Phân l oại v à nhận bi ết các ki ểu nhân cách
khác nhau ở s i nh v i ên. V i ệc đó gi úp gi ảng v i ên có thể
dự đoán được các chi ều hướng hành v i ở s i nh v i ên,
đồng thời có khả năng dự ki ến các tác động hay cách
thức ứng x ử phù hợp v ới các ki ểu nhân cách. Bên
cạnh đó, v i ệc chỉ ra các hình m ẫu của các ki ểu l oại
nhân cách x ã hội gi úp dự đoán v à tác động đến s ự
thích ứng của s i nh v i ên v ới các t ình huống x ã hội .
354 trang |
Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 3318 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tâm lý học xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là yếu tố rất
quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách. Con người sẽ tuân thủ hoàn toàn các yêu cầu
của vai trò và hình thành các phẩm chất năng lực theo
vai trò đòi hỏi.
Cùng một lúc con người đóng nhiều vai trò
nên cũng rất khó thuần thục tất cả các vai trò. Do đó, có
thể họ đóng tốt vai trò này nhưng lại đóng không tốt vai
trò khác. Thậm chí có những vai trò trái ngược nhau
hoặc không bị trùng nhau về thời điểm làm cho con
người lúng túng và không hoàn thành được vai trò của
mình. Ví dụ, vào cùng một thời điểm, một người vừa
đảm nhiệm việc cơ quan đã rất bận rộn, nhưng yêu
cầu công việc gia đình cũng rất cần họ. Vì thế, họ rất
khó làm tốt cả hai vì thời gian không cho phép
Do đó, vấn đề của mỗi cá nhân là sắp xếp các
vai trò theo thứ bậc ưu tiên và đóng tốt các vai trò theo
mức độ quan trọng của nó. Ví dụ, người công chức
mới đi làm thì công việc cơ quan là quan trọng hơn
công việc gia đình. Nhưng khi có gia đình có con thì cả
hai việc đều quan trọng. Nhưng lưu ý nếu nhập vai một
cách quá đáng (quá sự cần thiết) có thể dẫn tới sự
méo mó nghề nghiệp.
Vì tính đa dạng của các vai xã hội mà cá nhân
phải thực hiện cũng như sự phù hợp hay không phù
hợp của cá nhân với các vai xã hội khác nhau làm nảy
sinh hiện tượng “xung đột vai”.
Xung đột vai được hiểu là tình huống trong đó
cá nhân đối mặt với các kì vọng không tương ứng. Nói
cách khác cá nhân không đủ khả năng để thực hiện
các yêu cầu đặt ra đối với vai đó.
Có 2 nhân tố ảnh hưởng đến mức độ sâu sắc
và cường độ của xung đột vai:
- Một là: mức độ khác biệt giữa các vai. Các
vai mà cá nhân đồng thời phải thực hiện càng có
nhiều yêu cầu chung thì xung đột vai càng ít xảy ra.
- Hai là: Các yêu cầu đối với vai. Các yêu cầu
đối với vai càng chặt chẽ, tính nghiêm khắc của yêu
cầu đối với vai càng cao càng dễ tạo ra các xung đột
vai nghiêm trọng.
Trong các lý thuyết về vai, thường được chia
thành 2 loại xung đột vai: xung đột giữa các vai và xung
đột bên trong vai. Xung đột giữa các vai diễn ra khi cá
nhân phải thực hiện đồng thời nhiều vai. Do vậy không
thể thực hiện tất cả các yêu cầu của các vai đó do thiếu
thời gian, sức lực hay do các vai đó có các yêu cầu
không tương thích.
Mâu thuẫn bên trong vai xuất hiện khi có
những yêu cầu mâu thuẫn của các nhóm xã hội đối với
một vai. Các nhóm xã hội khác nhau có thể có sự kì
vọng và yêu cầu khác nhau với cùng một vai. Chẳng
hạn phụ huynh đánh giá và kì vọng vào kết quả của
sinh viên, trong khi đó với chính bản thân sinh viên lại
xem nhẹ điều đó.
