồng Người NCMT muốn bảo vệ bản thân họ và gia đình tránh khỏi sự kỳ thị do bị phát hiện là người nghiện ma túy. Do đó, họ sợ mua bơm kim tiêm, lo rằng sẽ bị phát hiện là người sử dụng ma túy. “Giấu gia đình và người quen không dám đi mua bơm kim tiêm nên dùng chung với bạn.” –Quảng Ninh “Họ hàng, bạn bè anh nhiều, ra đường mua bơm kiểu gì chẳng có người phát hiện.” –Quảng Ninh “Nếu để trưởng thôn nhìn thấy đi mua bơm kim tiêm, thì ngay hôm sau ông trưởng thôn đến nhắc nhở và thông báo với gia đình, mấy ông ở xã suốt ngày soi.” –Quảng Ninh 6. Sợ bị gia đình phát hiện việc sử dụng ma túy Nỗi lo sợ bị gia đình phát hiện việc sử dụng ma túy khiến nhiều người NCMT chọn cách dùng chung chứ không muốn bị nhìn thấy khi mua bơm kim tiêm. “Em chơi gia đình đâu có biết, mua kim sợ người ta nói với gia đình, vợ em biết chắc em chết.” –An Giang “Đến giờ, ông bà già chưa biết em chơi nên còn cho tiền hàng ngày. Bây giờ mà đi mua “đồ” (BKT), ông bà biết, vừa bị chửi mắng, bị bắt nghỉ chơi, lại không cho tiền nữa thì lấy gì mà chơi. Chơi chung với mấy thằng bạn luôn cho an toàn...” - An Giang 7. Sợ bị công an bắt Người NCMT sợ bị công an bắt khi mang bơm kim tiêm trong người. Do đó, họ chọn cách không mang theo bơm kim tiêm trong người khi đi tiêm chích. Họ quan niệm dùng chung bơm kim tiêm vừa nhanh hơn lại dễ dàng hơn là dùng riêng. “Ngại đi mua vì sợ người khác biết mình nghiện, sợ mang bơm kim tiêm trong người thì công an biết.” –Hải Phòng “Thiếu bơm, chích giấu nên chỉ muốn nhanh nhanh cho xong, chích với thằng bạn chơi thân từ bé.” –Quảng Ninh “Vào đêm khuya, các hiệu thuốc đóng cửa, tôi không dám gọi to [người bán thuốc] vì sợ bảo vệ.” –An Giang 8 Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV 8. Bản thân chưa có ý thức trách nhiệm trong việc phòng ngừa HIV Trong một số trường hợp, khách hàng đã biết mình nhiễm HIV nhưng vẫn tiếp tục dùng chung bơm kim tiêm dù biết có thể gây nguy cơ cho người khác. Bản thân người NCMT thiếu trách nhiệm trong việc phòng ngừa lây truyền HIV là trở ngại chính của việc hạn chế sự lan truyền căn bệnh này, đặc biệt là tại các tỉnh/thành phố nơi các hành vi dùng chung dụng cụ tiêm chích còn phổ biến. “Đã xét nghiệm rồi, đằng nào cũng nhiễm HIV rồi còn chích riêng làm gì cho tốn thuốc.” –Cẩm Phả Vượt qua những trở ngại đối với việc giảm hành vi tiêm chích không an toàn Một thông điệp dự phòng cơ bản mà người NCMT muốn đưa ra cho tất cả những người nghiện chích khác là không nên quá tin tưởng’ vào bạn bè. Người NCMT nhấn mạnh không nên tin tưởng cho rằng bạn bè và người thân của mình không thể bị nhiễm HIV và cần luôn luôn mang theo mình bơm kim tiêm riêng. “Phải chơi bơm kim tiêm riêng. Không tin vào bạn bè. Mua để sẵn.” –An Giang “Chỉ có thông điệp 1 mình 1 bơm. Nếu không thì chỉ có bỏ hẳn thuốc phiện.” –Quảng Ninh Khuyến nghị thứ hai của nhóm NCMT là mở rộng hơn nữa mạng lưới phân phát bơm kim tiêm sạch và mỗi ngày cần phát nhiều bơm kim tiêm hơn. Đối với những người nghiện nặng, tiêm chích an toàn không quan trọng bằng việc làm dịu các triệu chứng vã thuốc. 9Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV Vì thế, người NCMT cho biết bơm kim tiêm cần phải có nhiều và dễ lấy, nếu không nhiều người ta sẽ chẳng quan tâm đến việc tiêm chích an toàn miễn sao thể nhanh chóng thỏa mãn cơn đói thuốc. “Các đồng đẳng cần tuyên truyền cho dịch vụ phân phát bơm kim tiêm cho mọi người nhiều hơn nữa với cả nước cất nữa.” –Hải Phòng “Một ngày anh chơi 3-4 phát mà chỉ có một cái bơm thì lấy đâu ra mà chích riêng.“ –Quảng Ninh Kế hoạch phân phát bơm kim tiêm sạch cần bổ sung thời gian phân phát vào buổi tối và các địa điểm nơi người NCMT thường tụ tập. “Đêm chẳng ai bán mà cứ đến chỗ Thính già gọi mãi cũng ngại, mấy lần lại ở xa nữa.” –Quảng Ninh Nhiều người khác khuyến nghị rằng nên cung cấp dịch vụ điều trị lạm dụng ma túy tại các câu lạc bộ. “Bọn anh cứ nghĩ tại câu lạc bộ có thuốc cai để phát cho bọn anh cai tại nhà nhưng chẳng có gì.”–Quảng Ninh “Đề nghị CLB có thuốc cai nghiện cho tụi em chứ lỡ chơi rồi bây giờ mà nghỉ thì rất khó, chỉ có thuốc mới nghỉ chích được.” –An Giang Một người khuyến nghị rằng gia đình nên được đào tạo kỹ năng hỗ trợ và cảm thông với người nghiện ma túy đang thực sự có ý thức cố gắng từ bỏ ma túy. “Em cũng muốn bỏ tiêm chích lắm rồi, nhưng giờ có bỏ, cả nhà cũng chẳng ai tin, biết làm thế nào, cứ chơi, đến đâu hay đến đấy.” –Quảng Ninh 10 Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV 1. Tình yêu đối với bạn tình Bao cao su bị coi là không phù hợp khi đã thực sự có tình yêu và sự quan hệ mật thiết với bạn tình. Với nhiều người, bao cao su là biểu hiện của sự không tin tưởng. Do đó không dùng bao cao su chính là thể hiện sự tin tưởng đối với bạn tình và với mối quan hệ đó. “Với những bạn gái thân thiết, lành mạnh, khoẻ mạnh, an toàn, em nghĩ họ không có bệnh (nên không cần dùng).”–Cần Thơ “Với người yêu tôi không dùng vì tôi tin tưởng vào người yêu tôi.”–Hải Phòng Thậm chí một cặp vợ chồng, khi biết người kia có nguy cơ lây nhiễm cao, họ coi việc chấp nhận nguy cơ lây nhiễm HIV như một hành động thể hiện tình yêu. “Không! Chồng (cũ) nó bị SIDA chết, mà mình yêu nó mà cũng chẳng dùng OK gì. Tại yêu nó.” –Hải Phòng 2. Thiếu khả năng thuyết phục bạn tình sử dụng bao cao su Việc bạn tình của người NCMT từ chối sử dụng bao cao su không phải là không phổ biến. Những người được phỏng vấn đều nói là họ đã cố gắng thuyết phục bạn tình của họ sử dụng bao cao su xong không thành công. “Lần gần nhất em không dùng bao cao su vì bạn gái em không cho dùng.” –Cần Thơ “Bọn anh yêu nhau hai năm rồi nhưng có quan hệ khoảng một năm nay thôi, con người yêu anh nó không thích anh dùng bao. Nó bảo mỗi lần nào mà anh dùng bao là nó ngứa thế là chẳng bao giờ dùng.” –Quảng Ninh “Đã yêu nhau rồi thì chẳng bao giờ dùng đâu. Bạn gái anh nó cũng không thích. Anh dùng bao mấy lần thử, nó bảo: Chán!” –Quảng Ninh 3. Tác động của rượu và sự hấp