Tâm lý học xã hội - Phần 1

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III 1. Nhóm xã hội là gì? Có những loại nhóm xã hội nào? Ý nghĩa của việc nghiên cứu các nhóm xã hội? 2. Phân tích sự khác biệt giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính thức của nhóm. Cần có cách ứng xử như thế nào với cấu trúc không chính thức? Tại sao? 3. Chuẩn mức nhóm là gì? Vai trò của chuẩn mục nhóm? Làm thế nào để hình thành các chuẩn mực nhóm? 4. Nhóm nhỏ là gì? Có các loại nhóm nhỏ nào? Trong dạy học và giáo dục theo anh (chị) cần quan tâm tới nhóm nhỏ nào? Tại sao?

pdf78 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1707 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tâm lý học xã hội - Phần 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưa ra đặc trưng quan trọng nhất của dấu hiệu mang tính tổ hợp của giai cấp như là lối sống của nó. Khía cạnh Tâm lý học xã hội của các nghiên cứu lối sống, nói riêng, là sao cho trong phạm vi vị trí khách quan của giai cấp, xác định và giải thích được hình mẫu hành vi nổi trội của đa số quần chúng đại diện cho giai cấp đó trong các tình huống độc đáo trong đời sống hàng ngày. Thói quen và tập quán được hình thành dưới ảnh hưởng của các điều kiện sống nhất định nhưng sau đó được củng cố và đóng vai trò cái điều chỉnh hành vi. Phân tích thói quen và tập quán chính là vấn đề riêng của Tâm lý học xã hội. Các phương pháp nghiên cứu vấn đề này gần với các phương pháp nghiên cứu tâm lý học truyền thống, trong một chừng mực nhất định ở đây có thể sử dụng phương pháp quan sát. Như vậy chúng ta đã chỉ ra những hướng phân tích cơ bản, theo đó Tâm lý học xã hội còn phải thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các đặc trưng tâm lý của các tầng lớp xã hội khác nhau và các phương thức mà nhờ chúng, tâm lý nhóm được “xây dựng”, đảm bảo cho “sự lãnh hội” hiện thực xã hội của mỗi cá nhân. Ở đây điều quan trọng là phải hiểu bằng cách nào quần chúng với số lượng tương đối lớn - với tất cả sự đa dạng về tâm lý của họ - trong những tình huống có ý nghĩa nào đó của cuộc sống thể hiện sự giống nhau trong các biểu tượng như thị hiếu, hay thậm chí cả những đánh giá xúc cảm về hiện thực. Các tình huống này là các tình huống trong điều kiện sống đặc biệt, được quy định trước hết bởi sự thâu thuộc vào một nhóm lớn xã hội cụ thể, do vậy Tâm lý học xã hội không thể bỏ qua sự kiện này khi xây dựng các mô hình giải thích hành vi và hoạt động của con người. IV. KHÁT NIỆM CHUNG VỀ NHÓM NHỎ 1. Khái niệm nhóm nhỏ Trong suốt một thế kỉ nghiên cứu nhóm nhỏ, các nhà Tâm lý học xã hội đã đưa ra rất nhiều những định nghĩa khác nhau về nhóm nhỏ. Mỗi định nghĩa được dưa ra dựa trên góc độ riêng, quan niệm riêng của mỗi tác giả về nhóm. Các định nghĩa nói chung hoặc chỉ xem xét một khía cạnh nào đó, hoặc chỉ nhấn mạnh đến một khía cạnh nào đó của nhóm được cho là bản chất. Các định nghĩa nhóm nhỏ có thể xuất phát từ các góc độ sau: - Từ góc độ tri giác của thành viên nhóm với các thành viên khác hay với cả nhóm nói chung. - Từ góc độ động cơ của các thành viên nhóm. - Từ góc độ mục đích nhóm. - Từ góc độ các đặc trưng cấu trúc nhóm. - Từ góc độ sự phụ thuộc lẫn nhau. - Từ góc độ tác động qua lại giữa các thành viên nhóm. Từ góc độ tri giác lẫn nhau giữa các thành viên, M.Smith đưa ra khái niệm nhóm nhỏ “Nhóm xã hội là một đơn vị bao gồm nhiều cá nhân có sự tri giác tập thể về tính thống nhất của nó, có khả năng hành động với cách hành động thống nhất đối với môi trường” Theo quan niệm này, đặc trưng cơ bản của nhóm nhỏ xã hội là sự tri giác thống nhất về sự tồn tại của nhóm, từ đó có được hành động thống nhất. Thực tế cho thấy các thành viên trong nhóm ở một mức độ nhất định tri giác sự tồn tại của nhóm và sự thâu thuộc của bản thân vào nhóm, nhưng tri giác đó chỉ có được như là kết quả của một nhóm đã hình thành. Một số tác giả khác lại dựa trên động cơ thúc đẩy các cá nhân tham gia vào nhóm để định nghĩa nhóm. Họ cho rằng cá nhân tham gia vào nhóm vì tin rằng nhu cầu của bản thân sẽ được thỏa mãn nhờ nhóm. Chẳng hạn, theo R.Cattell: “Nhóm là một tập hợp các cá nhân, trong đó sự có mặt của tất cả các thành viên cần thiết để thỏa mãn nhu cầu riêng nào đó của cá nhân”. Theo quan niệm này, trước khi tham gia vào nhóm, cá nhân phải tự xác định nhu cầu nào cần được thỏa mãn và phương thức thỏa mãn nó. Vấn đề đặt ra là cùng một nhu cầu có thể được thỏa mãn ở nhiều nhóm khác nhau. Vậy điều gì làm cá nhân lựa chọn nhóm này hay nhóm khác? Thực sự khi tham gia vào nhóm cá nhân có thể và cần tính đến việc các nhu cầu của mình là gì và nó có thể thỏa mãn nhờ nhóm hay không. Đây cũng chính là điểm mà nhóm có thể lôi cuốn và hấp dẫn cá nhân. Nhưng xét trong các điều kiện thực tế xã hội, việc cá nhân lựa chọn nhóm không phải chỉ đơn thuần dựa trên động cơ đó. Bản thân M.Shaw - người đã tiến hành phân tích các khái niệm nhóm nhỏ khác nhau - coi nhóm nhỏ là: “Hai hoặc nhiều cá nhân tác động qua lại với nhau, mỗi cá nhân ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của cá nhân khác”. Với khái niệm này M.Shaw cũng chưa thoát khỏi việc định nghĩa theo một trong các cách nói trên. Tuy vậy ông đã lưu ý rằng sự tương tác qua lại là dấu hiệu bản chất của nhóm nhỏ, dấu hiệu này làm nhóm nhỏ khác biệt với các đám đông đơn thuần, nhưng bên cạnh đó cũng cần tính tới các dấu hiệu rất quan trọng của nhóm nhỏ như: thời gian tồn tại lâu dài, có mục đích chung hoặc các mục đích chung sự phát triển cấu trúc nhóm dù ở mức độ đơn giản (bao gồm các thuộc tính nhóm như sự ý thức của các thành viên về cái “chúng ta” hay ý thức về sự thâu thuộc của cá nhân vào một nhóm). Xuất phát từ quan điểm khác, các nhà tâm lý học xã hội như G.M.Andrêeva, A.V.Pêtrôvxki, P.L.Krichievxki, E.M.Dubrôvxkai dựa trên nguyên tắc hoạt động để nghiên cứu các vấn đề của Tâm lý học xã hội nói chung và nhóm nhỏ nói riêng. Pêtrôvxki cho rằng: “Nhóm xã hội là một tập hợp các cá nhân được liên kết trên cơ sở một số các dấu hiệu chung liên quan đến hoạt động cùng nhau của họ, trong đó có giao tiếp”. Khái niệm này nhấn mạnh đến hoạt động cùng nhau của nhóm, nhưng chưa làm nổi bật và khẳng định vị trí của nhóm trong các quan hệ xã hội. Trong hàng loạt các khái niệm của Tâm lý học xã hội về nhóm nhỏ, khái niệm của G.M.Anđrêeva về nhóm nhỏ được coi là phổ biến. Nó