Bên cạnh việc bổ sung thêm tội danh mới vào Bộ luật Hình sự, Việt Nam cần sửa đổi khái niệm rửa tiền trong Nghị định số 74/2005/NĐ-CP cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Điều lưu ý về mặt thuật ngữ, Công ước Viên của Liên hợp quốc chưa sử dụng thuật ngữ rửa tiền; Công ước Palermo và Công ước về chống tham nhũng sử dụng thuật ngữ “laundering of proceeds of crime”, theo sát nghĩa của thuật ngữ này, chúng ta có thể gọi là rửa tiền /tài sản có nguồn gốc từ tội phạm; Khuyến nghị của FATF sử dụng thuật ngữ “money laundering”, có nghĩa là rửa tiền. Tất cả các văn bản trên không đưa ra định nghĩa về “laundering of proceeds of crime” hay “money -laundering” mà chỉ xác định các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp hoặc do phạm tội mà có cần phải được quy định là tội phạm. Về mặt hình thức văn bản, chúng tôi đồng ý với ông Ric Power - cố vấn phòng chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố, chương trình toàn cầu phòng chống rửa tiền, Cơ quan Phòng chống ma túy và tội phạm của Liên hiệp quốc - là Việt Nam cần tiến tới xây dựng Luật Phòng chống rửa tiền (14).
Thứ hai, xây dựng cơ quan tình báo tài chính (Financial Intelligence Unit-FIU) với chức năng và vai trò theo khuyến nghị số 26 của FATF. Hiện nay, Trung tâm thông tin chống rửa tiền thuộc NHNN Việt Nam, mà NHNN Việt Nam chỉ là cơ quan ngang bộ - chưa có vị trí độc lập như các cơ quan tình báo tài chính của các quốc gia khác. Ví dụ như Indonesia đã có FIU vào năm 2002 theo một đạo luật của quốc hội; Philippines có Hội đồng chống rửa tiền (AMLC), cũng là FIU của Philippines, luật chống rửa tiền cho phép AMLC huy động sự hỗ trợ của bất kỳ nhánh nào thuộc Chính phủ
66 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2463 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tạp chí nghiên cứu lập pháp năm 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nếu theo quy định của Dự thảo, thì người vợ sẽ mặc nhiên được sở hữu nhà tại Việt Nam như công dân Việt Nam trong nước, bởi vì người này có quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, người chồng sẽ không được sở hữu nhà tại Việt Nam vì lý do vợ anh ta không cư trú tại Việt Nam. Đây là một điểm bất cập chắc chắn sẽ xảy ra nếu chúng ta vẫn giữ quy định người gốc Việt Nam “kết hôn với công dân Việt Nam ở trong nước” mới được quyền sở hữu nhà như công dân Việt Nam.
Tóm lại, việc mở rộng thêm đối tượng được sở hữu nhà tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo Dự thảo sẽ bảo đảm được quyền bình đẳng giữa công dân Việt Nam trong việc sở hữu nhà. Tuy nhiên, Dự thảo vẫn còn một số vấn đề cần bổ sung về nội dung và chỉnh sửa về kỹ thuật lập pháp để bảo đảm cho các quy định vừa ngắn gọn, đầy đủ, vừa bảo đảm tính chặt chẽ và bình đẳng giữa các chủ thể áp dụng khi họ có những yếu tố được hưởng quyền ngang nhau.
(1) Là người trực tiếp hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư, được cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
(2) Bao gồm: người được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng ngày 29/6/2005; người có thành tích đóng góp trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước được Chủ tịch nước, Chính phủ tặng Huân chương, Huy chương; được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen; được Chủ tịch Đoàn Chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan quản lý ngành ở Trung ương tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp của ngành đó; người tham gia vào Ban Chấp hành của các tổ chức chính trị - xã hội của Việt Nam từ cấp tỉnh trở lên được các tổ chức chính trị - xã hội đó xác nhận; người được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Hội, người là nòng cốt trong các phong trào, tổ chức của kiều bào có quan hệ với trong nước thông qua ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài và người có những đóng góp và giúp đỡ tích cực cho các cơ quan đại diện hoặc các hoạt động đối ngoại của Việt Nam ở nước ngoài xác nhận.
(3) Bao gồm: nhà văn hoá, nhà khoa học được phong học hàm, học vị về khoa học, giáo dục, văn hoá nghệ thuật của Việt Nam hoặc của nước ngoài; chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế - xã hội. Các đối tượng nêu tại điểm này phải được lãnh đạo Đảng, Nhà nước hoặc Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh mời về Việt Nam làm chuyên gia, cộng tác viên khoa học, giáo dục, văn hoá nghệ thuật, có xác nhận của lãnh đạo cơ quan mời.
(4) Đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam bao gồm: a) Tổ chức, cá nhân trong nước không phụ thuộc vào nơi đăng ký kinh doanh, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú; b) Người Việt Nam định cư ở nước ngoài quy định tại Điều 126 của Luật này; c) Tổ chức, cá nhân nước ngoài quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật này.
Phòng chống rửa tiền ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
ThS Vương Tịnh Mạch - Viện Nghiên cứu Phát triển TP. Hồ Chí Minh
Cách đây ba năm, Ngân hàng Thế giới (World Bank) đã đưa ra cảnh báo: Việt Nam đang trở thành mục tiêu của hoạt động rửa tiền vì hệ thống thanh tra, giám sát, hệ thống kế toán và tìm hiểu khách hàng của các ngân hàng còn kém phát triển; mức độ sử dụng tiền mặt và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn khiến cho việc kiểm soát các giao dịch, thanh toán trở nên khó khăn (1). Để phòng chống có hiệu quả loại tội phạm mới và phức tạp này, cần có sự nhận diện đúng về loại tội phạm này, về các hoạt động kinh tế có khả năng bị lợi dụng và phải xác định định hướng cũng như các giải pháp phù hợp.
1. Khái quát về rửa tiền
1.1. Khái niệm rửa tiền theo pháp luật Việt Nam
Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 đã có quy định về trách nhiệm của các tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp, nhưng chưa sử dụng thuật ngữ “rửa tiền”. Theo Điều 19 Luật các Tổ chức tín dụng “1. Tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng không được che giấu, thực hiện bất kỳ dịch vụ nào liên quan đến khoản tiền đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp. 2. Trong trường hợp phát hiện các khoản tiền có dấu hiệu bất hợp pháp, tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng phải thông báo ngay cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Ngày 07/6/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền. Trong Nghị định này, lần đầu tiên thuật ngữ “rửa tiền” được sử dụng và giải thích như sau:
“Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể sau đây:
a) Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do phạm tội mà có;
b) Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có;
c) Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm cách khác che đậy, nguỵ trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có”.
Như vậy, thực chất quy định về chống rửa tiền thông qua hoạt động ngân hàng đã có từ năm 1997, nhưng đến Nghị định số 74/2005/NĐ-CP, thuật ngữ “rửa tiền” mới được sử dụng và phạm vi của thuật ngữ này được hiểu khá hẹp, chỉ giới hạn trong 3 nhóm hành vi mà thôi.
