Nghiên cứu được thực hiện nhằm đề xuất chỉ định và đánh giá hiệu quả của đặt ống thông khí trong
phẫu thuật tạo hình hòm nhĩ. Nhân 77 trường hợp bị viêm tai giữa mạn tính thủng nhĩ với niêm mạc hòm tai viêm dầy xuất tiết, sẽ được tiến hành phẫu thuật tạo hình hòm nhĩ có đặt ống thông khí chữ T, tại khoa Tai bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương từ tháng 1/2002 đến tháng 8/2003. Bệnh nhân được theo dõi trung bình là 12 tháng. Tỷ lệ thành công mảnh vá là 86,67% và khoảng Rinne thính lực < 20 dB chiếm 57,78%. Kết
quả trên cho thấy rằng tạo hình hòm nhĩ có thể tiến hành khi niêm mạc tai giữa còn viêm, điều quan trọng là kiểm soát và lấy hết biểu bì xâm lấn vào hòm nhĩ đồng thời tái tạo lại khoảng khí tai giữa bằng đặt ống thông khí hòm nhĩ tạm thời.
7 trang |
Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 30 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạo hình hòm nhĩ: Chỉ định và hiệu quả của đặt ống thông khí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 83 (3) - 2013 101
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TẠO HÌNH HÒM NHĨ: CHỈ ĐỊNH VÀ HIỆU QUẢ
CỦA ĐẶT ỐNG THÔNG KHÍ
Đoàn Thị Hồng Hoa
Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đề xuất chỉ định và đánh giá hiệu quả của đặt ống thông khí trong
phẫu thuật tạo hình hòm nhĩ. Nhân 77 trường hợp bị viêm tai giữa mạn tính thủng nhĩ với niêm mạc hòm tai
viêm dầy xuất tiết, sẽ được tiến hành phẫu thuật tạo hình hòm nhĩ có đặt ống thông khí chữ T, tại khoa Tai
bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương từ tháng 1/2002 đến tháng 8/2003. Bệnh nhân được theo dõi trung bình
là 12 tháng. Tỷ lệ thành công mảnh vá là 86,67% và khoảng Rinne thính lực < 20 dB chiếm 57,78%. Kết
quả trên cho thấy rằng tạo hình hòm nhĩ có thể tiến hành khi niêm mạc tai giữa còn viêm, điều quan trọng là
kiểm soát và lấy hết biểu bì xâm lấn vào hòm nhĩ đồng thời tái tạo lại khoảng khí tai giữa bằng đặt ống thông
khí hòm nhĩ tạm thời.
Từ khóa: Viêm tai giữa mạn, tạo hình hòm nhĩ, ống thông khí
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm tai giữa mạn tính là một bệnh thường
gặp và đứng đầu trong các bệnh lý về tai.
Bệnh có thể gây các biến chứng nguy hiểm
đến tính mạng của người bệnh và gây ảnh
hưởng đến chất lượng sống của hàng triệu
người trên thế giới vì chảy tai và nghe kém.
Ngày nay, viêm tai giữa mạn tính vẫn là trung
tâm nghiên cứu của các nhà Tai học. Về mặt
bệnh sinh, đây là một bệnh đa yếu tố với tiến
triển rất phức tạp, khó dự đoán trước. Trên
lâm sàng, bệnh có nhiều thể và việc sử dụng
thuật ngữ không thống nhất. Do đó, một trong
những khó khăn gặp phải trong điều trị viêm
tai giữa mạn tính là xác định danh giới giữa
viêm tai tiến triển và di chứng của nó [1]. Xu
hướng ngày nay là điều trị sớm với mục đích
khô tai vì tạo hình hòm nhĩ trong giai đoạn di
chứng có thể có hiệu quả hơn khi tiến hành
trong giai đoạn chảy tai. Tuy nhiên trong một
số trường hợp quá trình viêm không bao giờ
tắt do các ổ viêm xương ở tường thượng nhĩ,
xương chũm hoặc do dị sản hay biểu bì hóa
trung nhĩ, phẫu thuật cũng nên đặt ra. Khi
niêm mạc đang viêm dày, sự thông khí và dẫn
lưu của tai giữa qua vòi nhĩ sẽ bị cản trở,
phẫu thuật tạo hình hòm nhĩ sẽ gặp nhiều khó
khăn như mảnh vá dễ hoại tử, dễ sập dính
vào đáy nhĩ làm thu hẹp và mất khoảng khí
trong hòm nhĩ đồng thời cũng ảnh hưởng đến
kết quả tạo hình chuỗi xương con. Với kết quả
không chắc chắn này, nhiều tác giả chủ
trương tiến hành phẫu thuật nhiều thì, trong
đó thì một chỉ lấy bệnh tích, không tạo hình
hòm nhĩ hoặc vừa lấy bệnh tích vừa tạo hình
hòm nhĩ nhưng sử dụng mảnh Silastic đặt vào
hòm tai với mục đích tạo khoảng khí nhân tạo.