thể hiện rõ nhất tư tưởng và phương pháp luận của Tâm lý học xã hội theo nguyên tắc hoạt động: “Nhóm nhỏ là nhóm trong đó các quan hệ xã hội thể hiện dưới hình thức các tiếp xúc cá nhân trực tiếp”. Theo đó nhóm nhỏ là một nhóm tồn tại hiện thực không phải trong chân không mà trong một hệ thống các quan hệ xã hội. Nhóm nhỏ là chủ thể của một hoạt động xã hội nhất định, thực hiện một chức năng xã hội nhất định. Mỗi nhóm nhỏ là một đơn vị của cấu trúc xã hội rộng lớn. Hoạt động xã hội chung của nhóm quy định các đặc trưng của nhóm. Nhóm nhỏ xã hội bất kì là một hệ thống vi mô trọn vẹn trong các mối quan hệ xã hội. Do vậy các mối quan hệ phải được phản ánh và cụ thể hóa trong nhóm. Như vậy nhóm nhỏ được xem là một nhóm xã hội. Cách quan niệm này nhấn mạnh vào bản chất xã hội của nhóm chứ không phải đơn thuần là một tập hợp các cá nhân thực hiện các mục đích riêng nào đó. Trong hệ thống các quan hệ xã hội, mọi nhóm nhỏ đều là đơn vị nhỏ nhất không phân chia được của hệ thống. Đây cũng chính là những nhóm nhỏ xã hội mà xã hội hiện đại đang đặt ra yêu cầu nghiên cứu: các nhóm kinh doanh, các nhóm lao động, nhóm nghiên cứu khoa học... Một quan điểm, khác rất đáng lưu ý là quan điểm của A.I.Đônxôv. Ông cho rằng nhóm nhỏ là tổ hợp hữu hạn các cá nhân tác động qua lại một cách trực tiếp với các dấu hiệu: 1. Tồn tại trong một khoảng thời gian tương đối dài và thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với nhau, không có trung gian, trong khoảng cách ngắn nhất. 2. Có các mục đích chung mà việc thực hiện chúng cho phép thỏa mãn những nhu cầu cá nhân và các quyền lợi bền vững. 3. Tham gia vào hệ thống chung phân bổ các chức năng và vai trò trong hoạt động sống cùng nhau... 4. Chia sẻ các các chuẩn mực và các quy định đối với các hành vi nội nhóm và liên nhóm. Điều quan trọng trong cách hiểu về nhóm xã hội ở đây là sự gắn kết các cá nhân trong nhóm bằng các giá trị, các mục đích chung. Theo A.I.Đônxôv một nhóm thực sự là một tổ hợp tương đối bền vững các cá nhân có liên hệ mang tính lịch sử bởi các giá trị chung, các mục đích, các phương tiện của đời sống xã hội. Một nhóm thực sự sẽ phải có các giá trị, các mục đích chung. Từ những dấu hiệu nêu trên, có thể đi đến một khái niệm nhóm nhỏ như sau: Nhóm nhỏ là một cộng đồng với số lượng ít thành viên, giữa các thành viên có mối quan hệ liên nhân cách trực tiếp, có sự tương tác chặt chẽ, cùng hoạt động theo các giá trị chung và những mục đích chung. Khái niệm này nhấn mạnh quan điểm của Tâm lý học hoạt động, coi nhóm nhỏ là một đơn vị xã hội. Do vậy nó được hình thành do yêu cầu xã hội, thực hiện những chức năng xã hội nhất định và là một mắt xích trong hệ thống các quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, khái niệm đã đề cập tới các thành tố khác nhau tạo nên một nhóm chỉnh thể: các quan hệ tác động qua lại trực tiếp, sự thống nhất giá trị và thống nhất mục đích nhóm. Khái niệm cũng đề cập tới hoạt động cùng nhau của các thành viên nhóm, bằng hoạt động và thông qua hoạt động nhóm mới trở thành một chỉnh thể tâm lý. 2. Quy mô nhóm Quy mô nhóm là một khía cạnh gắn liền với định nghĩa nhóm nhỏ, bởi lẽ tính chất “nhỏ” hay “lớn” về mặt số lượng phần nào thể hiện ở ngay quy mô của nó. Đề cập tới quy mô nhóm, trong Tâm lý học nhóm nhỏ các tác giả thường đề cập tới giới hạn trên và giới hạn dưới về số lượng các thành viên của nhóm. Đến nay còn nhiều quan niệm khác nhau về quy mô nhóm. Về giới hạn dưới: Đa số các nhà nghiên cứu cho rằng với hai thành viên là có thể tạo ra một nhóm. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng: nhóm hai người chỉ có thể coi là một dạng đặc biệt của nhóm nhỏ xã hội nói chung chứ không phải là một mô hình tiêu biểu của nhóm nhỏ xã hội. Nhóm hai người không phản ánh được một cách đầy đủ sự phức tạp của các quan hệ liên nhân cách, cũng như sự tác động qua lại đa chiều giữa các cá nhân trong nhóm. Do vậy, tồn tại quan niệm khác khẳng định chỉ có thể nói đến một nhóm nhỏ khi có từ ba thành viên trở lên. Đến nay giới hạn dưới của nhóm nhỏ là bao nhiêu vẫn là câu hỏi còn chưa có được câu trả lời hoàn toàn thống nhất. Tuy vậy một cách phổ biến, nhóm nhỏ vẫn được coi là bắt đầu với hai thành viên. Cũng giống như với giới hạn dưới, vấn đề giới hạn trên cũng có nhiều quan điểm khác nhau: Có quan niệm cho rằng số lượng thành viên tối đa có thể là 20 (M.Shaw), hay 30, 40 (J.Moreno). Các tác giả khác lại đưa ra con số là 7 ± 2. Số lượng thành viên thuộc giới hạn trên do các tác giả nêu ra chưa có được các cơ sở lý luận vững chắc. Coi nhóm nhỏ là một đơn vị xã hội, các nhà tâm lý học xã hội theo quan điểm hoạt động cho rằng: số lượng các thành viên trong một nhóm được quy định bởi chức năng mà nhóm thực hiện trong các mối quan hệ xã hội. Nói cách khác số lượng thành viên của nhóm nhỏ không phải được xác định một cách chủ quan mà phải dựa vào sự tồn tại thực tế của nó trong đời sống hiện thực xã hội. Nếu nhóm nhỏ được nghiên cứu, trước tiên, cần phải là nhóm tồn tại hiện thực và nếu nó được xem xét như là chủ thể của hoạt động thì một cách lôgic là không đưa ra một giới hạn cứng nhắc nào đó mà chấp nhận nhóm như chính bản thân quy mô hiện thực của nó, được quy định bởi nhu cầu hoạt động chung của nhóm. Nói cách khác, nếu nhóm được hình thành trong một hệ thống nhất định các mối quan hệ xã hội với quy mô cụ thể nào đó và nó đủ để thực hiện một hoạt động nhất định thì trong nghiên cứu có thể thừa nhận chính giới hạn đó là giới hạn trên. Quan niệm này đảm bảo tính linh hoạt khi tiếp cận với nhóm nhỏ tồn tại hiện thực trong đời sống xã hội. Quan niệm này cũng nhấn mạnh đến tính chỉnh thể của nhóm chứ không khai thác vào khía cạnh số lượng đơn thuần của các thành viên nhóm. 3. Phân loại nhóm nhỏ Phân loại nhóm nhỏ là bước tiếp theo mang tính lôgic trong việc nghiên cứu nhóm nhỏ. Với sự đa dạng, muôn màu muôn vẻ của các nhóm nhỏ xã hội, việc có được một cách phân loại hợp lý để có thể nhận diện và phần nào chỉ ra được những đặc trưng cơ bản của các loại nhóm nhỏ là một công việc vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Do vậy, vấn đề phân loại nhóm nhỏ đã là đối tượng của nhiều cuộc tranh luận trong Tâm lý học xã hội. Để có được cái nhìn tổng quan có thể kể tới các loại nhóm nhỏ sau: nhóm trong phòng thí nghiệm (thực nghiệm) và nhóm tự