1.2. Nhận diện quá trình rửa tiền
Việc rửa tiền thường được tiến hành theo một chu trình cơ bản bao gồm 3 giai đoạn: phân phối, dàn trải, hội nhập.
- Giai đoạn phân phối (placement): Phân phối nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp vào các định chế tài chính mà không bị phát hiện bởi các cơ quan luật pháp. Các tội phạm rửa tiền thực hiện đầu tư phân tán bằng cách chia các khoản “tiền bẩn” thành nhiều khoản tiền nhỏ dưới mức quy định.
- Giai đoạn dàn trải (layering): Tiền được chuyển từ tổ chức tài chính này sang tổ chức tài chính khác để che giấu nguồn gốc và chủ sở hữu của tiền. Thực chất đây là quy trình tạo ra một chuỗi các giao dịch nhằm mục đích che đậy các nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp và làm cho chúng ngày càng xa nguồn gốc ban đầu.
- Giai đoạn hội nhập (integration): Tiền được đầu tư vào những hoạt động kinh doanh hợp pháp (2).
2. Nhận diện hoạt động kinh tế có khả năng là công cụ rửa tiền ở Việt Nam
Những năm gần đây, thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán Việt Nam là hai thị trường có tốc độ phát triển rất khó dự đoán, dễ đi từ trạng thái phát triển nóng chuyển sang đóng băng. Không đi sâu vào diễn biến của hai thị trường này, nhưng nhìn chung, chỉ số VN -Index của thị trường chứng khoán liên tục tăng cao trong năm 2007 và đầu năm 2008. Tương tự, thị trường bất động sản cũng tăng cao trong nửa cuối năm 2007, nổi bật với hình ảnh những vụ chen lấn nhau mua căn hộ cao cấp tại thành phố Hồ Chí Minh, từ căn hộ The Manor, Phú Mỹ Hưng, The Mansio(3), sau đó là The Vista đến Sky Garden 3 (4), với giá bán được đẩy từ 1.600 USD lên đến 2.800 USD /m2 chỉ trong vài ngày (5). Điều này cho thấy, có một luồng tiền rất lớn, mà việc kiểm tra nguồn gốc không được quan tâm đúng mức, đã đổ vào thị trường này.
Ngay trong tháng 3/2007, ông Phùng Khắc Kế - Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước (NHNN) - đã có cảnh báo rửa tiền tham nhũng qua thị trường chứng khoán: “Nói đến nguồn trong nước, tôi cũng phải nói thêm một điều mà lâu nay báo chí và các chuyên gia kinh tế chưa nói đến là có một lượng tiền hình thành từ tiền thất thoát hay là tham nhũng cũng vậy. Chúng ta biết rằng, nguồn vốn xây dựng cơ bản và nguồn vốn đầu tư nói chung là rất lớn; chỉ với con số thanh tra nêu là 10% thất thoát vào túi các cá nhân trong các lĩnh vực này thì cũng đã là một con số rất lớn. Ví dụ, một năm đầu từ 200 ngàn tỷ thì 10% thì con số này là 20 ngàn tỷ; số vốn này nếu chuyển qua đầu tư chứng khoán cũng là một yếu tố thúc đẩy sự nóng lên của thị trường trong thời gian qua” (6) . Ngoài ra, nguồn vốn của các quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam cũng chưa kiểm tra, giám sát được, mặc dù số lượng các quỹ không nhiều. Đối với thị trường bất động sản, giao dịch đa số đều thanh toán bằng tiền mặt, nhưng hoạt động điều tra, phân tích các giao dịch này chưa được thực hiện.
3. Hoạt động phòng chống rửa tiền hiện nay và định hướng
3.1 Hoạt động phòng chống rửa tiền hiện nay
Nhằm mục tiêu phòng chống rửa tiền, Trung tâm thông tin chống rửa tiền thuộc NHNN đã được thành lập theo Quyết định số 1002/QĐ-NHNN ngày 08/7/2005 của Thống đốc NHNN Việt Nam và chính thức đi vào hoạt động từ 01/8/2005. Đến nay, Trung tâm này đã nhận được khoảng 20 báo cáo về các giao dịch tình nghi là rửa tiền. Tuy nhiên, chưa một vụ nghi vấn nào được kết luận là hành vi rửa tiền (7). Điều này không đồng nghĩa là tại Việt Nam chưa có hành vi rửa tiền. Các giao dịch về tài chính ở Việt Nam chủ yếu là tiền mặt trao tay, ít dùng các công nghệ thanh toán như các nước trên thế giới, khiến việc kiểm tra hoạt động rửa tiền gần như không thể thực hiện.
Cuối tháng 9/2008, vụ án rửa tiền xuyên quốc gia đầu tiên ở Việt Nam được phát hiện, xác định rõ nguồn gốc xuất xứ tiền phạm pháp và bắt được đối tượng phạm tội là người nước ngoài. Bọn tội phạm đánh cắp từ một tài khoản có uy tín tại nước ngoài, chuyển vào Việt Nam tại 2 chi nhánh ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng và Bà Rịa - Vũng Tàu. Từ đó, đối tượng tên Baggio Carlitos Linska (quốc tịch Mozambique), người mở tài khoản và rút trên 4, 1 tỷ đồng tại Đà Nẵng, đã bị bắt tạm giữ tại sân bay Tân Sơn Nhất ngày 24/9/2008. Cùng ngày, Phòng An ninh kinh tế (PA17) Công an Đà Nẵng cũng phối hợp với Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bắt tạm giữ khẩn cấp đối với Massamba Lendebe Elvis, quốc tịch Mozambique tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Riêng đối tượng Niaty Lokasso Djamba, quốc tịch Congo - người mở tài khoản và được chuyển số tiền hơn 3, 34 tỷ đồng tại Bà Rịa - Vũng Tàu đã bỏ trốn (8).