Ở Việt nam, viêm tai giữa mạn tính chiếm
tỷ lệ 3 đến 5% dân số [2]. Do điều kiện kinh tế
xã hội và chưa có hệ thống các bác sĩ gia đình
nên phần lớn các bệnh nhân đến viện muộn
khi chảy tai kéo dài hay nghe kém nặng ảnh
hưởng đến đời sống. Chính vì vậy giải thích
kết quả tạo hình hòm nhĩ của chúng ta không
cao. Tỷ lệ xơ nhĩ nặng chiếm đến 10,8% trong
các trường hợp tai khô, tương ứng với tỉ lệ
gặp ở Pháp cách đây trên 30 năm [3]. Có
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả tạo hình
Địa chỉ liên hệ: Đoàn Thị Hồng Hoa, bệnh viện Tai Mũi
Họng Trung ương
Email: drhoa63@yahoo.fr
Ngày nhận: 02/05/2013
Ngày được chấp thuận: 20/6/2013
102 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
hòm nhĩ, trong đó tình trạng niêm mạc hòm
nhĩ viêm trong khi phẫu thuật được nhiều tác
giả quan tâm [4; 5]. Theo gợi ý của Legent [1],
có thể tạo hình hòm nhĩ ngay cả khi niêm mạc
viêm nhưng nên đặt ống thông khí hòm nhĩ.
Chính vì vậy, từ năm 1997 chúng tôi đã áp
dụng đặt ống thông khí trong khi tạo hình hòm
nhĩ khi niêm mạc tai giữa viêm, kết quả thu
được khả quan
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá hiệu
quả và đề xuất chỉ định đặt ống thông khí
trong phẫu thuật tạo hình hòm nhĩ để điều trị
viêm tai giữa mạn tính tiến triển không có
cholesteatome.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
77 bệnh nhân bị viêm tai giữa mạn tính
thủng nhĩ với niêm mạc hòm tai viêm dầy xuất
tiết mặc dù đã được điều trị nội khoa trước mổ
được tiến hành phẫu thuật tạo hình hòm nhĩ
có đặt ống thông khí chữ T kèm theo tại khoa
Tai bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương từ
tháng 1/2002 đến tháng 8/2003. Thời hạn theo
dõi trung bình là 12 tháng, dao động từ 3
tháng đến 5 năm.
2. Phương pháp
Nghiên cứu mô tả từng trường hợp có can
thiệp phẫu thuật.
Kỹ thuật mổ: được thực hiện theo các
quy trình sau:
- Chuẩn bị mổ và rạch da, lấy cân cơ thái
dương như trong mô tả kỹ thuật vá nhĩ trên
và ngoài lớp sợi.
- Chỉ định mở xương chũm hệ thống khi
niêm mạc hòm nhĩ viêm, tùy theo bệnh tích có
thể mở sào bào, mở sào bào thượng nhĩ, mở
hòm nhĩ lối sau lấy bỏ bệnh tích viêm để đảm
bảo sự thông khí và dẫn lưu từ hốc mổ chũm
vào hòm nhĩ.