dẫn mạnh mẽ với vẻ bề ngoài của bạn tình Uống rượu được cho là một hành vi gây ảnh hưởng tiêu cực tới việc sử dụng bao cao su và làm suy giảm khả năng ra quyết định thực hiện tình dục an toàn. “Có lần 2 năm rồi, em phê rượu, đi chơi gái, cứ đòi mãi nó đồng ý. Giờ nghĩ lại cứ thấy ghê ghê anh ạ.” – Quảng Ninh Nhiều người cho rằng ý thức quyết tâm sử dụng bao cao su thường bị giảm sút khi họ thấy bạn tình rất hấp dẫn, nhất là khi họ mua dâm. “Nhìn ngon quá thì không muốn đeo, mất độ sướng.” –Quảng Ninh NhữNg TrỞ NgẠi đỐi với việc SỬ DỤNg Bao cao SU ThườNg XUyÊN 11Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV Notes from the field 4. Hiểu biết sai lệch trong nhóm NCMT về HIV và đường lây truyền HIV Với một vài người, quan hệ tình dục không an toàn là do không hiểu biết đầy đủ về đường lây truyền của HIV. “...Nghĩ qua đường miệng thì việc gì, đi chơi chẳng bao giờ dùng.” –Quảng Ninh “Trước đây, quan hệ với gái mại dâm không dùng bao cao su vì chưa hiểu nhiều về đường lây.” – Hải Phòng Hơn nữa, một số lại có quan niệm hết sức sai lầm rằng nếu bạn tình quyến rũ thì sẽ ít có nguy cơ hơn. “Nhìn cô nào trắng trẻo, xinh xắn ấy, trông người thế thì làm sao mà bị được.” –Quảng Ninh “Lý do không sử dụng bao cao su quan hệ tình dục là đối với bạn tình, (tôi) tin tưởng không có bệnh.” –Cần Thơ Tương tự như thế, chỉ bằng đánh giá vẻ bề ngoài, một vài người tin rằng những gái mại dâm kém hấp dẫn sẽ có nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn. “Lần nào chơi cũng không dùng, trừ con nào xấu quá.” –Hải Phòng 5. Cảm giác bất lực, đặc biệt những người đã nhiễm HIV Một số khách hàng biết mình có HIV dương tính nói rằng họ thực sự thấy họ có khả năng và trách nhiệm bảo vệ người khác khỏi bị lây nhiễm HIV. Tuy nhiên, một số khác lại vẫn tiếp tục có quan hệ tình dục không an toàn với phụ nữ mại dâm. “Không, vì bị bệnh rồi, không cần dùng bao nữa.” – Hải Phòng “Chỉ không dùng với gái mại dâm khi mới biết kết quả xét nghiệm do chán đời.” –Hải Phòng “Khi mới biết bị HIV có 1, 2 lần quan hệ 12 Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV với gái mại dâm không dùng bao cao su.” – Hải Phòng Khuyến nghị giúp nâng cao tỷ lệ thường xuyên sử dụng bao cao su Khách hàng nhấn mạnh rằng cần phải nâng cao nhận thức xã hội về nguy cơ lây nhiễm HIV và nâng cao ý thức trách nhiễm của mỗi cá nhân về việc bảo vệ sức khỏe của bản thân cũng như sức khỏe của người khác. Một số cho rằng cần phải tăng cường các chiến dịch thông tin và truyền thông đại chúng tập trung vào các cơ sở giải trí. “Bây giờ em muốn giữ cho mình lắm, nhưng vì ngại bạn bè nên không dám nói, nếu dự án có thể hướng dẫn cho nhiều người khác như em thì chúng nó mới chịu thay đổi.” –Quảng Ninh “Truyền thông sâu rộng và phát thật nhiều bao cao su tại các nhà hàng. Cần có thông điệp: Em xinh đấy nhưng anh vẫn phải dùng bao.” –Quảng Ninh TrỞ NgẠi TroNg việc TiẾp cẬN DỊch vỤ Tư vấN XéT Nghiệm Tự NgUyệN (vcT) 1. Chưa nhận thức được lợi ích