Xung đột vai nói chung ảnh hưởng tiêu cực
đến sự tương tác cho nên các tác giả có xu hướng tìm
kiếm các phương thức giải quyết xung đột vai. Có 3
nhóm nhân tố được coi là có thể làm giảm xung đột
vai:
- Nhóm thứ nhất: liên quan đến thái độ của
chủ thể đối với vai (các yêu cầu của vai có ý nghĩa đến
mức nào đối với cá nhân, cá nhân cho rằng các yêu
cầu đó chính đáng đến mức nào).
- Nhóm thứ hai: bao hàm sự thưởng phạt có
thể có đối với việc thực hiện hay không thực hiện vai.
- Nhóm thứ 3 : các định hướng giá trị của các
cá nhân (định hướng giá trị đạo đức hay định hướng
giá trị thực tế).
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI à Chương 6. NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
Sự hình thành và phát triển nhân cách theo
quan điểm của Tâm lý học hoạt động được hiểu là
một quá trình khách quan mang tính quy luật, trong đó
một người thể hiện mình vừa với tư cách là đối tượng
của sự tác động, vừa với tư cách là chủ thể của hoạt
động và giao tiếp. Như thế, nhân cách không bẩm
sinh, không phải có sẵn trong các gen di truyền mà
được hình thành trong suốt quá trình sống. Nếu như
việc đưa ra một khái niệm thống nhất về nhân cách là
một vấn đề khó khăn đối với các nhà tâm lý học, thì
việc đưa ra các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự hình
thành và phát triển nhân cách lại đạt được sự thống
nhất cao. Đó là các yếu tố:
1/ Yếu tố sinh học.
2/ Yếu tố môi trường.
3/ Yếu tố giáo dục.
4/ Yếu tố hoạt động của cá nhân.
III. CÁC YẾU TỐ CHI PHỐI SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
1. Ảnh hưởng của yếu tố sinh học
Nhóm yếu tố sinh học bao gồm: Não bộ và hệ
thần kinh, gen, di truyền, khí chất, năng khiếu. Những
người theo trường phái sinh học cho rằng yếu tố bẩm
sinh di truyền có sẵn trong mỗi cá nhân từ khi cá nhân
còn là một thai nhi là nguồn gốc, động lực hình thành
nhân cách của cá nhân. Sự phát triển nhân cách
chẳng qua là sự bộc lộ dần những thuộc tính ấy. Tính
tích cực cá nhân, sự giáo dục và ảnh hưởng của môi
trường chỉ làm tăng thêm hay giảm đi những yếu tố
tiền định trước đó mà thôi. Quan điểm này là cơ sở lý
luận cho sự giáo dục tự phát. Nó là chỗ dựa cho chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, phân biệt giai cấp, coi
thường, khinh rẻ những người lao động đã tồn tại
nhiều năm liền trong lịch sử loài người.
Theo quan điểm của Tâm lý học khoa học,
tâm lý được coi là chức năng của não, não bộ là cơ sở
vật chất của tâm lý. Tất cả các hiện tượng tâm lý đều
có cơ sở sinh lý là các phản xạ có điều kiện. “Sự vận
hành của hệ thần kinh tạo thành một tiền đề không thể
thiếu đối với sự phát triển nhân cách” (Leonchiev, Hoạt
động - Ý thức - Nhân cách - NXB Giáo dục, 1989). Ở
đây cũng cần nhấn mạnh tới mối quan hệ mật thiết
giữa sinh lý và tâm lý: Hệ thống tín hiệu thứ nhất là cơ
sở của nhận thức cảm tính, tư duy cụ thể, cảm xúc cơ
thể và hệ thống tín hiệu thứ hai là cơ sở của nhận thức
lý tính, tư duy ngôn ngữ, ý thức, tình cảm, các chức
năng tâm lý cấp cao. Sự kết hợp chặt chẽ giữa hai hệ
thống tín hiệu và tương ứng là các hiện tượng sinh -
tâm lý cho thấy sự hình thành và phát triển của nhân
cách trên cơ sở tiền đề sinh học. Bên cạnh đó, khí chất
- thuộc tính phức hợp của nhân cách quy định sắc thái
và mức độ sự thể hiện ra bên ngoài các hoạt động tâm
lý bên trong của nhân cách cũng có cơ sở sinh lý là
các kiểu hoạt động của hệ thần kinh.