3.2 Định hướng
Việt Nam trở thành thành viên (Member Jurisdiction) thứ 33 của Nhóm Châu á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Group - APG) một tổ chức quốc tế mang tính tự quản và hợp tác về chống rửa tiền vào tháng 5/2007(9). Là thành viên của APG, Chính phủ Việt Nam cam kết thi hành theo đúng các điều khoản phòng chống rửa tiền, đặc biệt là phải thực thi 40 khuyến nghị (10) của lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (Financial Action Task Force on Money - Laundering - FATF(11). Điều này có nghĩa là, Việt Nam vừa tuân thủ theo các quy định quốc tế, vừa phải để cho FATF giám sát và theo dõi cơ chế chống rửa tiền một cách chặt chẽ, cũng như phải được các cơ quan độc lập khác đánh giá, xem xét (12). Như vậy, hoạt động phòng chống rửa tiền hiện nay cần phải theo định hướng phát triển sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về chống rửa tiền theo tiêu chuẩn quốc tế
Tháng 2/2004, Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của Liên hiệp quốc đã công bố ấn phẩm “An overview of the UN conventions and the international standards concerning anti -money laundering legislation”(13) ấn phẩm này tập hợp, hệ thống hóa quy định của các công ước của Liên hợp quốc và các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến chống rửa tiền theo 16 nhóm chủ đề như sau: các định nghĩa về tài chính, nhận diện khách hàng, lưu giữ thông tin, báo cáo… Trong tài liệu này không chỉ giới thiệu quy định của các công ước của LHQ mà còn có các Chỉ thị (Directive) của Nghị viện châu Âu, các khuyến nghị (recommendations) của Lực lượng đặc nhiệm tài chính chống rửa tiền (FATF). Tháng 1/2007, ấn phẩm này được cập nhật các quy định mới của Hội đồng châu Âu. Trong 40 khuyến nghị của FATF mà Việt Nam phải tuân thủ có khuyến nghị số 1 và số 2 chỉ rõ việc hình sự hóa hành vi rửa tiền cần phải phù hợp với tiêu chuẩn công bố trong Công ước Viên và Công ước Palermo. Đối chiếu yêu cầu hình sự hóa của Công ước Viên và Công ước Palermo và khuyến nghị của FATF, Việt Nam đã hình sự hóa khá nhiều các hành vi rửa tiền. Tuy nhiên, còn phải bổ sung các tội danh mới vào Bộ luật Hình sự cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố như tội giao dịch nội gián, tội thao túng thị trường, tội tài trợ khủng bố, tội buôn người (BLHS năm 1999 chỉ có tội buôn bán phụ nữ (Điều 119), tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120), tội đưa người nhập cư bất hợp pháp.
Bên cạnh việc bổ sung thêm tội danh mới vào Bộ luật Hình sự, Việt Nam cần sửa đổi khái niệm rửa tiền trong Nghị định số 74/2005/NĐ-CP cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Điều lưu ý về mặt thuật ngữ, Công ước Viên của Liên hợp quốc chưa sử dụng thuật ngữ rửa tiền; Công ước Palermo và Công ước về chống tham nhũng sử dụng thuật ngữ “laundering of proceeds of crime”, theo sát nghĩa của thuật ngữ này, chúng ta có thể gọi là rửa tiền /tài sản có nguồn gốc từ tội phạm; Khuyến nghị của FATF sử dụng thuật ngữ “money laundering”, có nghĩa là rửa tiền. Tất cả các văn bản trên không đưa ra định nghĩa về “laundering of proceeds of crime” hay “money -laundering” mà chỉ xác định các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp hoặc do phạm tội mà có cần phải được quy định là tội phạm. Về mặt hình thức văn bản, chúng tôi đồng ý với ông Ric Power - cố vấn phòng chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố, chương trình toàn cầu phòng chống rửa tiền, Cơ quan Phòng chống ma túy và tội phạm của Liên hiệp quốc - là Việt Nam cần tiến tới xây dựng Luật Phòng chống rửa tiền (14).
Thứ hai, xây dựng cơ quan tình báo tài chính (Financial Intelligence Unit-FIU) với chức năng và vai trò theo khuyến nghị số 26 của FATF. Hiện nay, Trung tâm thông tin chống rửa tiền thuộc NHNN Việt Nam, mà NHNN Việt Nam chỉ là cơ quan ngang bộ - chưa có vị trí độc lập như các cơ quan tình báo tài chính của các quốc gia khác. Ví dụ như Indonesia đã có FIU vào năm 2002 theo một đạo luật của quốc hội; Philippines có Hội đồng chống rửa tiền (AMLC), cũng là FIU của Philippines, luật chống rửa tiền cho phép AMLC huy động sự hỗ trợ của bất kỳ nhánh nào thuộc Chính phủ…
Thứ ba, phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt. Đây là một vấn đề khó khăn, nhưng Việt Nam phải từng bước thực hiện. Việc phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt như thế nào là một đề tài nghiên cứu khoa học được đầu tư thỏa đáng.
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10) Tháng 4/1990, FATF soạn thảo một bộ tài liệu gồm 40 khuyến nghị như là bước khởi đầu chống lại sự lạm dụng hệ thống tài chính để rửa tiền buôn lậu ma túy của cá nhân. Năm 1996, các khuyến nghị được chỉnh sửa để lần đầu tiên phản ánh sự biến hóa của các kiểu hệ thống rửa tiền. Năm 2001, FATF mở rộng nhiệm vụ của mình để giải quyết vấn đề tài trợ cho khủng bố và bước đi quan trọng là thiết lập 8 khuyến nghị đặc biệt về tài trợ khủng bố. Khuyến nghị đặc biệt thứ 9 được ban hành vào tháng 10/2004. Những khuyến nghị đặc biệt này có mục đích là đưa ra các biện pháp chống lại việc tài trợ cho các hoạt động khủng bố và tổ chức khủng bố. 40 khuyến nghị và 9 khuyến nghị đặc biệt của FATF cung cấp một loạt biện pháp toàn diện vì mục tiêu có một chế định và hệ thống pháp luật hữu hiệu nhằm chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.
(11) FATF là một cơ quan liên chính phủ được thành lập vào tháng 7/1989, có nhiệm vụ thiết lập các tiêu chuẩn, phát triển và thúc đẩy các chính sách quốc gia và quốc tế nhằm chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.
(12)
(13)
(14)
Thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất
TS Trần Anh Tuấn - Giảng viên Khoa Dân sự - Đại học Luật Hà Nội.
1. Về việc xác định những tranh chấp về quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự
Hiện nay, Khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 quy định: tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì thẩm quyền giải quyết được xác định theo hướng “Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết...”. Vấn đề đặt ra là: cần phải hiểu thuật ngữ “tranh chấp về quyền sử dụng đất” thuộc thẩm quyền dân sự của Toà án trong Điều luật này như thế nào cho đúng.
Chúng ta đều nhận thấy rằng, từ khi có Luật Đất đai năm 1987, các quy định về thẩm quyền của Toà án đối với các tranh chấp về quyền sử dụng đất theo các Luật Đất đai năm 1987, 1993 và 2003 là có sự khác nhau. Theo quy định tại Điều 21, 22 Luật Đất đai năm 1987 thì các tranh chấp về quyền sử dụng đất đai do UBND nơi có đất đai bị tranh chấp giải quyết. Tuy nhiên, khi giải quyết tranh chấp về nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc cây lâu năm thì Toà án nhân dân giải quyết cả quyền sử dụng đất có nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc cây lâu năm đó (1).
Theo Luật Đất đai năm 1993 thì người sử dụng đất được trao 05 quyền là quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, để thừa kế quyền sử dụng đất. Khoản 3 Điều 38 Luật này quy định “Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất đó thì do Toà án giải quyết”. Trên thực tế, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan cũng đã ban hành Thông tư liên tịch số 02 ngày 28/7/1997 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo Khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993. Tuy nhiên, văn bản này hoàn toàn không phân chia các loại tranh chấp về quyền sử dụng đất mà chỉ đề cập rất chung chung là Toà án có thẩm quyền đối với tranh chấp về tài sản trên đất và quyền sử dụng đất.