nhiên. Nhóm trong phòng thí nghiệm là những nhóm được tập hợp từ nhiều cá nhân khác nhau một cách ngẫu nhiên với mục đích thực hiện các nhiệm vụ thực nghiệm đã được định trước. Thời gian tồn tại của nhóm này ngắn, kết thúc khi thực nghiệm đã hoàn thành. Ngược lại, nhóm tự nhiên là nhóm tồn tại thực trong cuộc sống, có lịch sử phát triển và thực hiện chức năng nhất định. Loại nhóm này được hình thành trong điều kiện thực của cuộc sống và có sự phát triển ở các mức độ khác nhau. Nhóm chính thức và nhóm không chính thức (hay còn gọi là nhóm tự phát). Cách phân chia này được đưa ra bởi E.Mayo, gắn liền với thực nghiệm Hawthorne. Cả hai loại nhóm này đều là các nhóm tự nhiên. Nhóm chính thức là đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội, trong đó vị trí của các thành viên được xác định. Đồng thời vai trò của các thành viên cũng được phân chia rõ ràng. Nhóm có cấu trúc chính thức (cấu trúc chính quyền). Các mối quan hệ trong nhóm là quan hệ theo chiều dọc, do hệ thống các vai và các vị trí quy định. Sự xuất hiện của nhóm chính thức được quy định bởi sự cần thiết phải thực hiện một chức năng xã hội nào đó. Do vậy, nhóm chính thức được thành lập để thực hiện một nhiệm vụ do tổ chức xã hội giao cho. Đó cũng chính là đặc trưng cơ bản của nhóm chính thức. Đặc trưng này cho thấy nhóm chính thức không phải được hình thành hoàn toàn do ý muốn chủ quan của con người mà được hình thành bởi nhu cầu của hệ thống xã hội. Nhóm không chính thức là nhóm xuất hiện một cách tự phát, các vị trí và các vai trò trong nhóm không được quy định trước. Nhóm không chính thức có thể xuất hiện ngay trong lòng các nhóm chính thức hay bên ngoài các nhóm chinh thức. Nhóm này thường được hình thành dựa trên sự liên kết các thành viên bởi các hứng thú chung, các liên hệ thân tình hay các mối quan tâm nào đó. Trong một số trường hợp nhất định, nhóm này có thể trở thành nhóm có tổ chức. Thông thường các nhóm không chính thức trong lòng nhóm chính thức được xác định bằng trắc đạc xã hội. Tuy nhiên sự phân biệt này là tương đối vì hoàn toàn có khả năng nhóm không chính thức có thể có những đặc điểm nhất định của nhóm chính thức và ở một mức độ nhất định chuyển hóa thành nhóm chính thức. Trong thực tế rất khó có thể phân chia một cách rõ ràng nhóm chính thức và nhóm không chính thức, đặc biệt trong trường hợp nhóm không chính thức xuất hiện trong lòng nhóm chính thức. Với cách hiểu như vậy về nhóm chính thức và nhóm không chính thức, trong hoạt động tô chức, quản lý xã hội, nhà quản lý trước tiên phải quan tâm tới nhóm chính thức. Hệ quả tất yếu khi nhóm chính thức hình thành là nhóm chính thức này ngay từ đầu chưa phải là một nhóm có được sự trùng khớp giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính thức, nói cách khác chưa có sự cố kết cao. Chính vì vậy E.Mayo cho rằng cần làm cho cấu trúc chính thức và không chính thức càng trùng khớp nhau càng tốt. Đây cũng là nguyên nhân của việc xuất hiện các xu hướng nghiên cứu ứng dụng hướng tới việc tăng cường sự trùng khớp giữa cấu trúc của nhóm không chính thức với cấu trúc nhóm chính thức hay tạo ra sự cố kết nhóm trong nhóm chính thức. Một cách phân loại khác là cách phân loại của H.Hyman: phân chia các nhóm thành nhóm thành viên và nhóm tham chiếu. Cơ sở của cách phân chia này là mức độ có ý nghĩa của các giá trị, các chuẩn mực nhóm đối với các định hướng của cá nhân. Nhóm thành viên là nhóm mà cá nhân tham gia thực tế nhưng các giá trị và mục đích nhóm không được cá nhân chia sẻ. Cá nhân tồn tại trong một nhóm này nhưng nhóm không tạo ra được ảnh hưởng đến thái độ, đến các định hướng giá trị của cá nhân. Trong khi đó, nhóm mà cá nhân không tham gia thực tế nhưng các chuẩn mực, giá trị của nó lại được cá nhân tiếp nhận gọi là nhóm tham chiếu. Theo quan điểm ban đầu của H.Hyman, nhóm tham chiếu bắt buộc nằm bên ngoài nhóm thành viên. Sau này các dữ kiện thực nghiệm đã cho thấy đôi khi có trùng hợp nhóm tham chiếu với nhóm thành viên. Đồng thời trong số nhiều nhóm khác nhau, chỉ có một nhóm nào đó có vai trò là nhóm tham chiếu đối với cá nhân mà thôi. Lý thuyết nhóm tham chiếu gắn bó chặt chẽ với 2 hướng nêu trên của định hướng tương tác. Nhóm tham chiếu được hiểu là nhóm mà các giá trị và chuẩn mực của nó được cá nhân hướng tới. Nhóm tham chiếu như là tiêu chí, hệ thống các cơ sở để cá nhân đánh giá bản thân và người khác cũng là nguồn gốc để hình thành các thái độ xã hội, các định hướng giá trị của cá nhân. Các tác giả của lý thuyết này là H.Hyman, T.Newcomb, M.Sherif, G.Kem, R.Merton. Nhờ các công trình của các tác giả nêu trên, vấn đề nhóm tham chiếu trở thành một vấn đề phổ biến trong Tâm lý học xã hội. Các nhà Tâm lý học xã hội tìm thấy trong vấn đề này chìa khóa để giải thích quá trình hình thành các thái độ xã hội (tâm thế xã hội) và sự tự đánh giá, còn các nhà xã hội học xem là công cụ để phân tích chức năng các cấu trúc xã hội. Khái niệm nhóm tham chiếu cũng được sử dụng một cách rộng rãi để giải thích các hiện tượng như: tính không thống nhất trong hành vi của cá nhân trong các điều kiện một ngữ cảnh xã hội mới, hiện tượng phạm tội của lứa tuổi vị thành niên, các xung đột liên quan đến nhóm, phản ứng khác nhau của công chúng trước cùng một thông tin từ thông tin đại chúng... Cơ sở của lý thuyết nhóm tham chiếu là ý tưởng của G.Mead về “người khác khái quát”. Theo quan điểm của G.Mead, ý nghĩa của “người khái quát” là tương tác xã hội được thực hiện thông qua đó, cũng qua đó diễn ra sự tác động xã hội đến cá nhân. “Cá nhân nhận thức về bản thân không phải trực tiếp mà là gián tiếp, từ những góc độ riêng của những thành viên nhóm xã hội mà cá nhân thuộc về” (Mead, 1934, 138). Nhóm trở thành hệ thống các thái độ khái quát đối với các cá nhân tham gia vào nhóm. Khái niệm này được Hyman đưa ra vào năm 1942 khi nghiên cứu biểu tượng của cá nhân về vị trí của mình trong sự so sánh với các cá nhân khác. Ông không đưa ra định nghĩa về nhóm tham chiếu, mà sử dụng khái niệm này để chỉ nhóm mà nghiệm thể dùng để so sánh với bản thân để xác định vị trí của mình. Kết quả của việc so sánh với nhóm tham chiếu là sự tự đánh giá của nghiệm thể về vị trí của mình. Sự tự đánh giá này được Hyman xem như là biến số phụ thuộc bởi vì nó có quan hệ đối với nhóm tham chiếu. Sau này khái niệm nhóm tham chiếu được Newcomb