Ngày nay, người ta chứng minh được rằng
sinh học là yếu tố cơ sở nền tảng và không thể thiếu
được trong quá trình hình thành nhân cách. Yếu tố
bẩm sinh di truyền cùng những đặc điểm về thể chất
sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây những khó khăn
nào đó trong quá trình hoạt động. Chẳng hạn, một
người có thính giác nhanh nhạy sẽ là điều kiện thuận
lợi cho việc hình thành năng lực chơi âm nhạc hoặc
hưởng thụ âm nhạc. Các cơ quan của cơ thể và chức
năng của nó đôi khi cũng hoạt động theo nguyên tắc
bù trừ. Ví dụ: một người bị mù bẩm sinh thì cảm giác
xúc giác hoặc thính giác của họ rất phát triển.
Tuy nhiên, vai trò của các yếu tố sinh học
được nhấn mạnh ở tính chất tiền đề của chúng. Các
yếu tố tự nhiên không quy định sẵn sự phát triển nhân
cách. Luận điểm này được chứng minh bằng một số
các nghiên cứu: Những trẻ sinh đôi cùng trứng với các
phương pháp dạy học khác nhau có kết quả khác
nhau trong một số hoạt động sáng tạo (A.R.Luria,
V.N.Konhanovsky, A.N.Mirenova). Sự khác biệt về tính
cách của trẻ do vị trí nhất định của chúng trong quan
hệ xã hội quy định.
2. Ảnh hưởng của môi trường
Đánh giá về ảnh hưởng của môi trường đến
sự hình thành và phát triển nhân cách có ba loại quan
điểm khác nhau:
Thứ nhất: Phủ nhận vai trò của môi trường
(những người theo trường phái sinh vật học).
Thứ hai: Thổi phồng vai trò của môi trường xã
hội (quan điểm của thuyết nguồn gốc xã hội của sự
phát triển). Quan điểm này cho rằng, môi trường xã hội
là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển nhân
cách. Họ coi đứa trẻ như tờ giấy trắng, muốn vẽ gì lên
đó cũng được. Theo họ, môi trường xung quanh như
thế nào thì nhân cách cá nhân như thế. Bởi thế, khi
nghiên cứu nhân cách cá nhân chỉ cần phân tích cấu
trúc môi trường xã hội xung quanh là có thể hiểu được.
Thứ ba: Thừa nhận vai trò quan trọng, không
thể thiếu của môi trường đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách, nhưng không thừa nhận nó là yếu tố
quyết định.
Theo quan điểm của Tâm lý học khoa học,
nhóm yếu tố môi trường đóng vai trò là nguồn gốc và
điều kiện cho sự hình thành nhân cách. Trong đó, môi
trường vĩ mô là toàn bộ những sự kiện, hiện tượng và
đời sống xã hội trong phạm vi rộng: giai đoạn lịch sử,
các di sản văn hóa, các điều kiện xã hội quá khứ, hiện
tại và tương lai... Các điều kiện lịch sử này quy định sự
hình thành nhân cách, chiều hướng phát triển, hình
mẫu nhân cách mà xã hội yêu cầu. Những dấu ấn của
một thời kì xã hội in đậm lên nhân cách của một cá
nhân nhiều khi vượt ra ngoài sự nhận biết đơn thuần
của cá nhân đó. Chính môi trường vĩ mô quy định bản
chất xã hội và tính lịch sử của nhân cách.
Môi trường vi mô được giới hạn trong phạm vi
hẹp gần gũi với cuộc sống thường ngày: gia đình,
trường lớp, bạn bè, cộng đồng dân cư (các nhóm nhỏ
xã hội). Trong môi trường vĩ mô, các quan hệ xã hội
được cụ thể hóa, các giá trị và chuẩn mực xã hội ảnh
hưởng trực tiếp lên hành vi của cá nhân. Mỗi yếu tố
trong môi trường vi mô có vai trò nhất định trong sự
hình thành nhân cách. Gia đình là nhóm nhỏ xã hội
đặc biệt, có ảnh hưởng thường xuyên, liên tục và trực
tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Nhà
trường có vai trò chủ đạo, định hướng cho sự hình
thành và phát triển nhân cách. Đây được coi là nơi tổ
chức chuyên biệt quá trình hình thành và phát triển
nhân cách.