- Đánh giá tình trạng viêm của niêm mạc
hòm nhĩ, chúng tôi chia làm 3 mức độ sau:
+ Độ 1: bình thường, niêm mạc dính sát
vào thành xương, không thể quan sát được.
Niêm mạc viêm được coi là mức độ 1 khi niêm
mạc màu hồng nhạt, phù nề nhẹ bao phủ lên
xương đặc.
+ Độ 2: viêm mạc vẫn phẳng nhưng dầy
khoảng 1mm.
+ Độ 3: niêm mạc dày, có chỗ phát triển
như pô líp.
- Tạo hình màng nhĩ: chủ yếu thực hiện
theo kỹ thuật phức hợp dưới và trên lớp sợi.
Hòm nhĩ để thông thoáng, không đặt
Gelaspon hay Silastic.
- Tạo hình xương con: chủ yếu sử dụng
các vặt liệu tự thân tùy theo tình trạng xương
bàn đạp
- Chỉ định vá nhĩ có đặt ống thông khí khi:
+ Niêm mạc hòm nhĩ viêm độ 1 với tổn
thương trong xương chũm.
+ Niêm mạc hòm nhĩ viêm độ 2 và 3. Nếu
pô líp khu trú lấy bỏ, nếu pô líp lan tỏa xuất
tiết nhiều nên lấy bỏ tổ chức niêm mạc viêm
trong hòm nhĩ và xương chũm, tạo hình hòm
nhĩ sẽ tiến hành thì sau.
- Kỹ thuật đặt ống thông khí hòm nhĩ: sử
dụng ống thông khí chữ T có tráng Silicon ở
góc sau dưới của vạt da ống tai và màng nhĩ.
- Đóng da: theo bình diện giải phẫu
Chăm sóc và thời gian lưu ống: bấc ống
tai được đặt trong 7 đến 10 ngày tùy theo
mùa. Sau khi rút bấc tai dùng ống hút vi phẫu
để hút các máu đọng và dịch xuất tiết trong
lòng ống thông khí, rồi đặt merocel tai hai
lần, mối lần cách nhau 7 ngày để tránh hẹp
ống tai. Thời gian rút ống thay đổi từ 3 tháng
đến 2 năm.
TCNCYH 83 (3) - 2013 103
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Chỉ định rút ống thông khí: khi ống thông,
quan sát được khoảng khí trong hòm nhĩ.
3. Xử lý số liệu: về tình trạng màng vá và
thính lực đồ sau mổ. Các số liệu được quản lý
và sử lý bằng phân mềm thống kê SPSS 16.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu chỉ phục vụ mục đích khoa học
và không gây bất cứ tác hại xấu nào đến bệnh
nhân. Các đối tượng nghiên cứu được thông
báo rõ và tình nguyện tham gia. Mọi số liệu
liên quan đến bệnh nhân đều được giữ bí mật.
III. KẾT QUẢ
1. Phân bố theo tuổi và giới
- Tuổi: Phẫu thuật tiến hành chủ yếu tai
khoa Tai, nên đa số bệnh nhân vào điều trị là
người lớn, tuổi thường gặp nhất là từ 15 đến
45 tuổi chiếm 74% các trường hợp, tuổi nhỏ
nhất là 8 tuổi, lớn nhất là 63 tuổi.
- Giới: nam: 48 ca (62,34%), nữ: 29 ca
(37,66%). Tỷ lệ nam gặp nhiều hơn nữ với
p < 0,01.
2. Thời gian bị bệnh đến khi phẫu thuật
Phần lớn bệnh nhân có thời gian tiến triển
bệnh kéo dài trên 5 năm chiếm đến gần 90%
các trường hợp.
3. Tình trạng tai đối bên
Tỷ lệ bệnh nhân mắc cả hai tai chiếm tỷ lệ
đáng kể, chiếm khoảng 55% các ca (bảng 1).