Theo Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/1/2002 hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất thay thế Thông tư số 02 nêu trên, thì Toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, 1993 sau đây:
- Tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất;
- Thừa kế quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất.
Nếu đất chỉ có giấy tờ được coi là hợp lệ thì các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền của Toà án bao gồm tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất (Toà án chỉ xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu); tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất.
Như vậy, Luật Đất đai năm 1987 có sử dụng thuật ngữ “các tranh chấp về quyền sử dụng đất đai”, thế nhưng các tranh chấp về quyền sử dụng đất đai thời kỳ này do UBND nơi có đất đai bị tranh chấp giải quyết. Tuy nhiên, khi giải quyết tranh chấp về nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc cây lâu năm thì Toà án nhân dân giải quyết cả quyền sử dụng đất có nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc cây lâu năm đó.
Luật Đất đai năm 1993, 2003 đều sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất”, tuy nhiên, nội hàm của khái niệm lại được giải thích khác nhau trong các văn bản hướng dẫn. Như đã nêu, Thông tư liên tịch số 02 hoàn toàn không phân chia các dạng tranh chấp (ai là người có quyền sử dụng, các giao dịch liên quan tới quyền sử dụng đất; thừa kế quyền sử dụng đất) mà chỉ đề cập rất chung chung là Toà án có thẩm quyền giải quyết đối với tranh chấp về tài sản trên đất và quyền sử dụng đất. Thông tư liên tịch số 01 ngày 3/1/2002 hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất thay thế Thông tư số 02 cũng không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” mà sử dụng một thuật ngữ khác là “các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất” thuộc thẩm quyền của Toà án. Theo đó các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền của Toà án bao gồm:
- Tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất;
- Thừa kế quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất.
Thuật ngữ “các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất” là một thuật ngữ có nội hàm rất rộng, bao gồm cả tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Theo suy luận logic thì tranh chấp về quyền sử dụng đất sẽ bao gồm ba loại: tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất (thực chất là tranh chấp quyền sử dụng đất hay cụ thể hơn là kiện đòi đất đang bị người khác chiếm giữ, tranh chấp mốc giới); tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất.
Thiết nghĩ, việc hiểu và vận dụng thuật ngữ “tranh chấp về quyền sử dụng đất” theo hướng này là hợp lý cả về vấn đề logic ngôn ngữ và thực tiễn. Theo đó, tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết. Riêng đối với các tranh chấp hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất chưa có “giấy tờ hợp lệ” (thực chất là chưa có quyền sử dụng đất) Toà án vẫn có thẩm quyền thụ lý giải quyết nhưng chỉ có thẩm quyền giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu chứ không có thẩm quyền quyết định ai là người có quyền sử dụng đất. “Tranh chấp về quyền sử dụng đất” chỉ đặt ra khi quyền đó đã được khẳng định bởi các giấy tờ hợp lệ rồi mà vẫn phát sinh các tranh chấp liên quan.
Một vấn đề nữa cần làm rõ là “tranh chấp về quyền sử dụng đất” có phải là “tranh chấp đất đai” hay không. Luật Đất đai năm 1987, 1993 không có phần giải thích thuật ngữ. Theo Khoản 26 Điều 4 về giải thích từ ngữ trong Luật Đất đai năm 2003 thì “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Nếu suy luận theo Điều 136 của Luật này, chúng ta thấy có một sự tương đồng giữa hai thuật ngữ “tranh chấp đất đai” và “tranh chấp về quyền sử dụng đất”. Điều này là cơ sở quan trọng để chúng ta giải quyết vấn đề hoà giải cơ sở đối với những tranh chấp về đất đai.
2. Về việc hoà giải cơ sở đối với những tranh chấp về đất đai
Hiện nay, theo quan điểm của những người làm công tác thực tiễn thì mọi tranh chấp đất đai đều phải qua thủ tục hoà giải tại UBND xã, phường trước khi khởi kiện ra Toà án. Vậy chúng ta thử đi tìm triết lý ngược với luận điểm này, dưới góc độ quyền tiếp cận công lý của công dân.
Theo Luật Đất đai năm 1987, 1993 thì vấn đề hoà giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai không là thủ tục bắt buộc. Theo Khoản 1 Điều 135 Luật Đất đai năm 2003 thì “Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ sở”. Như vậy, theo quy định này thì Nhà nước khuyến khích giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ sở chứ không coi hoà giải cơ sở là thủ tục bắt buộc trước khi khởi kiện ra Toà án.
Thế nhưng, theo quy định tại Khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 thì “Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại UBND xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí” thì được giải quyết như sau: “Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết”. Quy định này dẫn tới cách hiểu trong thực tiễn tố tụng tại Toà án là mọi tranh chấp đất đai đều bắt buộc phải thông qua con đường hoà giải cơ sở.
Trong Công văn số 116 của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) ngày 22/7/2004, thì “Theo tinh thần quy định tại Điều 135 và Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 thì tranh chấp đất đai nhất thiết phải qua hoà giải tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp... Do vậy, “Kể từ ngày 01/07/2004 trở đi, Toà án chỉ thụ lý, giải quyết tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại UBND cấp xã mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí và khởi kiện đến Toà án”. Quan niệm này lại được khẳng định một lần nữa trong bản tham luận của Toà Dân sự TANDTC ngày 3/1/2005. Theo đó, quyền sử dụng đất bao gồm hai loại nhóm quyền:
- Nhóm quyền chung của người sử dụng đất theo Điều 105 Luật Đất đai năm 2003: Quyền khai thác công dụng và hiệu quả của đất, được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; được bảo hộ quyền sử dụng đất khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình.