của việc phát hiện tình trạng nhiễm HIV Khách hàng nói rằng họ ngại không tận dụng các dịch vụ VCT miễn phí bởi vì họ cho rằng người nghiện thì không thể tránh khỏi nhiễm HIV. Họ nghĩ rằng biết mình nhiễm HIV cũng chẳng đem lại ích lợi gì, mà chỉ càng làm cho họ thêm lo lắng và đau khổ. “Ôi trời ơi! Không biết bệnh thì còn sống thêm vài năm nữa. Xét nghiệm làm gì, đằng nào cũng bệnh rồi.” –Hải Phòng “Đằng nào cũng bị bệnh rồi, không biết chính xác kết quả thì đỡ phải nghĩ.” –Hải Phòng 2. Không tin rằng mình có nguy cơ bị lây nhiễm vì không thấy mình có triệu chứng gì Mặc dù có các hành vi nguy cơ như dùng chung kim tiêm, một số khách hàng vẫn nói họ không tin rằng họ có nguy cơ lây nhiễm HIV, đã lây nhiễm HIV, hay có lý do nào để phải đi xét nghiệm bởi vì họ không thấy xuất hiện các triệu chứng sức khoẻ bị suy yếu. “Tôi cảm thấy trong người tôi khoẻ mạnh, không có biểu hiện gì.” –Hải Phòng “Mình chưa đi xét nghiệm vì có chích chung 13Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV nhưng chưa phát bệnh.” –An Giang Một số cho rằng mình không có hy vọng bảo vệ được bản thân khỏi lây nhiễm HIV vì họ đã nghiện chích, có biết được về tình trạng nhiễm HIV cũng chằng có giá trị gì. “Cháu chưa đi xét nghiệm vì cháu thấy còn khoẻ mạnh, nhưng mà...nghiện như cháu xét nghiệm không cần thiết lắm.” - Hải Phòng 3. Lo sợ bị các nhân viên y tế kỳ thị và phân biệt đối xử Lo sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử là trở ngại phổ biến đối với nhiều người NCMT trong việc tiếp cận với các dịch vụ VCT. Họ lo sợ làm xét nghiệm có thể vừa lộ ra việc họ nghiện ma túy vừa lộ ra là họ đã bị nhiễm HIV. “Không thích xét nghiệm, bị người ta biết bệnh SIDA của mình. Mình biết, mình lại mặc cảm, suy nghĩ ra.” –Hải Phòng “Mình chưa đi xét nghiệm vì sợ bị phân tâm và gia đình biết.” –Cần Thơ 4. Lo sợ biết về tình trạng nhiễm HIV Khách hàng cho biết họ rất sợ phải biết việc mình có bị HIV dương tính hay không. Nhiều người cho rằng họ chưa sẵn sàng về mặt tâm lý để đối diện với kết quả xét nghiệm dương tính. “Nếu xét nghiệm mà có HIV thì đâm ra lo nghĩ, đau đầu.” –Hải Phòng “Vì mình không dám đối mặt với sự thật.” –Cần Thơ “Mình đi xét nghiệm về thêm lo, nếu bị thì cũng sợ.”–Quảng Ninh 5. Không biết về các dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trong khi phần lớn những người NCMT đều biết về các dịch vụ VCT tại cộng đồng và có thể nhớ tên cũng như vị trí của các cơ sở dịch vụ đó, vẫn có một số khách hàng nói rằng họ không hề biết đang tồn tại các cơ sở cung cấp dịch vụ như thế. “Em không biết chỗ và mới chơi ma tuý nên không dám đi.” –An Giang TrỞ NgẠi đỐi với việc SỬ DỤNg cÁc DỊch vỤ KhÁm vÀ điỀU TrỊ cÁc BệNh LÂy TrUyỀN QUa đườNg TÌNh DỤc (STi) 1. Không thấy xuất hiện các triệu chứng Khách hàng thường xuyên nói rằng họ không làm xét nghiệm phát hiện STI vì họ chẳng thấy có triệu chứng gì biểu hiện bị bệnh. Nhiều khách hàng nam giới không biết rằng họ vẫn có thể bị mắc STI mặc dù không