Bảng 1. Tình trạng tai đối bên
Tai đối bên Bình thường
Viêm tai giữa mạn
tính thủng nhĩ
Rối loạn chức
năng vòi
Cholestéatome
n 33 32 6 4
% 45,46 41,56 7,79 5,19
4. Vị trí lỗ thủng
Bảng 2. Vị trí lỗ thủng
Vị trí thủng Phần sau Phần trước Trung tâm Gần toàn bộ Tổng số
n 8 14 8 47 77
% 10,39 18,18 10,39 61,04 100
Trong viêm tai tiến triển với chảy tai kéo dài màng tai thường thủng rộng chiếm trên 60% các
trường hợp.
5. Tình trạng thính lực trước mổ
- Ngưỡng nghe trung bình : 50,79 dB +/- 18,7
- Rinne thính lực trung bình 38,07 dB +/- 8,92
6. Các loại phẫu thuật xương chũm
Khi chảy tai kéo dài, xương chũm thường viêm nặng đòi hỏi phải mở sào bào thượng nhĩ
thậm chí mở hòm nhĩ lối sau tạo thông thương giữa xương chũm và hòm nhĩ (bảng 3).
104 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 3. Loại phẫu thuật xương chũm
Loại phẫu thuật
xương chũm
Mở
sào bào
Sào bào -
thượng nhĩ
Mở hòm nhĩ
lối sau
Mổ lại
xương chũm
Tổng
số
n 6 44 21 6 77
% 7,79 57,15 27,27 7,79 100
7. Tổn thương niêm mạc xương chũm
Tổn thương niêm mạc xương chũm rất đa
dạng, trong cùng một bệnh nhân có thể có
nhiều loại tổn thương khác nhau. Trong đó tổn
thương thường gặp nhất là niêm mạc dày phù
nề chiếm 97,40%, nụ hạt cholesterin chiếm
71,42%, xơ hóa chỉ 3,89% các trường hợp.
8. Tình trạng xương con trong khi phẫu
thuật
Trong viêm tai giữa mạn tính tiến triển
không có cholesteatome, xương con cũng bị
tổn thương kể cả xương bàn đạp, và trên
cùng một tai bệnh cũng có thể tổn thương 1,2
hoặc cả 3 xương con. Trong đó tổn thương
xương đe chiếm 12,99%, sau đó xương búa
là 5,19%, xương bàn đạp là 2,6% và xơ nhĩ
chỉ có 2,6 %
9. Tình trạng niêm mạc hòm nhĩ trong
khi phẫu thuật
Viêm độ 1: 38,69%, độ 2: 57,14% và độ 3
là 3,89%.
10. Kết quả
Trong tháng đầu, tất cả bệnh nhân được
theo dõi đánh giá tình trạng màng nhĩ mới,
ống thông khí và đo thính lực. Các tháng sau
tỷ lệ bệnh nhân đến khám lại giảm dần, sau
3 - 6 tháng là 67 ca (87,01%) và sau 1 năm là
45 ca (58,44%). Thời gian rút ống 3 tháng: 33
ca (45,5%), 3 - 6 tháng: 21 ca (27,3 %), trên 6
tháng: 14 ca ( 18,2%), các trường hợp còn lại
tự đào thải ống.
Về giải phẫu: sau 1 năm trên 45 ca, tỷ lệ
thành công với màng vá bình thường là
86,67%, thủng lại là 2,2%, xẹp nhĩ là 2,2%,
viêm dày màng nhĩ là 3,7% và hạt trai cho-
lesteatome là 2,2%.
Về chức năng: Ngưỡng thính lực trung bình
trước mổ: 50,79 dB và sau mổ: 25,11 dB.
Bảng 4. Rinne thính lực trung bình trước và sau mổ
Rinne thính lực
Trước mổ Sau mổ
n1
% n2
%
0 - 10 dB 1 1,30 2 4,45
11 - 20 dB 1 1,30 24 53,33
21 - 30 dB 17 22,08 14 31,11
> 30 dB 58 75,32 5 11,11
Tổng số 77 100 45 100
Rinne trung bình 38,07 dB 19,22 dB
Cải thiện thính lực trung bình ở các tần số giao tiếp là 38 dB -19 dB = 19 dB. Chỉ số Rinne sau
mổ < 20 dB là 57,78 %.