- Nhóm quyền thứ hai theo Điều 106 của Luật này: Được thực hiện các hành vi dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình đó là quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Toà Dân sự TANDTC cho rằng, khi có tranh chấp về những quyền này thì đó là tranh chấp về quyền sử dụng đất và tất cả các loại tranh chấp về quyền sử dụng đất nói trên đều phải qua hoà giải cơ sở tại UBND xã, phường, thị trấn. Quan điểm này dựa trên lập luận rằng, việc tranh chấp quyền sử dụng đất xuất phát từ nội bộ nhân dân, nội bộ gia đình, họ hàng, làng xóm. Mặt khác, loại tranh chấp này ngày một nhiều và rất phức tạp. Do vậy, hoà giải ở cơ sở có kết quả vừa tăng cường đoàn kết trong nội bộ nhân dân, vừa giảm nhẹ một phần công việc của Toà án. Hoà giải cơ sở còn là một cơ hội để đương sự chuẩn bị chứng cứ chứng minh ra Toà án nếu hoà giải không thành.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng, tranh chấp về quyền sử dụng đất chưa hẳn là tranh chấp trong nội bộ gia đình, họ hàng, làng xóm, nhất là các tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất tại đô thị và các vùng lân cận. Hoà giải ở cơ sở bắt buộc nhằm tăng cường đoàn kết trong nội bộ nhân dân chỉ nên đặt ra đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất, mốc giới giữa các hộ liền kề. Nếu quan niệm tất cả các tranh chấp về quyền sử dụng đất đều phải qua hoà giải cơ sở thì phải chăng đã tạo thêm một trở ngại cho người dân trên con đường đi tìm công lý? Và tại Tòa án, một điều xảy ra là 100% các tranh chấp liên quan đến bất động sản sẽ đều phải giải quyết thông qua con đường hoà giải cơ sở, kể cả các tranh chấp hợp đồng về nhà đất, quyền sử dụng đất, giao dịch về kinh doanh bất động sản; chia thừa kế; chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn... Chẳng hạn, người chết để lại di sản là nhà đất tại phường X quận Y của Hà Nội, nhưng những người thừa kế lại cư trú ở nhiều tỉnh, thành phố khác nhau như thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ... thì những người thừa kế bắt buộc phải tụ hội về Hà Nội để tham gia hoà giải cơ sở trước khi khởi kiện ra Toà án. Điều này gây mất thời gian và tổn phí cho các đương sự trong việc đi lại. Trường hợp vợ chồng muốn ly hôn và chia tài sản vợ chồng là nhà đất cũng phải yêu cầu và chờ UBND xã, phường hoà giải xong rồi mới có thể kiện ra Toà án để yêu cầu ly hôn và chia tài sản vợ chồng. Phải chăng vấn đề không còn là khuyến khích hoà giải cơ sở nữa, mà là bắt buộc phải hoà giải cơ sở và quyền tự định đoạt của đương sự đã không được tôn trọng một cách đúng mức.
Xét về phương diện thời hiệu thì thời hiệu khởi kiện đối với mỗi loại án kiện đã được quy định trước trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Do vậy, trong thực tiễn, nếu coi mọi tranh chấp đất đai đều bắt buộc phải thông qua con đường hoà giải cơ sở trước khi khởi kiện ra Toà án thì trong nhiều trường hợp dẫn tới hậu quả là đương sự mất quyền khởi kiện ra Toà án do thời hiệu khởi kiện đã hết. Đó là chưa tính đến theo Điều 135 Luật Đất đai năm 2003 thì thời hạn hoà giải hiện nay là khá dài (30 ngày kể từ nhận được đơn) và trong thực tiễn, thời hạn này có thể bị vi phạm bởi các chủ thể có thẩm quyền hoà giải.
Theo chúng tôi, sẽ hợp lý hơn nếu việc hoà giải cơ sở đối với các tranh chấp về đất đai được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của các đương sự và việc hoà giải cơ sở chỉ bắt buộc đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất, mốc giới giữa các hộ liền kề nhằm duy trì tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Tuy nhiên, nếu nhà làm luật vẫn mở rộng phạm vi hoà giải bắt buộc đối với tất cả các tranh chấp đất đai thì cũng cần có quy định bổ sung nhằm bảo đảm các quyền tố tụng của đương sự theo hướng: Nếu hết thời hạn theo Khoản 2 Điều 135 Luật Đất đai năm 2003 (kể từ ngày UBND nhận đơn) mà UBND không tiến hành hoà giải hoặc không có điều kiện hoà giải (bên bị kiện không có thiện chí nên không có mặt hoặc không thể có mặt...) thì đương sự có quyền khởi kiện ra Toà án. Thời gian từ ngày đương sự nộp đơn yêu cầu hoà giải tại UBND cho tới khi khởi kiện ra Toà án không được tính vào thời hiệu khởi kiện.
3. Các tranh chấp dân sự liên quan tới quyền sử dụng đất có bắt buộc phải khởi kiện tại Tòa án nơi có bất động sản không?
Về thẩm quyền của Toà án nơi có bất động sản
Theo điểm c Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 thì Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản.
Quy định này được xây dựng dựa trên quan niệm là Toà án nơi có bất động sản là Toà án có điều kiện tốt nhất cho việc giải quyết tranh chấp. Bởi lẽ, tất cả các hồ sơ, giấy tờ về bất động sản do cơ quan quản lý bất động sản nắm giữ, cơ quan này nắm vững thực trạng, nguồn gốc của bất động sản. Do vậy, Toà án nơi có bất động sản có điều kiện xác minh để giải quyết sát với thực tế: xem xét, thẩm định tại chỗ (xác minh thực địa); cho định giá tài sản; thu thập tài liệu từ cơ quan nhà đất...
Vấn đề đặt ra cần phải làm rõ như thế nào là tranh chấp về bất động sản để xác định Toà án có thẩm quyền. Thiết nghĩ, quy định này cần được hiểu là áp dụng đối những vụ tranh chấp mà đối tượng của vụ tranh chấp là bất động sản, bao gồm tranh chấp quyền sở hữu như chủ sở hữu kiện đòi nhà ở bị chiếm giữ bất hợp pháp, tranh chấp vật kiến trúc khác trên đất, cây lâu năm trên đất; kiện đòi trả nhà, đất cho thuê, mượn; tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng; yêu cầu chia thừa kế nhà, quyền sử dụng đất; tranh chấp diện tích mua bán, mốc giới... Ngoài ra, có thể mở rộng việc áp dụng đối với tranh chấp các quyền gắn liền với bất động sản như tranh chấp quyền được tiếp tục thuê, tranh chấp về bất động sản liền kề như tranh chấp lối đi, trổ cửa, thoát nước, ranh giới... Nếu đối tượng tranh chấp chỉ là đòi tiền liên quan đến các giao dịch về bất động sản (nhà, đất...) như tiền mua bán, tiền thuê còn thiếu... thì đương sự phải khởi kiện tại Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc chứ không thể khởi kiện tại Toà án nơi có bất động sản. Về phương diện lý luận, đối tượng của vụ tranh chấp sẽ được xác định thông qua đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Về thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ đối với các tranh chấp thừa kế nhà đất hoặc quyền sử dụng đất
Trong thực tiễn, việc vận dụng quy định tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 để xác định thẩm quyền của Toà án đối với các tranh chấp thừa kế nhà đất hoặc quyền sử dụng đất, cũng có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tranh chấp thừa kế nhà đất hoặc quyền sử dụng đất không phải là tranh chấp về bất động sản, do vậy, trong những trường hợp này Toà án có thẩm quyền phải là Toà án nơi bị đơn giải quyết. Quan điểm này dựa trên lập luận rằng, đối với tranh chấp thừa kế nhà đất hoặc quyền sử dụng đất thì trước hết phải xác định xem ai là người có quyền thừa kế rồi mới chia, trong số các đương sự thì có đương sự chỉ yêu cầu hưởng giá trị chứ không yêu cầu chia hiện vật. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, tranh chấp thừa kế thì di sản có thể bao gồm cả động sản, bất động sản cho nên không thể áp dụng nguyên tắc xác định thẩm quyền của Toà án theo nơi có bất động sản toạ lạc. Thiết nghĩ, việc ban hành một văn bản pháp lý để hướng dẫn cụ thể về vấn đề này là hết sức cần thiết.