hề xuất hiện các triệu chứng bệnh.Vì thế họ lầm tưởng rằng mình khỏe mạnh nên không làm xét nghiệm. “Em không bệnh gì cả. Có mồng gà, hột xoài nào đâu mà đi khám.” –An Giang “Đã bị đâu mà đi, ống xả còn ngon, bô biếc còn ngon.” –Quảng Ninh “Anh có bị làm sao đâu mà phải đi khám. Khi nào bị thì hãy tính còn bây giờ thì không đâu.” –Quảng Ninh 14 Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV 2. Các dịch vụ khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục chưa thuận tiện Một vài đối tượng NCMT nói rằng sử dụng các dịch vụ STI không thuận tiện và rất mất thời gian. Họ đặc biệt thấy ngại đi khám kiểm tra vì họ quan niệm rằng các thủ tục rắc rối phức tạp. “Không. Vì thủ tục khám rắc rối lắm.” –Hải Phòng 3. Lo sợ khi biết mình mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục Khách hàng cho biết rằng kết quả xét nghiệm STI dương tính sẽ làm họ lo lắng và đau khổ. Không một khách hàng nào đề cập đến lợi ích lâu dài của việc biết và điều trị STI quan trọng hơn nhiều mối lo ngại ban đầu do kết quả xét nghiệm dương tính gây ra. “Nhiều hôm cũng ngại ngại, sợ mình lo nghĩ thêm mệt...chủ yếu là vấn đề tư tưởng, nhiều lúc muốn đi lắm.” - Quảng Ninh “Đi xét nghiệm về thêm lo, nếu bị cũng sợ.” - Hải Phòng 4. Chi phí cho dịch vụ Chi phí cho các dịch vụ khám và thuốc men chữa trị STI thường được nhắc đến là một trở ngại. “Ừ. Ngại. Khác á...Thì chưa thích và sợ tốn tiền.” –Hải Phòng “Vì tự ở nhà chữa cũng được, cho đỡ tốn kém.” –Quảng Ninh Source: FHI 15Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV Bên cạnh các cuộc phỏng vấn dành cho những đối tượng tham gia phỏng vấn và các giáo dục viên đồng đẳng, FHI cũng thực hiện một cuộc thảo luận nhóm với sự tham gia của các cán bộ chương trình can thiệp. Dưới đây là bản tóm lược toàn bộ những khuyến nghị đã được nêu ra: giảm hÀNh vi TiÊm chích KhÔNg aN ToÀN Tăng cường cam kết của các khách hàng trong việc tự bảo vệ bản thân và tinh thần • trách nhiệm đối với người khác. Cần phải thực hiện và ưu tiên các can thiệp tập trung củng cố lòng tin của khách hàng vào khả năng của bản thân trong việc tự bảo vệ chính mình và những người khác khỏi bị lây nhiễm HIV. Nhiều đối tượng NCMT bày tỏ cảm giác vô vọng trong việc bảo vệ bản thân vì họ cho rằng mình không thể tránh khỏi nhiễm HIV. Dịch HIV lan rộng trong nhóm những người NCMT là do họ tự ti, cảm thấy tuyệt vọng, và bất lực. Các can thiệp cũng cần phải khơi dậy được ý thức trách nhiệm của chính những người trong việc bảo vệ những người NCMT khác nhằm làm giảm sự lan tràn của HIV qua những hành vi NCMT nguy cơ cao. Tăng cường tiếp cận bơm kim tiêm thông qua các kênh phi truyền thống, sử dụng • kinh phí ngoài nguồn hỗ trợ của PEPFAr. Đối với những người nghiện chích ma túy không thể hoặc không từ bỏ ma túy thì tiếp cận bơm kim tiêm sạch vẫn là cách can thiệp tốt nhất nhằm hạn chế lây truyền HIV. Cần củng cố và mở rộng hơn nữa các chương trình dự phòng và điều trị lạm dụng ma túy một cách