sử dụng để chỉ nhóm mà cá nhân hướng tới trên phương diện tâm lý và do vậy chia sẻ các chuẩn mực các giá trị của nó cũng như dựa vào đó để định hướng các hành vi của bản thân. Theo ông, sự hình thành các thái độ là chức năng của quan hệ tích cực hay tiêu cực của cá nhân đối với nhóm nảy hay nhóm khác. Từ đó Newcomb chia thành các nhóm tham chiếu tích cực hay tiêu cực. Nhóm tham chiếu tích cực là nhóm mà các chuẩn mực và giá trị của nó được cá nhân chấp nhận và tạo ra mong muốn được nhóm chấp nhận. Nhóm tham chiếu tiêu cực là nhóm tạo ra mong muốn chống lại ở cá nhân và cá nhân không muốn trở thành thành viên của nhóm. Theo Newcomb, “sự nổi loạn” của thiếu niên chính là biểu hiện của việc trẻ coi cha mẹ là nhóm tham chiếu tiêu cực của chúng. Khái niệm này được xác nhận cuối cùng bởi M.Sherif và R.Merton. Theo Sherif, các chuẩn mực của nhóm tham chiếu trở thành các thái độ xã hội của cá nhân và cơ sở của sự tự đánh giá và cơ sở để giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội và để hình thành “bức tranh của bản thân về thế giới”. Sự đa dạng của các nhóm tác động đến cá nhân, đặt cá nhân vào một tình thế khó khăn khi phải lựa chọn các chuẩn mực khác nhau của các nhóm khác nhau. Ông đề nghị phân biệt nhóm hiện tại mà cá nhân đang là thành viên và nhóm tham chiếu - nhóm cá nhân coi là mình thuộc về một cách có ý thức hay vô thức. Hiện vẫn chưa có được sự phân chia rõ ràng các loại nhóm tham chiếu nhưng có sự thừa nhận chung đối với các loại sau: nhóm bên ngoài, nhóm thành viên, nhóm hiện thực, nhóm lý tưởng, nhóm lớn và nhóm nhỏ. Các chức năng của nhóm tham chiếu: có hai chức năng chính: chuẩn mực và đánh giá - so sánh. G.Kem sau khi phân tích các công trình trước đó về nhóm tham chiếu đã nhận thấy khái niệm nhóm tham chiếu đề cập đến hai loại quan hệ khác nhau giữa cá nhân và nhóm. Đó là quan hệ ở phương diện động cơ và phương diện các quá trình tri giác. Từ đó ông chia thành 2 chức năng: chức năng chuẩn mực và chức năng so sánh đánh giá. - Chức năng thứ nhất: tạo lập các tiêu chuẩn nhất định cho hành vi và buộc cá nhân tuân theo. Các chuẩn mực hành vi thường được gọi là các chuẩn mực nhóm. Do vậy ông gọi chức năng này của nhóm tham chiếu là chức năng chuẩn mực. Theo Kelley, nhóm tham chiếu có thể thực hiện chức năng này nếu nó có khả năng ban thưởng cho cá nhân khi tuân theo và trừng phạt khi cá nhân không tuân theo. - Chức năng thứ hai của nhóm tham chiếu thể hiện ở chỗ nó là cơ sở để cá nhân so sánh và đánh giá bản thân và người khác. Hai chức năng trên có thể được thực hiện bởi cùng một nhóm, có thể là nhóm thành viên hay nhóm bên ngoài mà cá nhân muốn trở thành thành viên hay gắn bó về mặt tâm lý. Sự khác biệt của chức năng chuẩn mực và so sánh có thể được hiểu như sau: Với chức năng chuẩn mực, đối với cá nhân điều quan trọng là biết được thái độ của nhóm đối với bản thân, nhóm chấp nhận hay từ chối cá nhân. Dường như cá nhân bị theo dõi bởi nhóm, bị đánh giá từ góc độ các chuẩn mực của nhóm, do vậy cá nhân xây dựng các hành vi của mình theo các chuẩn mực đó; còn đối với chức năng so sánh thì ý kiến của nhóm đối với cá nhân lại ít có ý nghĩa. Cá nhân tự đánh giá bản thân bằng cách so sánh với các tiêu chí đã biết. Vấn đề khác cũng được quan tâm là những nhóm nào được cá nhân chọn làm nhóm tham chiếu. Merton đi sâu nghiên cứu vấn đề này, ông đã đề xuất một số các điều kiện, theo đó cá nhân lựa chọn nhóm bên ngoài làm nhóm tham chiếu: - Nếu nhóm không có đủ uy tín đối với cá nhân, cá nhân có xu hướng lựa chọn nhóm bên ngoài có uy tín hơn làm nhóm tham chiếu. - Cá nhân càng bị cô lập, vị thế của cá nhân càng thấp trong nhóm, càng có khả năng cá nhân lựa chọn nhóm tham chiếu bên ngoài, ở đó cá nhân có được vị thế cao hơn. - Sự biến động xã hội càng cao, cá nhân càng có nhiều cơ hội thay đổi vị thế của mình thì càng có khả năng cá nhân lựu chọn các nhóm tham chiếu ở đó cá nhân có được vị thế xã hội cao hơn. - Sự lựa chọn nhóm tham chiếu cũng phụ thuộc vào tính cách cá nhân. H. Kelley chỉ ra hai chức năng của nhóm tham chiếu: chức năng so sánh và chức năng tiêu chuẩn. Các chuẩn mực hành vi, thái độ được thừa nhận trong nhóm trở thành “hình mẫu” để cá nhân thực hiện các hành vi - đây là chức năng so sánh. Chức năng thứ hai - chức năng tiêu chuẩn cho phép cá nhân đánh giá sự tương ứng của các hành vi của mình đối với các chuẩn mực nhóm. Chức năng tiêu chuẩn góp phần điều chỉnh các hành vi của các cá nhân, đặc biệt trong trường hợp có các hành vi lệch chuẩn. Ngoài những cách phân chia cơ bản nêu trên, một số tác giả phân chia thành nhóm thứ cấp và nhóm sơ cấp (Tr.Kuli). Nhóm thứ cấp là nhóm có sự tiếp xúc gián tiếp thông qua các trung gian. Nhóm sơ cấp là nhóm có sự tiếp xúc trực tiếp. Một loại nhóm nhỏ đặc biệt hay được đề cập đến trong Tâm lý học xã hội Xô viết là tập thể. Loại nhóm này không được nói đến trong Tâm lý học xã hội phương Tây. Trong Tâm lý học xã hội Việt Nam, khái niệm này được sử dựng rộng rãi. Trong lý thuyết về tập thể của A.V.Petrôvxki và sau này các tác giả khác như G.M.Anđrêeva, A.I.Đôxôv, R.L.Krichievxki đều cho rằng tập thể là một trạng thái chất lượng đặc biệt của nhóm nhỏ, là nhóm nhỏ đạt tới “sự trưởng thành” tâm lý xã hội. Xét về quá trình phát triển nhóm, nhóm nhỏ phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều mức độ, chỉ khi đạt tới mức độ phát triển cao nhất nhóm mới trở thành tập thể. Đặc trưng cơ bản của nhóm khi nó trở thành tập thể là có mục đích phù hợp với mục đích xã hội, có sự liên kết chặt chẽ và có thể tạo ra và đảm bảo những điều kiện lợi cho sự phát triển của mỗi nhân cách. 4. Chức năng nhóm Vấn đề chức năng của nhóm cũng được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Giải quyết vấn đề này góp phần lý giải các nguyên nhân thúc đẩy một cá nhân tham gia vào nhóm cũng như chỉ ra chiều hướng vận động và phát triển của nhóm. Trong nhiều cách tiếp cận vấn đề này đáng chú ý là cách tiếp cận sinh học xã hội, tiếp cận nhu cầu tâm lý và quan hệ xã hội, tiếp cận chức năng và tiếp cận mô hình 5 chức năng lớn (Big five model). Ngay trong công trình đầu tiên - Nhập môn Tâm lý học xã hội (1908) Mc.Dougall đã đưa ra cách tiếp cận sinh học xã hội để lý giải sự hình thành nhóm. Ông cho rằng: Bản năng bầy đàn dẫn dắt con người tham gia vào nhóm. “Chúng ta thường nói rằng sự buồn