TCNCYH 83 (3) - 2013 105
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
IV. BÀN LUẬN
Từ trên 2 thập kỷ nay, tỷ lệ vá nhĩ thành
công dao động từ 75 đến 95% các trường hợp
tùy theo các tác giả [4; 5]. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, tỷ lệ thành công của chỉnh hình
hòm nhĩ có đặt ống thông khí khi niêm mạc
viêm là 86,67% với Rinne thính lực < 20 dB là
57,78%. Điều này khẳng định, có thể tiến
hành tạo hình hòm nhĩ khi tai còn đang viêm.
Kinh điển, đa số các nhà tai học thập kỷ
1960 - 1970 cho rằng, chỉ mổ tai khi tai khô ít
nhất 3 tháng để tránh hoại tử mảnh ghép.
Theo Bailey [4] nhiễm trùng tai trước mổ là
chống chỉ định tuyệt đối. Khái niệm chảy tai
trong viêm tai giữa mạn tính thủng nhĩ được
coi là “chảy tai vòi”, tức là thủng nhĩ, các dịch
mũi sẽ trào ngược lên hòm nhĩ khi xì mũi và
bệnh nhân có sự thông thuận bất thường của
vòi nhĩ. Ngày nay, với sự phát triển của nội soi
và chẩn đoán hình ảnh, người ta nhận thấy
chảy tai này không phải ở vòi nhĩ và ở ngay
trong hòm nhĩ bởi vì vòi sụn thuộc họng và
dẫn lưu vào trong họng trong tình trạng bình
thường cũng như khi viêm mũi họng. Chảy tai
này là hoạt động của quá trình viêm trong hòm
nhĩ, nó có thể liên quan đến nhiễm khuẩn từ
ống tai ngoài hay từ viêm mũi họng. Một số vi
khuẩn thường ẩn náu trong chảy tai mạn hay
các tổ chức hạt viêm sùi là P. aeruginosa,
Staph. Aureus, H. enfluenzae và Proteus mira-
bilis [6]. Sử dụng kháng sinh tại chỗ hay
kháng sinh toàn thân có thể làm ngừng chảy
tai. Thái độ ngày nay đối với chảy tai phát
hiện trước mổ là không nhất thiết phải chờ
đợi làm khô hoàn toàn. Tuy nhiên, các quan
điểm về phẫu thuật tạo hình hòm nhĩ trong
giai đoạn viêm không thống nhất. Một số tác
giả [5] khẳng định chảy tai và tiền sử chảy tai
không ảnh hưởng đến thành công của phẫu
thuật. Nhưng theo tác giả khác [4] mổ trong
giai đoạn chảy tai sẽ tăng nguy cơ biến chứng
như tăng nhiễm khuẩn sau mổ, khó phẫu
thuật vì khi viêm, chảy máu trong mổ nhiều
hơn và viêm ảnh hưởng đến thông khí tai
giữa. Theo gợi ý của Legent [1], tạo hình
hòm nhĩ thành công tùy thuộc vào 2 yếu tố
chính sau:
- Lấy bỏ các yếu tố biểu bì xâm lấn vào
hòm nhĩ.
- Thông khí tai giữa tốt.
Tạo hình hòm nhĩ có thể tiến hành ngay cả
trong giai đoạn niêm mạc hòm nhĩ viêm nhưng
nên đặt ống thông khí chữ T hòm nhĩ.
Thực tế, chúng tôi nhận thấy trong những
trường hợp viêm tai thủng nhĩ với niêm mạc
viêm nặng xuất tiết, khi điều trị tai khô, niêm
mạc thường chuyển sang giai đoạn di chứng
xơ dày bám quanh xương con và vùng cửa sổ
làm ảnh hưởng đến kết quả chức năng của
phẫu thuật tạo hình hòm nhĩ. Đồng thời trong
một số trường hợp, quá trình viêm không bao
giờ tắt, trong các trường hợp này chúng tôi
nhận thấy màng tai thường thủng rộng, bờ lỗ
thủng viêm dày liên tiếp với niêm mạc hòm tai,
gây kích thích niêm mạc hòm nhĩ. Khi lấy
bệnh phẩm vùng ranh giới lỗ thủng và niêm
mạc hòm nhĩ phân tích dưới kính hiển vi và
kính hiển vi điện tử nhận thấy các tế bào biểu
bì xâm lấn và gây viêm phù nề lớp đệm [7].