toàn diện, trong đó có chương trình giảm thiểu nguy cơ trong khuôn khổ chính sách quy định cụ thể của các nhà tài trợ nhằm giảm thiểu tỷ lệ dùng chung kim tiêm. Khó tiếp cận với bơm kim tiêm sạch khi cần, đặc biệt là vào đêm khuya được nhiều người NCMT đề cập là một trở ngại chủ yếu đối với hành vi tiêm chích an toàn. Hiện nay, việc bán và phân phối bơm kim tiêm chủ yếu là qua các giáo dục viên đồng đẳng của các dự án ngoài PEPFAR, hiệu thuốc, phòng khám, hay bệnh viện. Khách hàng NCMT và giáo dục viên đồng đẳng khuyến nghị nên sử dụng các kênh phi truyền thống để phát bơm kim tiêm, như thông qua lái xe ôm hay những người bán hàng trên đường phố. Chương trình mở rộng cung cấp bao cao su thông qua các kênh phi truyền thống đã làm tăng đáng kể tính sẵn có và việc sử dụng bao cao su. Vì thế, các chương trình tương tự cũng nên được thí điểm nhằm phân phối bơm kim tiêm sạch, để giảm hành vi tiêm chích không an toàn. Phối hợp với các nhà tài trợ hỗ trợ cho các chương trình giảm thiểu nguy cơ. • Giảm thiểu nguy cơ là một phần thiết yếu của các chương trình can thiệp HIV và ma túy hiệu quả và toàn diện. Giảm thiểu nguy cơ hiện vẫn chưa được ưu tiên đúng mức và hỗ trợ kinh phí một cách đầy đủ ở Việt Nam. Các tổ chức quốc tế và các cơ quan chính phủ cần vận động để có thêm nguồn kinh phí tài trợ và điều phối việc sử dụng những nguồn kinh phí này với những đơn vị đang triển khai các chương trình giảm thiểu nguy cơ. Kết luận và Khuyến nghị 16 Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV Xây dựng những chính sách giúp tạo ra một môi trường không kỳ thị và thuận lợi cho • việc giảm hành vi tiêm chích không an toàn. Hành vi dùng chung bơm kim tiêm khá phổ biến trong nhóm NCMT, khiến họ dễ dàng bị lây nhiễm HIV. Các can thiệp trên diện rộng nhằm hỗ trợ cho hành vi tiêm chích an toàn như chương trình phân phát và trao đổi bơm kim tiêm vẫn còn thiếu ở Việt Nam. Kỳ thị đối với NCMT có thể gây cản trở đến hiệu quả của công tác tiếp thị xã hội nhằm tạo thuận lợi cho hành vi tiêm chích an toàn cũng như mở rộng phân phối bơm kim tiêm sạch thông qua các kênh phi truyền thống. Cần xây dựng các chính sách nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi và không kỳ thị đối với việc bán và phân phát bơm kim tiêm. Tạo một môi trường hỗ trợ cho việc giảm hành vi tiêm chích không an toàn thông qua • gia đình, cộng đồng và sự tham gia của đồng đẳng. Các khuyến nghị của nhóm NCMT và giáo dục viên đồng đẳng nhấn mạnh rằng để thực hiện được hành vi tiêm chích an toàn, cần phải có sự tham gia hỗ trợ của gia đình, cộng đồng và của các đồng đẳng. Khuyến nghị cũng nêu rõ nên mở rộng các chương trình tiếp cận thông qua đồng đẳng viên với sự tham gia của các bạn tình của người NCMT, người thân trong gia đình, lái xe ôm và các bạn bè khác nhằm khích lệ và nhắc nhở những người NCMT sử dụng bơm kim tiêm sạch. Mở rộng phạm vi các chương trình điều trị lạm dụng ma túy hiệu quả.