chán của nông thôn thúc đẩy con người vào thành phố. Nhưng cách hiểu như vậy không đúng với sự thật. Chính đám đông trong thành phố - bầy đàn người khổng lồ lôi kéo, hấp dẫn những người đứng ngoài nó” (Allport, 1994). Cộng đồng xã hội được coi là bầy đàn mặc dù đó là cộng đồng xã hội. Những cái lôi cuốn cá nhân tham gia vào nhóm không có tính chất xã hội của cộng đồng đó mà là tính chất tự nhiên, bản năng có ở mỗi cá thể. Rõ ràng cách tiếp cận này đề cao bản năng sinh học của con người. Nó chưa chỉ ra được bản chất xã hội của nhóm xã hội, cũng như chưa chỉ ra được chức năng của nhóm. Cách tiếp cận thứ hai tương đối phổ biến. Đó là tiếp cận nhu cầu tâm lý và quan hệ xã hội. Cơ sở của cách tiếp cận này là các nhu cầu tâm lý của cá nhân và phương thức thỏa mãn xã hội của nó. H.Murray (1938) với thuyết nhu cầu tâm lý cho rằng tham gia vào hệ thống hai người giúp các cá nhân có thể thỏa mãn được nhu cầu nào đó của mình. A.Maslow trong tháp nhu cầu nổi tiếng của mình có đưa ra “nhu cầu thuộc về một nhóm xã hội”. Theo cách tiếp cận này, chức năng của nhóm nhỏ xã hội là tạo điều kiện cho sự thỏa mãn các nhu cầu tâm lý của cá nhân. Cách tiếp cận này đã chỉ ra được một khía cạnh trong các chức năng của nhóm nhỏ, một khía cạnh tương đối nổi bật. Tuy vậy nhìn nhận nhóm xã hội chỉ từ góc độ cá nhân riêng lẻ đồng nghĩa với việc đánh mất ngữ cảnh xã hội của nhóm. Phân tích chức năng của nhóm không chỉ tập trung vào chức năng của nhóm đối với cá nhân mà còn cần phải chú ý đến chức năng của nhóm như là một chủ thể xã hội. Tiếp cận chức năng nhìn nhận vấn đề một cách khái quát hơn: nhóm là nguồn cho sự tồn tại xã hội của con người. Nó cung cấp các nguồn lực cần thiết cho sự tồn tại và phát triển con người xã hội. Trong cách tiếp cận này mô hình 5 chức năng lớn (Big five Function) của nhóm do Donelson R. đề xuất rất đáng được lưu ý: 1. Nhóm tạo điều kiện cho các cá nhân có cơ hội tiếp xúc và tạo lập quan hệ với các cá nhân khác trong một mạng lưới xã hội có tổ chức. (Belonging) 2. Nhóm tạo cơ hội cho những mối quan hệ thân thiện, gắn bó, tạo điều kiện cho sự phát triển nhóm làm việc gắn bó. (Intimacy) 3. Nhóm tạo điều kiện cho tính hiệu quả, thành công, kiểm soát nguồn lực và định hướng công việc. (Generativity) 4. Nhóm tạo ra sự ổn định về Tâm lý, giảm lo hãi, tạo cảm giác an toàn, tăng cường lòng tự trọng... (Stability) 5. Nhóm tạo điều kiện cho sự sáng tạo, sàng lọc các ý tưởng, tự phát triển bản thân, hiểu bản thân và người khác, tăng cường liên hệ liên nhân cách (Adaptability) (Myer D.G. 1996). Mô hình 5 chức năng lớn của nhóm có một số ưu điểm: - Chỉ ra vị trí của nhóm trong mạng lưới các quan hệ xã hội, coi nhóm là một mắt xích trong mạng lưới đó. Cá nhân tham gia vào nhóm cũng chính là tham gia vào mạng lưới các quan hệ xã hội. - Bên cạnh chức năng tạo ra những mối quan hệ xúc cảm quan hệ tâm lý liên nhân cách - như xu hướng chung của Tâm lý học xã hội phương Tây nhấn mạnh đến các quan hệ xúc cảm trong nhóm - mô hình này đã đề cập tới chức năng tổ chức hoạt động của nhóm. - Chỉ ra sự gắn kết nhóm nằm trong bản chất nhóm, xuất hiện trong cuộc sống nhóm chứ không phải sự gắn kết có từ ban đầu, bên ngoài. Sự cố kết trong nhóm là kết quả của quá trình hoạt động nhóm. Tuy vậy hạn chế ở đây cũng chính là việc chưa xem nhóm là một đơn vị xã hội thực hiện một chức năng xã hội nhất định, trên cơ sở đó nhóm thực hiện các chức năng khác của mình. 5. Quá trình ra quyết định nhóm Quá trình ra quyết định nhóm là một trong những dấu hiệu cơ bản của nhóm nhỏ. Quá trình này cho thấy nhóm nhỏ như là một chủ thể của hoạt động nhóm. Cũng giống như các hiện tượng tâm lý xã hội khác của nhóm nhỏ, quá trình ra quyết định nhóm cũng được xem xét như một quá trình được tạo bởi các thành phần cụ thể. Trong đó thành phần thứ nhất là nhiệm vụ của nhóm. Nhiệm vụ của nhóm được xem như là nguồn gốc và đối tượng của quá trình ra quyết định nhóm. M.Shaw khi nghiên cứu các nhiệm vụ của nhóm tập trung vào 4 vấn đề: mô tả các nhiệm vụ mang tính chuẩn mực của nhóm, xây dựng các phân loại nhiệm vụ của nhóm, phân tích các chiều kích của nhiệm vụ nhóm và chỉ ra ảnh hưởng của các nhiệm vụ nhóm có các tính chất khác nhau đến quá trình nhóm. Theo M.Shaw, các nhiệm vụ mang tính chuẩn mực của nhóm được hiểu là những nhiệm vụ có tính chất rõ ràng, giúp nghiên cứu các khía cạnh của hành vi nhóm thuận lợi. Các nhiệm vụ này có thể ghi lại các điều kiện xuất phát, sản phẩm cuối cùng và các hành động nhất định mà các thành viên cần thực hiện để đạt tới mục đích mong muốn. Loại nhiệm vụ này có lợi thế là giúp người nghiên cứu dễ dàng theo dõi hành vi của các cá nhân và của nhóm một cách chính xác, loại trừ bớt các yếu tố phụ thuộc lẫn nhau do tính chất rõ ràng của nhiệm vụ quy định. Tuy nhiên hạn chế cơ bản là loại nhiệm vụ này chỉ cho phép nghiên cứu những hành động mang tính cơ học chứ không cho thấy hành vi phức tạp của nhóm và các hiện tượng như thảo luận nhóm hay quá trình phân tích trí tuệ của nhóm. * Phân loại các nhiệm vụ nhóm là một trong các công việc phức tạp. Hiện nay có một số phân loại như sau: nhiệm vụ phức tạp hay đơn giản; nhiệm vụ hợp tác hay cạnh tranh. Tackman đề xuất một số loại: sáng tạo, thảo luận, vấn đề. M.Shaw đề xuất phân loại các nhiệm vụ nhóm theo các tính chất của chúng: độ khó của nhiệm vụ, tính đa phương án của nhiệm vụ, độ quan tâm bên trong của mỗi thành viên nhóm, yêu cầu phối hợp hành động, mức độ yêu cầu về trí tuệ đối với nhiệm vụ và tính mới mẻ của nhiệm vụ (Shaw M. 1976). * Ảnh hưởng của tính chất nhiệm vụ nhóm tới quá trình nhóm: Các nhiệm vụ với các tính chất khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau tới các quá trình nhóm, tới các phương diện khác nhau của hành vi nhóm như: sự định hướng tới hành vi của người khác; sự lạc quan, tính mới mẻ của các quyết định; sự tham gia vào quá trình cũng như sự bền vững và chất lượng của hành vi. Đặc biệt tính rõ ràng của mục đích cần đạt được có ảnh hưởng lớn tới sự cố kết của các thành viên. Các thành viên thể hiện sự cố kết cao hơn và có động cơ hoạt động mạnh hơn đối với các nhiệm vụ rõ ràng và có hành vi ngược lại đối với các nhiệm vụ không rõ ràng. * Quá trình ra quyết định nhóm: Quá trình ra quyết định nhóm luôn phải đối mặt với một vấn đề chưa có câu trả lời thỏa đáng: tính hiệu quả của