Một cách khác, có thể phân chia thành hai
loại: Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ảnh
hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách. Môi
trường tự nhiên bao gồm: điều kiện địa lý, khí hậu,
sông ngòi, miền, vùng... Môi trường xã hội bao gồm:
các hệ thống, thiết chế xã hội như gia đình, nhà
trường, cơ quan, đoàn thể, các tổ chức xã hội... cùng
với các phong tục tập quán, lối sống, đạo đức, chuẩn
mực...
Môi trường có ảnh hưởng nhất định đến nhân
cách cá nhân. Chúng ta có thể nhận thấy con người ở
mỗi nước khác nhau có tính cách khác nhau: người
Nhật cần cù, yêu lao động; người Đức ưa chính xác,
tiết kiệm; người Trung Quốc thâm trầm và kín đáo;
người Việt Nam thông minh, cần cù, chịu khó và rất
dũng cảm... Điều kiện địa lý, khí hậu, hoàn cảnh xã
hội, lịch sử của mỗi nước cũng như văn hóa, phong
tục tập quán đã tạo nên nét đặc trưng về tính cách cho
mỗi dân tộc. Môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn
đến nhân cách. Sự phát triển nhân cách tăng dần về
mặt số lượng cũng như chất lượng theo sự phát triển
của lứa tuổi. Sự gia nhập vào các nhóm, các tổ chức
xã hội giúp cho cá nhân ngày một trưởng thành.
Những chuẩn mực, quy tắc phương thức giao tiếp dần
dần hình thành nhân cách sống cho mỗi cá nhân sao
cho phù hợp với xã hội.
3. Giáo dục và nhân cách
Giáo dục tác động đến sự hình thành và phát
triển của nhân cách một cách có chủ định và có hệ
thống. Giáo dục trước khi tiến hành các tác động để
hình thành nhân cách đã xác định một cách rõ ràng
hình mẫu nhân cách cần đạt đến theo các yêu cầu của
xã hội. Các hình thức và phương pháp tác động cũng
được vạch ra từ trước dựa trên các cơ sở khoa học. Từ
đó, quá trình tác động để hình thành và phát triển nhân
cách là quá trình có kế hoạch được điều chỉnh, điều
khiển. Do vậy, giáo dục được coi là đóng vai trò chủ
đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách, đặc
biệt trong việc quy định xu hướng hình thành và phát
triển nhân cách.
4. Ảnh hưởng của hoạt động cá nhân
Môi trường được coi là nguồn gốc, là điều
kiện cho sự hình thành và phát triển nhân cách chứ
không quyết định trực tiếp. Trung tâm của môi trường
đó, đồng thời là người mang các tiền đề sinh học
chính là chủ thể. Hoàn cảnh tạo ra con người trong
chừng mực con người cải tạo hoàn cảnh. Do vậy nhân
tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển của
nhân cách chính là hoạt động của chủ thể. C.Mác cho
rằng sự tiếp thị một tổng thể các công cụ sản xuất
cũng là sự phát triển một cách tổng thể các năng lực
trong bản thân. Trong hoạt động, nhờ quá trình chủ thể
hóa mà chủ thể lĩnh hội được nền văn hóa nhân loại,
biến chúng thành nhân cách và cũng trong hoạt động,
nhân cách bộc lộ năng lực của bản thân với tư cách là
một chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Nếu hoạt động với đối
tượng chủ yếu giúp con người hình thành và phát triển
các năng lực của bản thân thì giao tiếp với tư cách là
một dạng đặc biệt của hoạt động lại giúp con người
lãnh hội các chuẩn mực, các giá trị xã hội, các kinh
nghiệm xã hội để hình thành các phẩm chất nhân
cách. A.N.Leonchiev chỉ rõ: Quá trình đứa trẻ lĩnh hội
những hành động đặc thù của con người diễn ra trong
giao tiếp. Thực tế hoạt động có đối tượng và giao tiếp
quyện chặt với nhau không tách biệt. Như vậy có thể
coi hoạt động nói chung bao gồm hoạt động với đối
tượng và hoạt động với người khác (giao tiếp) đóng vai
trò quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách.
Những nghiên cứu về trẻ em sinh đôi cùng
trứng và sinh đôi khác trứng được tiến hành vào cuối
thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX đã chứng minh một điều
rằng: Sự phát triển nhân cách còn phụ thuộc rất nhiều
vào hoạt động bản thân mỗi cá nhân.