• Ở Việt Nam vẫn còn thiếu các chương trình điều trị lạm dụng ma túy và điều trị bằng thuốc thay thế một cách hiệu quả cho những người đang sử dụng ma túy hay những người tái nghiện. Những can thiệp đặc biệt dành cho người đã từng sử dụng ma túy từ các trung tâm 06 sẽ có khả năng làm giảm các hành vi nguy cơ. Với việc hồi gia của hàng nghìn người nghiện chích ma túy đang cai nghiện trong vài năm tới, nhóm người này sẽ cần được hỗ trợ tâm lý, tư vấn, điều trị thuốc men và trị liệu, ví dụ điều trị bằng methadone khi bị tái nghiện. Mở rộng các chương trình giảm thiểu nguy cơ.• Với những người NCMT không thể hoặc sẽ không từ bỏ ma túy, việc sử dụng bơm kim tiêm sạch vẫn được xem là cách tiếp cận tốt nhất nhằm hạn chế lây truyền HIV. Các chương trình dự phòng và điều trị lạm dụng ma túy một cách toàn diện trong đó có giảm thiểu nguy cơ nhằm hạn chế hành vi sử dụng chung bơm kim tiêm cần được đẩy mạnh và mở rộng. 17Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV ThườNg XUyÊN SỬ DỤNg Bao cao SU Tăng cường khả năng và ý thức trách nhiệm của khách hàng với người khác.• Khách hàng cần có sự cam kết và ý chí quyết tâm để bảo vệ chính bản thân mình cũng như người khác khỏi bị lây nhiễm HIV. Các chương trình can thiệp cần xây dựng được niềm tin cho khách hàng rằng họ có thể tự kiểm soát được các hành động của mình và điều đó khiến họ có thể bảo vệ được những người thân yêu của họ. Tăng cường khả năng thuyết phục của phụ nữ mại dâm để họ có thể thuyết phục được • bạn tình thường xuyên của mình sử dụng bao cao su. Nhiều phụ nữ mại dâm NCMT nói rằng họ cảm thấy không có đủ kỹ năng để thuyết phục được bạn tình thường xuyên hay khách hàng nam giới của mình sử dụng bao cao su. Trở ngại trong việc sử dụng bao cao su rất khác nhau đối với từng phụ nữ mại dâm và khách mua dâm , vì thế, kỹ năng thuyết phục cần phải điều chỉnh sao cho thích hợp với từng loại phụ nữ mại dâm và bạn tình của họ. Xua tan những quan niệm và niềm tin sai lệch về lây truyền hiV vốn cản trở hành vi sử • dụng bao cao su thường xuyên. Kết quả thu được từ các cuộc phỏng vấn nhanh cho thấy quan niệm lệch lạc về lây truyền HIV vẫn là trở ngại lớn đối với nhóm NCMT. Các chiến dịch truyền thông thay đổi hành vi và thông tin đại chúng cần phải tháo gỡ những rào cản kiến thức và những nhầm tưởng hiện còn đang phổ biến trong mạng lưới những người NCMT. Tạo dựng môi trường hỗ trợ cho việc sử dụng thường xuyên bao cao su thông qua • tham gia của các đồng đẳng. Khuyến nghị từ các giáo dục viên đồng đẳng nhấn mạnh sự cần thiết của hỗ trợ đồng đẳng trong việc sử dụng bao cao su thường xuyên. Khuyến nghị cùng đề cập đến vai trò của các bạn tình của người NCMT cũng như các đồng đẳng khác trong việc khích lệ và nhắc nhở những người NCMT tự bảo vệ bản thân và bạn tình của họ khỏi bị lây nhiễm HIV/STI. 18 Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV TăNg cườNg SỬ DỤNg cÁc DỊch vỤ Tư vấN XéT Nghiệm Tự NgUyệN & DỊch vỤ KhÁm vÀ điỀU điỀU TrỊ cÁc BệNh LÂy TrUyỀN QUa đườNg TÌNh DỤc Xây dựng nhận thức về ích lợi của việc xét nghiệm thường xuyên.