Việc nghiên cứu pháp luật một số nước và pháp luật chế độ cũ về tố tụng dân sự cho thấy, nguyên tắc nơi phát sinh sự kiện mở thừa kế sẽ được áp dụng để xác định thẩm quyền của Toà án đối với các vụ việc yêu cầu chia thừa kế. Tức là Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc sẽ là Toà án nơi mở thừa kế hay Toà án nơi khai phát di sản. Thế nhưng, luật thực định của chúng ta hiện nay không đề cập đến nguyên tắc này. Do vậy, chúng tôi cho rằng, trong khi nhà lập pháp chưa có những quy định khác thì việc xác định thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ tạm thời vẫn được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, trên nguyên tắc ưu tiên thẩm quyền giải quyết của Toà án nơi có bất động sản (nếu có nhiều bất động sản thì là Toà án nơi có một trong các bất động sản).
Chúng ta có thể tính đến phương án tách vụ án thừa kế về động sản và bất động sản riêng để xác định thẩm quyền của Toà án theo nguyên tắc nơi hiện diện của bị đơn và nơi có bất động sản tranh chấp, nếu có sự đồng thuận của các thừa kế. Tuy nhiên, tính khả thi trên thực tế của việc tách vụ án là không cao, bởi lẽ nếu tách vụ án thì khó giải quyết toàn diện việc chia di sản, hơn nữa trong số các đương sự có thể có đương sự không đồng ý việc tách vụ án thừa kế để chia riêng về động sản và bất động sản.
(1) Thông tư liên ngành số 04 ngày 3/5/1990 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Quản lý ruộng đất hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất đai quy định các tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất đai, bao gồm:
- Tranh chấp về nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc cây lâu năm gắn liền với việc sử dụng đất;
- Yêu cầu đòi bồi hoàn hoặc thừa kế thành quả lao động, kết quả đầu tư làm tăng giá trị của đất hoặc hoa màu, tài sản khi đất bị thu hồi;
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại do người khác xâm phạm quyền sử dụng đất gây ra;
- Tranh chấp đòi thừa kế vườn cây, sản phẩm nuôi, trồng thuỷ sản, các công trình xây dựng trên đất để tiếp tục khai thác.
Hội đồng tư pháp quốc gia - thiết chế độc lập về quản lý toà án của Tây Ban Nha
Đặng Hoàng Oanh - Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Tư pháp.
Một trong các biện pháp góp phần thực hiện thành công cải cách tư pháp tại Tây Ban Nha là giao công tác quản lý toà án về tổ chức cho một cơ quan độc lập: Hội đồng tư pháp quốc gia. Bài viết giới thiệu về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của thiết chế này với mục đích cung cấp thông tin tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách và pháp luật của Việt Nam trong quá trình hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp - một trong các nhiệm vụ quan trọng đã được đặt ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược về cải cách tư pháp đến năm 2020.
Để việc quản lý tòa án không ảnh hưởng đến sự độc lập của ngành tư pháp, nhiều nước đã thành lập ra các Hội đồng tư pháp quốc gia - cơ quan tách biệt khỏi các cơ quan khác của Nhà nước - với thành phần gồm các thẩm phán được lựa chọn. Mặc dù các Hội đồng này có tổ chức và cách làm khác nhau tùy từng nước, nhưng sự thành công của chúng đều phụ thuộc vào thành phần của hội đồng, việc lựa chọn các thành viên, việc quy định nhiệm vụ và trách nhiệm của họ. Hội đồng tư pháp quốc gia (Consejo General del Poder Judicia) của Tây Ban Nha là một ví dụ.
Thành phần và việc lựa chọn các thành viên
Hiến pháp Tây Ban Nha quy định, Hội đồng tư pháp quốc gia gồm Chánh án Tòa án tối cao là Chủ tịch và 20 thành viên với nhiệm kỳ 5 năm. Luật cơ bản về Toà án ngày 01/7/1985 của Tây Ban Nha quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt động của toà án và các cơ quan xét xử khác (1). Luật này cũng quy định thành phần của Hội đồng tư pháp quốc gia, chức năng của Hội đồng trong việc bổ nhiệm, đề bạt, kiểm tra và kỷ luật thẩm phán.
Ở một số nước, tất cả các thành viên Hội đồng đều là thẩm phán, trong khi tại một số nước khác, thẩm phán chỉ chiếm thiểu số, thậm chí chỉ mang tính hình thức. Hội đồng tư pháp ở Tây Ban Nha kết hợp cả hai mô hình này. Hiến pháp quy định trong số 20 thành viên của Hội đồng phải có 12 thành viên là thẩm phán, 8 thành viên còn lại là luật sư hoặc luật gia. Cơ cấu thành phần như vậy là nhằm bảo đảm cho những mối quan tâm của ngành tư pháp sẽ được nhiều người ngoài giới thẩm phán biết đến. Theo Hiến pháp, thì 8 thành viên không phải là thẩm phán sẽ được bổ nhiệm bởi đa số 3/5 thành viên của Nghị viện. Tuy nhiên, Hiến pháp lại không quy định về thủ tục lựa chọn 12 thẩm phán nói trên. Ban đầu, 12 thành viên này sẽ do các thẩm phán bầu, nhưng vào năm 1985, Nghị viện sẽ chịu trách nhiệm lựa chọn cả 20 thành viên của Hội đồng, trong đó Hạ nghị viện được lựa chọn 10 thành viên và Thượng nghị viện được lựa chọn 10 thành viên. Việc lựa chọn ở cả hai Viện đều phải theo nguyên tắc đa số 2/3.
Việc chuyển từ cơ chế bầu bởi các thẩm phán sang cơ chế tuyển chọn bởi Nghị viện đã được quyết định sau những cuộc tranh luận gay gắt. Đảng Xã hội chiếm đa số trong Nghị viện ủng hộ việc thay đổi này, còn Đảng Bảo thủ đối lập chống lại và vấn đề này đã trở thành tâm điểm căng thẳng giữa các phe phái chính trị ở Tây Ban Nha với nhiều lập luận khác nhau. Những người chống lại việc các thẩm phán bầu thành viên Hội đồng nêu ra hai lý do: thứ nhất, quy trình bầu cử trong đó cả thẩm phán và các hiệp hội của họ đều đóng vai trò chủ chốt có thể gây ra sự xung đột về mặt hệ tư tưởng trong ngành tư pháp như đã từng xảy ra trong các cuộc bầu cử vào năm 1980. Mặc dù các thẩm phán Tây Ban Nha không thể thuộc các đảng chính trị nhưng họ lại tham gia các hiệp hội tư pháp. Về mặt pháp lý, các hiệp hội này độc lập với các đảng, nhưng chúng cũng phản ánh tư tưởng chính trị. Nếu các thẩm phán tham gia bầu thành viên Hội đồng, cuộc bầu cử sẽ dẫn đến sự căng thẳng mang tính đảng phái cho ngành tư pháp, làm ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn của ngành toà án và làm xấu đi hình ảnh của toà án trong con mắt công chúng. Khó khăn thứ hai là nếu các thành viên Hội đồng do thẩm phán lựa chọn thì họ sẽ quan tâm nhiều hơn đến lợi ích của những người đã bầu ra mình.