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành tạo hình
màng nhĩ ngay cả khi tai còn viêm. Nhưng
điều quan trọng là phải kiểm soát được hết
các yếu tố biểu bì xâm lấn vào niêm mạc hòm
nhĩ, đồng thời tái tạo lại thông khí của tai giữa.
Khi viêm, niêm mạc không đảm nhiệm được
chức năng sinh lý, do vậy sẽ ảnh hưởng đến
kết quả tạo hình hòm nhĩ. Để tái tạo lại thông
khí tai giữa trong các trường hợp này, trước
tiên nên tiến hành mở xương chũm hệ thống
khi niêm mạc hòm nhĩ viêm để kiểm tra tình
trạng niêm mạc xương chũm. Tiếp theo là bóc
106 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
tách, kiểm soát và lấy hết biểu bì xâm lấn vào
trong hòm nhĩ, một trong những yếu tố kích
thích quá trình viêm.
Khi quá trình viêm tồn tại đồng thời cả trong
xương chũm và trong hòm nhĩ nên đặt ống
thông khí hòm nhĩ với mục đích cân bằng áp lực
tai giữa và dẫn lưu các dịch tiết trong tai giữa ở
thời gian đầu sau phẫu thuật để niêm mạc có
thời gian trở lại bình thường khi lấy hết các yếu
tố kích thích viêm. Nền tảng của thái độ này là
chúng tôi dựa vào vai trò sinh lý phụ trợ của các
vùng niêm mạc tai giữa. Theo Ars [8] vùng sau
trên của niêm mạc hòm nhĩ, vùng sào bào
thượng nhĩ với các vách ngăn đảm nhiệm vai trò
trao đổi khí và vùng trước dưới và vòi nhĩ đảm
bào vai trò chính là làm sạch lông nhày. Thông
khí tai giữa phụ thuộc vào thông khí liên tục chủ
yếu được đảm bảo nhờ sự trao đổi khí thường
xuyên qua niêm mạc và phụ thuộc vào thông
khí từng thời điểm qua mở vòi nhĩ từng lúc.
Xương chũm đóng vai trò như khoảng khí
đệm. Nếu chỉ vá nhĩ đơn thuần trong giai đoạn
niêm mạc tai giữa viêm, tức là chúng ta sẽ tạo
vòng xoắn bệnh lý như trong viêm tai ứ dịch
bởi vì niêm mạc đang viêm không thực hiện
được các chức năng. Cuối cùng, nó sẽ dẫn
đến giảm áp trong hòm nhĩ, khả năng thất bại
sẽ tăng cao. Ngược lại, nếu chỉ có niêm mạc
hòm nhĩ viêm nhẹ (độ 1), xương chũm bình
thường, chỉ cần vá nhĩ đơn thuần. Tình trạng
viêm nhẹ niêm mạc hòm nhĩ rất thường gặp
trong khi vá nhĩ, có thể do phản ứng của niêm
mạc với tình trạng giải phẫu bất thường, chủ
yếu thấy ở vùng trung nhĩ - tiền nhĩ. Khi đó, vá
nhĩ tạo điều kiện cho vòi nhĩ hoạt động và các
chất tiết dẫn lưu qua vòi. Điều này lý giải,
nhiều trường hợp niêm mạc hòm nhĩ viêm vá
nhĩ vẫn thành công. Thực tế lâm sàng, chúng
tôi nhận thấy rằng tại thời điểm hiện nay, mổ
tai khi còn đang viêm, khả năng bóc tách đặt
mảnh vá dễ liền hơn, tỷ lệ xơ nhĩ ít hơn, phục
hồi chức năng tốt hơn so với các trường hợp
khô tai nghe kém đến điều trị vì tỷ lệ xơ nhĩ
cao. Bệnh cảnh lâm sàng của viêm tai đang
thay đổi, tỷ lệ trẻ ứ dịch được đặt ống thông
khí gia tăng trong khoảng trên 10 năm gần
đây, những viêm tai thủng nhĩ rộng tiến triển
kéo dài giảm dần, xuất hiện thủng nhĩ sau đặt
ống và cholesteatome do các túi co kéo. Xử lý
các trường hợp này sẽ giống như các nước
tiên tiến là vá nhĩ đơn thuần trong đa số các
trường hợp thủng nhĩ mà không cần can thiệp
đến xương chũm.