• HIV vẫn tiếp tục lan rộng khi mọi người không biết mình đã bị nhiễm và vẫn tiếp tục có các hành vi tình dục không an toàn ngay cả với bạn tình thường xuyên của mình. cải thiện chất lượng và sự tiện lợi của các dịch vụ VcT/STi.• Nhiều người NCMT nói rằng các dịch vụ VCT và STI cần được cải thiện và trở nên tiện lợi hơn nữa. Cả người NCMT và giáo dục viên đồng đẳng cùng khuyến nghị rằng các câu lạc bộ, các cơ sở dịch vụ VCT và STI cần cung cấp các dịch vụ lồng ghép bao gồm dịch vụ VCT, STI, thuốc men, giáo dục giải trí, và chuyển tuyến. Tăng cường khả năng tiếp cận với các dịch vụ VcT/STi thông qua các hoạt động xây dựng hình ảnh • sáng tạo và tiếp cận cộng đồng mục tiêu. Các can thiệp mục tiêu cần được thực hiện nhằm tăng cường sử dụng các dịch vụ VCT/STI của nhóm NCMT. Mô hình phòng khám di động cung cấp lồng ghép các dịch vụ VCT và STI cần được thí điểm nhằm tiếp cận nhóm NCMT hiện đang sinh sống tại những vùng xa trung tâm thành phố hay những người không đến được các cơ sở dịch vụ do không có phương tiện đi lại. Tăng cường năng lực cho nhân viên y tế nhằm giúp họ có khả năng cung cấp các dịch vụ VcT và STi thân • thiện với khách hàng. Người NCMT gặp rất nhiều trở ngại trong việc đi khám thường xuyên, chẳng hạn như xấu hổ, lo rằng mình sẽ bị bác sĩ hay nhân viên y tế phát hiện là NCMT và vì thế sẽ bị chỉ trích. Đào tạo và giáo dục cho nhân viên y tế cung cấp dịch vụ VCT và STI để họ hiểu được ích lợi của việc cung cấp các dịch vụ điều trị và chăm sóc một cách thân thiện không kỳ thị với tất cả các bệnh nhân chính là biện pháp tốt giúp thúc đẩy việc sử dụng các dịch vụ VCT/STI. các chiến dịch truyền thông đại chúng chống kỳ thị đối với việc sử dụng các dịch vụ VcT và STi. • Lo sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử được xem là trở ngại chính của nhóm NCMT khi muốn tiếp cận với các dịch vụ điều trị STI cũng như tư vấn và xét nghiệm HIV. Ở Việt Nam, sử dụng các dịch vụ VCT và STI thường bị kỳ thị. Nhiều người cho rằng các dịch vụ này chỉ chuyên dành cho các nhóm quần thể có nguy cơ rất cao. Triển khai mở rộng nhanh chóng các dịch vụ VCT/STI cũng như truyền thông đại chúng về các dịch vụ này, đặc biệt là truyền thông cho khách mua dâm, sẽ làm giảm kỳ thị đối với loại hình dịch vụ này đồng thời giúp nâng cao mức độ nhận thức về nguy cơ của toàn xã hội. Thiết kế & in ấn: công ty LUcK hoUSE graphicS in 500 bản tiếng việt và 500 bản tiếng anh khổ 21x28 (cm) giấy phép xuất bản số: 974-2007/cXB/01-171/vhTT cấp ngày 14-12-2007 in xong nộp lưu chiểu vào quý i năm 2008 20 Trao đổi với người nghiện chích ma túy: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi dự phòng HIV Fhi/Vietnam Tầng 3, số 1 Bà Triệu, Hà Nội, Việt Nam Điện thoại: (84.4) 934.8560 – Fax: (84.4) 934.8650 Email: fhivn@fhi.org.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTập huấn - Trao đổi với người nghiện ma túy về phòng chống HIV.pdf