Bên cạnh đó, nhiều người đã phản đối mạnh mẽ việc Nghị viện Tây Ban Nha bầu toàn bộ Hội đồng. Lý do phản đối chính là phương pháp này có thể giúp cho các đảng chính trị chia chác số ghế trong Hội đồng. Nếu điều này xảy ra thì không những làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Hội đồng với tư cách là một cơ quan phi đảng phái, mà còn tạo điều kiện cho các đảng gây ảnh hưởng đối với các tòa án. Các quyết định của Hội đồng có tác động đến việc lựa chọn, đề bạt và theo dõi thẩm phán sẽ thể hiện sự ảnh hưởng của các đảng đối với các thành viên Hội đồng, và do vậy, làm giảm nghiêm trọng tính độc lập của ngành tư pháp.
Vì vậy, điều quan trọng là làm sao bảo đảm để quy trình bầu cử không bị các đảng lợi dụng nhằm nắm quyền lực về phía mình. Thay vào đó, các nhóm nghị sỹ khác nhau phải đạt được sự đồng thuận về các ứng cử viên có đủ tiêu chuẩn theo quy định. Điều này không những có thể được thực hiện bằng việc yêu cầu phải có một đa số lớn hơn khi bầu cử, mà còn có thể được thực hiện bằng việc lập ra một uỷ ban của các đảng để giới thiệu ứng cử viên (như đã từng xảy ra ở Tây Ban Nha năm 1996) hoặc bằng việc cho phép các hiệp hội của thẩm phán hoặc của những người hành nghề luật khác có một vai trò trong giai đoạn giới thiệu ứng cử viên. Về khía cạnh này, tháng 5/2001, Chính phủ Tây Ban Nha và các đảng đối lập lớn nhất đã đạt được một thoả thuận mang tính thoả hiệp, theo đó 12 thành viên là thẩm phán của Hội đồng sẽ do Nghị viện bầu trong danh sách 36 ứng cử viên do các hiệp hội thẩm phán hoặc các nhóm thẩm phán khác giới thiệu.
Về thời gian mà các thành viên Hội đồng dành cho công việc của Hội đồng cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Có người cho rằng, các thành viên Hội đồng cần dành toàn bộ thời gian và sức lực của mình cho hoạt động của Hội đồng. Quan điểm này đã bị phê phán, vì thế nên chỉ có một số thành viên (trong Ban thường trực) làm việc chuyên trách. Các thành viên còn lại phải cân đối giữa công việc của Hội đồng với hoạt động nghề nghiệp của họ.
Chức năng của Hội đồng
Tại Tây Ban Nha cũng như ở các nước châu Âu khác, về mặt truyền thống, nhiệm vụ quản lý các hoạt động hành chính của các toà án được giao cho bên hành pháp và thường là Bộ Tư pháp thực hiện. Bên hành pháp sẽ lựa chọn thẩm phán, quyết định địa vị hành chính của thẩm phán và thi hành kỷ luật đối với thẩm phán. Khi lập ra Hội đồng tư pháp thì Tây Ban Nha phải phân chia trách nhiệm về các vấn đề tổ chức giữa Hội đồng và bên hành pháp. Hiến pháp chỉ quy định về các chức năng chính của Hội đồng như bổ nhiệm, đề bạt, kiểm tra và thi hành kỷ luật đối với thẩm phán, còn quyền quy định cụ thể về các chức năng này là do Nghị viện. Qua nhiều năm, các biện pháp khác nhau đã mở rộng nhiệm vụ của Hội đồng tới mức Hội đồng bao hàm hầu như tất cả các vấn đề về tổ chức liên quan đến ngành tư pháp. Hội đồng đứng ra tổ chức việc lựa chọn thẩm phán thông qua các kỳ thi chính thức, quản lý Trường Tư pháp, quyết định đề bạt, thuyên chuyển, cấp giấy phép và phân công công việc cho thẩm phán. Hội đồng còn tiến hành kiểm tra và áp dụng chế tài kỷ luật thông qua phiên họp toàn thể của Hội đồng hoặc Uỷ ban kỷ luật của mình.
Tuy nhiên, nhiều nhiệm vụ vẫn thuộc về bên hành pháp, nhất là những nhiệm vụ liên quan đến nhân viên hành chính, quản lý trụ sở và trang thiết bị làm việc của toà án. Để bảo đảm hiệu quả, ngành hành pháp thậm chí còn tiếp tục xử lý một số vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến thẩm phán như quản lý lương và lương hưu của thẩm phán.
Kinh nghiệm cho thấy, tốt hơn hết là nên giao cho hành pháp các chức năng mà một tổ chức quản lý tập thể lớn kiểu như Hội đồng khó thực hiện được một cách có hiệu quả. Ngoài ra, khi các cơ quan nhà nước khác nhau được giao trách nhiệm chồng chéo nhau sẽ phát sinh ra rất nhiều vấn đề. Do đó, trong thời gian qua, hầu như mọi vấn đề liên quan đến thẩm phán đều được giao cho Hội đồng quyết định và dần dần chấm dứt sự tham gia của bên hành pháp. Trường Tư pháp và chức năng tuyển chọn thẩm phán đã được chuyển giao cho Hội đồng vào năm 1994.
Gần đây, Hội đồng còn đề nghị được trao quyền đối với Hội phúc lợi tư pháp. Mặt khác, nhu cầu phối hợp hoạt động giữa Hội đồng và bên hành pháp đã dẫn đến việc thành lập các uỷ ban hỗn hợp giữa Hội đồng và Chính phủ ở cấp trung ương và cấp khu vực vào năm 1996. Hội đồng không có quyền lập pháp, mặc dù có thể ban hành các quy tắc để thực hiện các quy định liên quan đến công tác quản lý toà án. Hội đồng cũng phải hợp tác với Nghị viện. Hội đồng phải báo cáo ý kiến của mình, dù không có giá trị bắt buộc, về các dự thảo luật mà Chính phủ muốn trình Nghị viện liên quan đến các vấn đề ảnh hưởng đến ngành tư pháp và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Báo cáo của Hội đồng phải kèm theo dự thảo luật của Chính phủ gửi cho Nghị viện. Nghị viện cũng có thể yêu cầu Hội đồng gửi báo cáo về ý kiến của Hội đồng đối với bất kỳ vấn đề nào mà Nghị viện thấy cần thiết. Mặc dù Hội đồng không có thẩm quyền chính thức để đưa ra sáng kiến pháp luật, nhưng có thể gửi cho các nhà làm luật đề nghị và đề xuất, đôi khi việc này được thực hiện một cách tương đối thường xuyên. Năm 1997, Hội đồng đã soạn thảo Sách trắng về tư pháp, trong đó có các đề nghị cải cách và tinh giản ngành tư pháp và năm 2000, Hội đồng ban hành Bản kiến nghị về cải cách tư pháp.