V. KẾT LUẬN
Thông khí tai giữa trong tạo hình hòm nhĩ
là một vấn đề mấu chốt quyết định thành công
trong điều trị viêm tai giữa mạn thủng nhĩ cũng
như phòng tránh viêm tai ứ dịch và xẹp nhĩ
sau này. Kết quả mà chúng tôi thu được
khẳng định tạo hình hòm nhĩ có thể tiến hành
ngay cả trong các trường hợp niêm mạc tai
giữa còn viêm, nhưng nên đặt ống thông khí
chữ T phối hợp. Kỹ thuật đơn giản, không để
lại di chứng.
Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn tập thể bác sĩ khoa
Tai bệnh viện Tai Mũi Họng trung ương đã
giúp tôi tiến hành nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Legent F, Narcy P.H et Bordure P
(1993). Myringoplastie. Dans : Chirurgie de
l’oreille moyenne. Paris Masson. Ed. 87 - 93.
2. Luong Si Can et Coll (1995). Les pro-
blèmes de surdité et de déficience auditive au
Vietnam. Informations Médicales d’Asie- Fran-
cophone ORL.13, 3 - 6.
3. Charachon R. (1995). La tympanos-
clerose. Dans: Otite chronique.
Arnette Blackwell . 101 - 109.
TCNCYH 83 (3) - 2013 107
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
4. Bailey T.H.A (1976). Symposium: Con-
traindications to tympanoplasty. Absolute and
relative contradictions. Laryngoscope. 86,
67 - 70.
5. Gérart J.M, Thill M.P et Gersdorff M
(2003). L’art de la tympanoplastie et son illus-
tration clinique. Otolaryngol. Chir. Cervicol.
120, 83 - 93.
6. Desaulty A (1995). Otite chronique et
antibiose. Dans: Otite chronique. Arnette
Blackwell. 41 - 44.
7. Doan Thi Hong Hoa (2007). Influence
of epidermal elements on the middle ear mu-
cosa in chronic supperative otitis media with
persistent otorrhea. Report at the 12e Asian
ORL, Head and neck congress: 168.
8. Ars B. et al (1997). Histomorphometric
study of the normal middle ear mucosa:
Preliminary results supportingthe gas-
exchange functionin the postero-superior part
of middle ear cleft. Acta. Otolaryngol. (Stockh).
117, 704 - 707.
Summary
INDICATION AND EFFECT OF T - VENTILATING TUBE WITH
TYMPANOPLASTY
The aims of the study was to propose the indication and to evaluate the results of T-ventilating
tube with tympanoplasty. We studied retrospectively 77 patients with chronic otitis media who un-
derwent the T - ventilating tube with tympanoplasty at the Otology Department of the National
ENT hospital from 1/2002 to 8/2003. Patients were followed for at least 12 months. The success
rate was 86,67% with 57,78 % ABG < 20 dB. This outcome illustrates that the tympanoplasty
may be performed to treat supperative COM, but the removal of epidermic cells and restoration of
ME air space by T - ventilating tube were important.
Key words: chronique otitis media, tympanoplasty, T-ventilating Tube
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tao_hinh_hom_nhi_chi_dinh_va_hieu_qua_cua_dat_ong_thong_khi.pdf