quyết định cá nhân và quyết định nhóm có tương đồng hay không? Sự dịch chuyển rủi ro từ cá nhân sang nhóm và sự phân cực nhóm như thế nào? Để ra quyết định nhóm, thảo luận nhóm có vai trò quan trọng. Trong quá trình thảo luận nhóm diễn ra các cơ chế sau: - Thảo luận nhóm cho phép các lập trường các quan điểm được va chạm, bằng cách đó giúp các thành viên có thể nhìn thấy các khía cạnh khác nhau của vấn đề. - Các kết luận được rút ra từ thảo luận nhóm sẽ có ý nghĩa hơn đối với mỗi thành viên, nó có thể trở thành chuẩn mực nhóm và do vậy có ảnh hưởng lớn đến hành vi của các thành viên. Thảo luận nhóm cũng được xem xét như là một giai đoạn của quá trình ra quyết định nhóm. Đặc biệt ở lĩnh vực ứng dụng, các nhà nghiên cứu đang tìm cách đưa ra các hình thức thảo luận nhóm khác nhau, một trong số đó là “brainstorming” do A.Osbom đề xuất hay phương pháp “liên kết các khác biệt” của U.Golden. * Sự dịch chuyển rủi ro: Các nghiên cứu trước đây cho thấy, khi ra quyết định, nhóm có xu hướng dung hòa các quyết định thái quá cả về 2 phía của các cá nhân để đi đến một quyết định “trung bình”. Hiện tượng này được gọi là “cân bằng hóa nhóm”. Tuy nhiên, trong các trường hợp các quyết định có nhiều rủi ro thì diễn ra “sự dịch chuyển rủi ro”: có thể có hiện tượng dịch chuyển về phía rủi ro khi có sự phân tán trách nhiệm và dịch chuyển về phía thận trọng hơn. Các giả thuyết chưa được khẳng định. * Sự phân cực các ý kiến trong nhóm (cũng được gọi là sự chuyển dịch ý kiến): Trong tiến trình thảo luận nhóm, các ý kiến đối lập không chỉ xuất hiện mà chúng còn tạo ra sự chấp nhận hay phản đối của phần lớn các thành viên. Các ý kiến trung gian dịch chuyển dần về phía này hay phía khác làm các ý kiến thuộc 2 cực ngày một rõ ràng hơn. Có 2 cách giải thích sự phân cực: chuẩn mực và thông tin. Chuẩn mực tức là cá nhân so sánh mình với người khác và để khẳng định cái tôi của bản thân “người khác cũng nghĩ như tôi”. Điều này giúp cá nhân củng cố ý kiến của bản thân. Thông tin tức là nếu thảo luận nhóm được điều khiển bởi các chứng cứ và các chứng cứ đó có lợi cho cá nhân thì cá nhân đó càng mạnh mẽ hơn với ý kiến của mình (tức là phân cực thay vì trung gian). Ngược lại nếu chứng cứ mâu thuẫn với ý kiến trước đây, cá nhân đó sẽ dứt khoát dịch chuyển về phái đối lập (tức là cũng phân cực). 6. Lý thuyết về sự phát triển nhóm Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển của nhóm nhỏ. Ý tưởng về sự phát triển nhóm đã được đưa ra trong lý thuyết Phân tâm học, trong công trình của Freud “Tâm lý học nhóm và phân tích cái tôi”. Trong định hướng Phân tâm học của Tâm lý học xã hội xuất hiện lý thuyết phát triển nhóm của V.Bennis và G.Shepard, được hình thành trên cơ sở phân tích thực tiễn tâm lý trị liệu nhóm. Lý thuyết này được hình thành từ giữa những năm 1950. Nó không hoàn toàn nằm trong định hướng phân tâm học mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều định hướng khác. Tuy vậy theo Shaw và Costanzo, lý thuyết này có tư tưởng cơ bản liên quan đến Phân tâm học. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở tìm hiểu những quá trình nhóm diễn ra trong các nhóm T hay còn gọi là các nhóm huấn luyện quan hệ con người hay nhóm tự phân tích. Các nhóm này là một hiện tượng trong đời sống xã hội phương Tây những năm 60, 70 của thế kỉ XX. Thực hành Nhóm T - với các hình thức đa dạng của nó diễn ra dưới ảnh hưởng của Phân tâm học. Nhóm T chính là một phương pháp huấn luyện xã hội. Huấn luyện xã hội được hiểu theo nghĩa rộng là dạy các hiểu biết, kĩ năng, kỹ xảo giao tiếp liên nhân cách. Hoạt động cơ bản của nhóm T là thảo luận nhóm. Chủ đề thảo luận là các mối quan hệ liên nhân cách hiện thực của các thành viên nhóm và nhiệm vụ là tìm hiểu chính động thái nhóm qua việc phân tích các quá trình diễn ra trong nhóm. Các quá trình đó được nghiên cứu bởi chính các thành viên nhóm. Sự tăng lên trong hiểu biết của cá nhân về chính các động cơ của bản thân; sự hụt hẫng, ý định, các khả năng có thể trong giao tiếp liên nhân cách của bản thân cũng như của người khác... được gọi chung là sự thành thục xã hội. Mục đích cuối cùng của huấn luyện xã hội là giúp những người tham gia nâng cao sự thành thục xã hội. Để đạt được mục đích cuối cùng, cần thực biện các mục đích cụ thể được đặt ra một cách rõ ràng hay ngầm định. Ở cấp độ nhóm, mục đích đó là tạo ra sự giao tiếp có hiệu lực, tức là: đạt được một trạng thái nhóm mà mỗi thành viên có khả năng thể hiện các tình cảm, xúc cảm, động cơ, ý định của mình một cách chính xác, tự do. Ở đó tri giác của mỗi thành viên về vị trí của mình trong nhóm phù hợp với sự tri giác của các thành viên khác, mục đích được thống nhất của nhóm và sự nỗ lực của các thành viên là tương ứng và các thành viên nhóm có khả năng chia sẻ nhiều mức độ giao tiếp. Quy mô nhóm có thể từ 7 - 15 người. Đó có thể là nhóm hiện thực nhưng thường xuyên hơn cả là các nhóm được hình thành từ những người không quen biết nhau từ trước. Các thành viên chủ yếu là những người thuộc các nghề nghiệp khác nhau nhưng có điểm chung là cần có khả năng giao tiếp. Thời hạn của các nhóm T có thể từ 2 ngày đến 2 tháng. Mỗi nhóm có một người huấn luyện. Vai trò của người này có thể thay đổi tùy nhiệm vụ cụ thể. Nhưng trong mọi trường hợp vai trò chính của người đó là tạo ra bầu không khí tin tưởng, sự cởi mở trong nhóm. Người huấn luyện phải thể hiện hình mẫu của các hành vi mong muốn, tức là bộc lộ một cách chân thành và rõ ràng các tình cảm của mình, thể hiện sự gắn bó và ủng hộ sự chân thành của người khác. Người huấn luyện khác với vai trò của người bác sĩ trị liệu, không tập trung vào các kinh nghiệm của các thành viên mà chỉ tập trung vào các quá trình diễn ra “ở đây” và “bây giờ” trong nhóm. Hệ thống các liên hệ ngược cho phép mỗi cá nhân có thể hiểu được người khác và diễn giải điều mình làm và nói, qua đó tạo ra những tiền đề cho việc suy nghĩ về hậu quả có thể có của các hành động của mình trong nhóm. Kết quả của huấn luyện phụ thuộc vào hệ thống các liên hệ ngược được thiết lập như thế nào. Những tiền đề đảm bảo cho nhóm có hiệu quả là tạo ra bầu không khí tin tưởng, an toàn tâm lý trong nhóm và sự sẵn sàng thay đổi những phương thức tri giác và tác động qua lại khi thấy được những hạn chế của chúng. Về phương diện lý luận nhóm, T chịu ảnh hưởng của Phân tâm