Giám sát và trách nhiệm
Hội đồng không phải là một toà án. Nhiệm vụ của nó mang tính chất quản lý và hành chính. Theo quy định của pháp luật, Hội đồng xây dựng và thực hiện các chính sách liên quan đến tổ chức của ngành tư pháp. Như vậy, Hội đồng có trách nhiệm ban hành hướng dẫn và các định hướng, một việc có thể dẫn đến các chính sách sai lầm hoặc các chính sách đi ngược lại sự vận hành một cách có trật tự của hệ thống tư pháp. Còn nữa, vì Hội đồng chịu trách nhiệm về thực hiện các quy định pháp luật điều chỉnh ngành tư pháp, cho nên có khả năng các hành vi của Hội đồng trái với các quy định pháp luật đó. Vì vậy đã nảy sinh câu hỏi về trách nhiệm của Hội đồng: trách nhiệm chính trị về các hướng dẫn sai lầm mà Hội đồng đưa ra và trách nhiệm pháp lý về vi phạm pháp luật. Về trách nhiệm chính trị, Hiến pháp và pháp luật quy định không cách chức thành viên Hội đồng trong trường hợp có sự phê phán từ phía Nghị viện.
Ở Tây Ban Nha, hầu hết tất cả các vấn đề liên quan đến thẩm phán đều được giao cho Hội đồng đảm nhận. Điều này là xuất phát từ mong muốn bảo đảm sự độc lập của các thành viên Hội đồng, những người chỉ có thể bị cách chức khi họ thực hiện một hành vi cụ thể bị luật nghiêm cấm. Mặc dù vậy, Hội đồng vẫn phải chịu sự giám sát của Nghị viện. Theo quy định của pháp luật thì Hội đồng có nghĩa vụ trình Nghị viện báo cáo hàng năm về hoạt động của mình kèm theo kiến nghị về các biện pháp cần áp dụng. Chủ tịch Hội đồng thường phải xuất hiện trước Uỷ ban Tư pháp của cả hai Viện. Mỗi Viện còn có thể yêu cầu các thành viên Hội đồng có mặt tại Viện đó hoặc tại các uỷ ban của mình. Và như đã nói, Nghị viện có thể yêu cầu Hội đồng báo cáo về các hoạt động của Hội đồng. Do vậy, cho dù Hội đồng không mang trên mình nghĩa vụ chính trị nhưng phải chịu trách nhiệm trước công chúng về hành động của mình. Các hành vi hành chính của Hội đồng có thể bị xem xét lại bởi Hội đồng hành chính của Toà án tối cao. Việc này phù hợp với pháp luật Tây Ban Nha, trong đó quy định mọi cơ quan hành chính công đều chịu sự kiểm soát tư pháp (2).
(1) Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1978 cho phép Nhà nước tổ chức các toà án thành 5 khu vực địa hạt. Hiến pháp chia quyền tài phán quốc gia ra thành 17 Cộng đồng tự trị khác nhau (Comunidades Autonomas) mà sau đó được chia thành các tỉnh (Provincias), quận (Partidos) và thành phố (Municipales).
Toà án Tây Ban Nha gồm ba cấp: Toà án sơ thẩm Juzgados và Toà án cấp cao của tỉnh; Toà án phúc thẩm (Toà án cao nhất tại mỗi Cộng đồng tự trị); Toà án tối cao tại Madrid.
Các cơ quan khác cũng hết sức quan trọng đối với hệ thống tư pháp ở Tây Ban Nha. Hội đồng tư pháp quốc gia bảo đảm sự độc lập của thẩm phán thông qua việc bổ nhiệm và giám sát cán bộ của các toà án đó. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm về quản lý hệ thống tư pháp ở Tây Ban Nha, kể cả phân bổ nhân sự trong các Toà án. Văn phòng Tổng Chưởng lý của Nhà nước thực hiện việc truy tố các vụ án nhân danh Chính phủ và xã hội.
(2) Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, việc này cũng không tránh khỏi một số ý kiến chỉ trích của những người cho rằng, Toà án có thể xem xét lại các hành vi của cơ quan chịu trách nhiệm quản lý các thẩm phán.
Nghị quyết số 24/2008/NQ- QH12 của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ tư về việc thi hành Luật thi hành án dân sự
QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Căn cứ Luật thi hành án dân sự số 26/2008/QH12;
QUYẾT NGHỊ:
1. Luật thi hành án dân sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14 tháng 11 năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009.
Đối với các việc thi hành án đã được thi hành xong theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 trước thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành, mà đương sự còn khiếu nại thì áp dụng quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 để giải quyết.
Đến thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành mà việc thi hành án chưa được thi hành hoặc chưa thi hành xong thì áp dụng các quy định của Luật này để thi hành. Các quyết định, hành vi của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên đã được thực hiện theo đúng quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 có giá trị thi hành.
Đối với việc thi hành các khoản thu cho ngân sách nhà nước có giá trị không quá 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng), mà thời gian tổ chức thi hành án đã quá 05 năm, tính đến thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành nhưng người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức việc thi hành án phối hợp với Viện kiểm sát cùng cấp lập danh sách đề nghị Toà án cấp huyện nơi cơ quan thi hành án dân sự có trụ sở ra quyết định miễn thi hành đối với khoản nghĩa vụ đó.
2. Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá một số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương.
Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành đến ngày 01 tháng 7 năm 2012.
Chính phủ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.
3. Để phù hợp với điều kiện cụ thể về nguồn công chức làm công tác thi hành án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa trong giai đoạn hiện nay, giao Chính phủ quy định những cơ quan thi hành án dân sự cụ thể ở các địa bàn nêu trên được tuyển chọn người có trình độ cử nhân luật làm Chấp hành viên không qua thi tuyển trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành.
4. Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
a) Tự mình hoặc phối hợp với cơ quan hữu quan tổ chức việc rà soát các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành để huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản mới hoặc đề nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới phù hợp với quy định của Luật thi hành án dân sự, bảo đảm có hiệu lực cùng với Luật này từ ngày 01 tháng 7 năm 2009;
b) Phối hợp với Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Luật thi hành án dân sự trong cán bộ, công chức và nhân dân nhằm góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng của Luật thi hành án dân sự trong bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
5. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện và hướng dẫn thi hành Nghị quyết này.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14 tháng 11 năm 2008.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Phú Trọng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tạp chí nghiên cứu lập pháp năm 2009.doc