học truyền thống ở chỗ: cá nhân có thể mở rộng kinh nghiệm của mình bằng cách đưa các cơ chế tự vệ của hành vi mà cá nhân chịu chi phối mà không ý thức được đến với ý thức và đặt dưới sự kiểm soát của ý thức. Đây chính là nguyên tắc trị liệu của Phân tâm học. Lý thuyết này được xây dựng trên việc nghiên cứu các quá trình diễn ra trong nhóm gọi là nhóm T - các nhóm luyện tập (training group): sự tồn tại của nhóm luyện tập chia thành 2 pha. Trong mỗi pha, nhóm giải quyết một tập hợp nhất định các vấn đề để đạt được mục tiêu cơ bản của nó - thiết lập giao tiếp có hiệu lực (tức là giao tiếp, trong đó loại bỏ các trở ngại đối với người tham gia giao tiếp). Con đường để đạt tới mục đích đó chính là sự phát triển nhóm: trong pha đầu tiên giải quyết vấn đề về thủ lĩnh và các mối quan hệ qua lại giữa mỗi thành viên nhóm và thủ lĩnh; trong pha thứ 2, mối quan hệ giữa các thành viên ngang hàng được xác lập. Trong mỗi pha, sự khó khăn trong các mối quan hệ thường xuyên được dỡ bỏ và sự giao lưu đầy đủ hơn được phát triển. Lý thuyết của Benis và Shepard được xây dựng dựa trên các quá trình thay đổi trong nhóm để đạt tới mục đích giao tiếp hiệu lực với 2 vấn đề cơ bản: phân tích những khía cạnh của giao tiếp hiệu lực và xác định các giai đoạn phát triển nhóm. Một trong những điều kiện cơ bản để thiết lập giao tiếp hiệu lực theo các tác giả là tình huống không xác định trong đó mỗi thành viên của nhóm rơi vào tại thời điểm bắt đầu của nhóm T. Các thành viên có xu hướng giấu các thái độ thật của mình, các phản ứng, các xúc cảm bởi vì họ không biết họ sẽ chờ đợi điều gì từ những người khác. Do vậy, sự không xác định liên quan đến 2 mặt của sự thực hiện chức năng nhóm: vấn đề quyền lực và vấn đề phụ thuộc lẫn nhau. Vấn đề quyền lực - đó là vấn đề về thủ lĩnh, ai sẽ là người dẫn dắt và ai là người chịu sự điều khiển. Lĩnh vực quan hệ liên nhân cách giữa các thành viên nhóm cũng không rõ ràng. Ở đây sự không xác định liên quan đến vấn đề bền chặt của các liên hệ xúc cảm. Các tác giả cho rằng vấn đề thủ lĩnh là vấn đề mang tính thứ nhất và định hướng mối quan hệ với thủ lĩnh là thứ 2, ở mức độ nhất định quyết định hướng quan hệ của các thành viên với những thành viên khác. Do vậy, trong quá trình phát triển nhóm, trước hết phải giải quyết vấn đề quyền lực, thủ lĩnh và chỉ trên cơ sở giải quyết vấn đề đó mới giải quyết được vấn đề mối quan hệ giữa các thành viên nhóm. Điểm cơ bản trong việc phân tích các “hành vi nhóm” là phân chia 2 loại mối quan hệ trong nhóm: quan hệ thành viên với thủ lĩnh và quan hệ giữa các thành viên. Trong đó quan hệ giữa thành viên với thủ lĩnh mang tính thứ nhất vừa ở phương diện phát triển nhóm, vừa ở phương diện quy định các quan hệ giữa các thành viên nhóm. Theo đó có thể chia thành 2 pha trong sự phát triển nhóm. Nội dung của pha thứ nhất giải quyết vấn đề thủ lĩnh nhóm; trong pha thứ hai là vấn đề quan hệ qua lại giữa các thành viên nhóm. Trong mỗi pha lại có 3 tiểu pha, tức là có 6 giai đoạn. Trong pha đầu, nhóm gặp phải những tình huống sau: Những người tham gia chờ đợi người huấn luyện nhận trách nhiệm nắm giữa quyền lực. Tuy nhiên với nhóm T, người huấn luyện được chỉ định trước không nhận trách nhiệm đó và phải thông báo trước về vấn đề đó. Thông thường trong thời điểm đó có sự căng thẳng nhất định, xuất hiện sự không hài lòng với tình huống, tranh luận về mục đích và các nhiệm vụ của nhóm. Sự bắt đầu của tiểu pha thứ 2 liên quan đến yêu cầu đối với người huấn luyện để bỏ lại nhóm. Xuất hiện 2 ý kiến đối lập nhau: một số thành viên ủng hộ cấu trúc thủ lĩnh mạnh còn số khác đề nghị một bầu không khí nhóm ít mang tính cấu trúc hơn, chống lại thủ lĩnh mạnh và những hình thức quản lý nhóm nghiêm khắc. Tiểu pha thứ 3 liên quan đến việc giải quyết vấn đề thủ lĩnh. Việc này có thể nhanh chóng được giải quyết hay ngược lại, khi đó nhóm nằm trong trạng thái lung lay. Cuối cùng, nếu nhóm không tan rã thì nó sẽ chuyển sang một pha mới: pha thiết lập các mối quan hệ liên nhân cách hay giải quyết vấn đề sự phụ thuộc lẫn nhau. Các tiểu pha của pha thứ 2 có thể có những lệch pha nhất định: nhóm có thể không đạt được mục đích cuối cùng hoặc là trong một thời gian dài không xác định dừng lại ở một pha nào đó hoặc tan rã. Như vậy, rõ ràng lý thuyết của Benis và Shepard được xây dựng hoàn toàn dựa vào việc quan sát hoạt động của nhóm T. Các tác giả của nó không có tham vọng đối với tính khái quát của lý thuyết này nhưng đôi khi có xu hướng vận dụng lý thuyết này một cách không có chỉnh sửa vào việc giải thích sự phát triển nhóm ở phạm vi các nhóm nói chung. Lý thuyết này chưa chỉ ra thời gian kéo dài của mỗi pha. Nó chỉ đề cập đến sự tiếp nối giữa các pha chưa chỉ ra các biến số ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nhóm cũng như đến việc giải quyết vấn đề sự phụ thuộc qua lại. Tính dự báo của lý thuyết này còn hạn chế. Lý thuyết thứ 2 về sự phát triển nhóm có được cơ sở tương đối rộng rãi hơn là lý thuyết “xã hội hóa nhóm” của R.Morlend và J.Livan. Quá trình phát triển nhóm được xem xét tương tự với quá trình xã hội hóa cá nhân, phân tích sự tồn tại không gian, thời gian của nhóm. Mỗi giai đoạn trong sự phát triển nhóm được đặc trưng bởi một loại quan hệ giữa nhóm với mỗi cá nhân khi cá nhân trở thành thành viên nhóm. Các giai đoạn có thê được so sánh với nhau dựa trên 3 tiêu chí: - Sự đánh giá (mục đích nhóm, vị trí của nhóm giữa các nhóm khác, ý nghĩa của mục đích nhóm đối với mỗi cá nhân thành viên). - Trách nhiệm (của nhóm trong quan hệ đối với các thành viên và của mỗi cá nhân đối với nhóm, trong tiến trình đó bộc lộ mức độ hài lòng đối với các kì vọng lẫn nhau. Nâng cao sự đồng thuận, các tiếp xúc xúc cảm, động cơ duy trì nhóm là kết quả của việc thực hiện các trách nhiệm qua lại... - Cấu trúc lại các vai của các thành viên nhóm (Mức độ tham gia nhiều hơn hay ít hơn của các thành viên, mức độ đồng nhất với nhóm. Với mục đích này chia ra 5 loại vai trò có thể có của thành viên nhóm: Thành viên tiềm năng, thành viên mới, thành viên đầy đủ, thành viên cận biên, cựu thành viên). Trên cơ sở các tiêu chí kể trên, các giai đoạn trong đời sống nhóm được xác định tương ứng với các vị trí (vai) của các thành viên. Sự kết hợp các giai đoạn và vai được thể hiện trong “Mô hình hệ thống quá trình” của M.Tremerse. Sự tương ứng các giai đoạn và vai trò có thể biểu diễn như sau: Vai trò Giai đoạn Thành viên tiềm năng Thành viên mới Thành viên đầy đủ Thành viên cận biên Cựu thành viên Tìm hiểu (thành viên tìm hiểu nhóm). Xã hội hóa thành viên (trong nhóm). Hỗ trợ (nhóm hỗ trợ thành viên). Tái xã hội hóa (có khả năng thành viên rời bỏ nhóm). Nhớ lại (về nhóm mà người đó không còn là thành viên). Như vậy trong mô hình nêu trên, điểm nhấn mạnh là ở chỗ kết hợp các giai đoạn phát triển nhóm với quá trình xã hội hóa cá nhân trong nhóm. Rõ ràng mô hình này cho phép nhóm ngừng tồn tại trong trường hợp nếu như việc ở trong nhóm không cần thiết đối với các thành viên nhóm. Khái niệm “giai đoạn” phát triển nhóm được hiểu là các thời kì khác nhau với các đặc điểm về vai trò và mức độ tham gia của các thành viên vào nhóm, các giai đoạn này được phân biệt bởi 1 tập hợp các tiêu chí. Mỗi giai đoạn liên quan đến sự thay đổi thành phần của nhóm: các thành viên mới tham gia vào nhóm, một số thành viên cũ rời bỏ, diễn ra quá trình chuyển hóa thành viên tiềm năng thành thành viên đầy đủ và sau đó đôi khi thành “thành viên cận biên” nếu như nhóm không còn thỏa mãn được nhu cầu của thành viên đó và có thể có sự chia tay với nhóm. Mức độ chấp nhận của nhóm đối với mỗi thành viên và ngược lại của mỗi thành viên đối với thực tế nhóm là những nhân tố của sự thay đổi các vai của các thành viên nhóm. Quá trình xã hội hóa nhóm diễn ra không phải trong chân không: đặc trưng văn hóa và các quan hệ xã hội mà trong phạm vi đó nhóm tồn tại ảnh hưởng đến sự thay đổi trong nhóm. Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển của nhóm nhỏ: - Ober Nir đưa ra mô hình phát triển nhóm nhỏ theo bốn giai đoạn: 1) Thời kì thứ bậc dửng dưng của nhóm trên cơ sở tiêu chí biểu cảm và các vai đa năng; 2) Thời kì nhiễu loạn: phá hủy cấu trúc phân vai và xuất hiện các bất hòa trong nhóm; 3) Thời kì hình thành các tiêu chuẩn công cụ, 4) Thời kì thực hiện - hình thành chức năng, sự sắp đặt các tác dụng phụ thuộc trong mối liên hệ qua lại. - Trên phương diễn giải quyết nhiệm vụ E.A.Marby chia thành các giai đoạn: Giai đoạn tiềm ẩn (tìm kiếm nhiệm vụ), giai đoạn thích nghi, giai đoạn liên kết giai đoạn giải quyết nhiệm vụ, đạt kết quả chung. - B.Tacmen: Giai đoạn kiểm tra và phụ thuộc, giai đoạn xung đột nội bộ, giai đoạn phát triển sự cố kết nhóm nhờ sự hài hòa dần các quan hệ và biến mất của xung đột nhóm giai đoạn tương ứng chức năng vai trò, cùng với sự hình thành cấu trúc phân vai của nhóm. - Quan điểm của A.V.Petrovxki: Nếu căn cứ vào tính tích cực của nhóm nhỏ vào ý nghĩa xã hội của hoạt động chung, sự phát triển của nhóm nhỏ có thể coi là quá trình vận động giữa hai cực: coi sự phát triển cao nhất của nhóm nhỏ là tập thể - tập thể là cực phát triển cao của nhóm nhỏ, cực đối lập với tập thể là nhóm hỗn độn. Các nhóm ở giữa hai cực này là các nhóm phân tán, trong đó thiếu vắng hoạt động cùng nhau. Có các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển đó: giai đoạn tổng hợp sơ cấp - phân hóa - hợp nhất - tập thể. Các lý thuyết phát triển nhóm vẫn tiếp tục được xây dựng trong phạm vi nghiên cứu các định hướng văn hóa xã hội khác nhau, cụ thể như định hướng quan hệ tập thể - cá nhân. Các nghiên cứu chủ yếu chỉ ra thái độ của nhân cách đối với định hướng này hay định hướng khác trong mối quan hệ tập thể cá nhân ở các môi trường văn hóa khác nhau. Các nghiên cứu được thực hiện như là các nghiên cứu xuyên văn hóa (so sánh văn hóa). Định hướng nghiên cứu mới liên hệ chặt chẽ với quá trình phát triển của nhóm: chuyển từ một pha sang pha khác một phần lớn phụ thuộc vào việc phong cách nổi trội của sự định hướng, có nghĩa là hành vi nào “chiến thắng” trong nhóm và nhờ đó tạo điều kiện hay cản trở sự chuyển hóa sang một pha mới. Trong văn hóa cá nhân, sự phát triển nhóm đòi hỏi sự vận động tới đỉnh cao của quyền cá nhân của nhân cách, trong văn hóa tập thể - tới sự quan tâm về lợi ích chung. Cũng như trong các cách tiếp cận đã được phân tích ban đầu, một tư tưởng quan trọng ngày càng được củng cố là sự phát triển nhóm phụ thuộc vào tính chất xã hội trong đó nhóm tồn tại. HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC: Những vấn đề liên quan đến nhóm xã hội là những vấn đề có được sự quan tâm lớn trong giai đoạn hiện nay, trong dạy học và giáo dục mối quan tâm chủ yếu hướng tới các nhóm nhỏ. Cụ thể: - Chú ý đầy đủ đến việc tổ chức các nhóm sinh viên trong quá trình dạy học và giáo dục. Nên coi các nhóm sinh viên là đơn vị cơ sở của hoạt động dạy học và giáo dục. Hầu hết các hoạt động của sinh viên diễn ra trong môi trường nhóm nhỏ, các cơ chế tâm lý xã hội cũng phát huy tác dụng trong nhóm. Đặc biệt, nhóm nhỏ là môi trường thuận lợi cho việc phát huy tính tích cực chủ động trong học tập và nghiên cứu của sinh viên, là môi trường cho việc rèn luyện các “kĩ năng mềm”. - Hình thành nhóm nhỏ trong dạy học, giáo dục bằng nhóm và thông qua nhóm. Để thực hiện điều đó cần ý thức rõ việc tổ chức nhóm và tác động để hình thành các hiện tượng tâm lý nhóm, từ việc lựa chọn quy mô nhóm, đến việc giúp nhóm hình thành các mục tiêu, các nguyên tắc, khuyến khích sự chủ động trong hoạt động của nhóm, quan tâm đến sự phát triển của nhóm. - Cần đưa ra những yêu cầu chính thức khi hình thành các nhóm: đánh giá kết quả của nhóm, của cá nhân trong nhóm trong sự tương quan với kết quả của nhóm, sự luân chuyển các vai trò xã hội trong cấu trúc chính thức của nhóm. - Quan tâm đến quá trình ra quyết định nhóm sự hình thành các chuẩn mực nhóm. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III 1. Nhóm xã hội là gì? Có những loại nhóm xã hội nào? Ý nghĩa của việc nghiên cứu các nhóm xã hội? 2. Phân tích sự khác biệt giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính thức của nhóm. Cần có cách ứng xử như thế nào với cấu trúc không chính thức? Tại sao? 3. Chuẩn mức nhóm là gì? Vai trò của chuẩn mục nhóm? Làm thế nào để hình thành các chuẩn mực nhóm? 4. Nhóm nhỏ là gì? Có các loại nhóm nhỏ nào? Trong dạy học và giáo dục theo anh (chị) cần quan tâm tới nhóm nhỏ nào? Tại sao? Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA TẬP THỂ I. TẬP THỂ VÀ CẤU TRÚC QUAN HỆ CÁ NHÂN TRONG TẬP THỂ 1. Khái niệm tập thể

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftam_ly_hoc_xa_hoi_t_q_thanh_phan_1_3342.pdf