Với phương pháp nghiên cứu trẻ em sinh đôi
trong nhiều năm qua của các nhà tâm lý học và sinh lý
học như T.Gardner, H.Newman, I.I.Caraep... đã chỉ ra
rằng ngay những trẻ em sinh đôi cùng trứng có đặc
điểm di truyền giống nhau, môi trường sống giống
nhau nhưng chiều hướng phát triển nhân cách ở mỗi
em lại hoàn toàn khác nhau. Điều đó chỉ có thể giải
thích được rằng hoạt động ở mỗi cá nhân khác nhau
quy định chiều hướng phát triển nhân cách khác nhau
của các cá nhân đó.
Tâm lý học mác xít đã khẳng định tính quyết
định của hoạt động cá nhân đến sự hình thành và phát
triển nhân cách.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lê nin, đặc biệt là phép biện chứng tự nhiên trong quá
trình biến đổi từ vượn thành người nhờ lao động, các
nhà tâm lý học mác xít đã khẳng định hoạt động và
phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết
định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân
cách.
Khác với các động vật khác, hoạt động của
con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội
tính cộng đồng và được thực hiện bằng những thao tác
nhất định với những công cụ nhất định.
Sự hình thành và nhân cách của mỗi người
phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo của họ ở lứa tuổi đó.
Việc lựa chọn hình thức hoạt động nào cho phù hợp
cần phải tính đến hoạt động chủ đạo. Ví dụ đối với trẻ
mẫu giáo, hoạt động chủ đạo là trò chơi đóng vai, còn
đối với học sinh phổ thông lại là hoạt động học tập.
Trong quá trình giáo dục chúng ta nên chọn lựa, tổ
chức và hướng dẫn hoạt động sao cho phù hợp và có
hiệu quả. Vai trò của người hướng dẫn, tổ chức, điều
khiển là rất quan trọng. Nó giúp định hướng cho sự
phát triển nhân cách.
Như vậy trong ba yếu tố kể trên, chúng ta
không thể xem nhẹ hay bỏ qua ảnh hưởng của bất kì
một yếu tố nào. Tuy nhiên mỗi yếu tố có những vai trò
khác nhau đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách. Yếu tố sinh học là cơ sở vật chất, là tiền đề, là
nền tảng; môi trường giữ vai trò quan trọng không thể
thiếu; còn hoạt động là yếu tố quyết định đến sự hình
thành và phát triển nhân cách.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI à Chương 6. NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
1. Khái niệm
Nhân cách được hiểu là giá trị xã hội của cá
nhân do cá nhân lĩnh hội các giá trị xã hội tạo nên. Tuy
nhiên không phải mọi nhân cách đều là những nhân
cách phù hợp hoàn toàn với hình mẫu nhân cách mà
xã hội mong muốn. Hiện tượng nhân cách có hành vi
phi xã hội không phù hợp với các chuẩn mực xã hội
trong mối quan hệ với người khác hoặc với xã hội
được gọi là sự suy thoái nhân cách. Sự biến thái nhân
cách và phá vỡ cấu trúc tâm lý của nhân cách thường
có lịch sử lâu dài bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau.
Có quan điểm cho rằng sự biến thái nhân cách có
nguồn gốc từ thời kì thơ ấu. Ngay trong những thời kì
đầu của sự hình thành nhân cách, cá nhân đã chịu
ảnh hưởng của những nhân tố không thuận lợi cho sự
phát triển nhân cách sau này. Đặc biệt trong một số
thời kì nhạy cảm trong quá trình phát triển nhân cách.
Trong sự hình thành nhân cách một cách
IV. SỰ SUY THOÁI NHÂN CÁCH
thuận lợi, môi trường xã hội xung quanh được tiếp
nhận một cách phù hợp. Cá nhân có thể lĩnh hội các
chuẩn mực xã hội và tuân thủ chúng với tư cách là một
chủ thể tích cực trong các quan hệ xã hội.
Ngược lại, với những nhân cách mà các cấu
tạo tâm lý mới mang tính tiêu cực dần được hình
thành và được củng cố ngày một vững chắc hơn.
Chúng dần làm suy thoái nhân cách, cản trở sự điều
chỉnh hành vi của cá nhân một cách lành mạnh. Các
cấu tạo tâm lý này ngày một phát triển một cách độc
lập, hình thành xu hướng vận động riêng của chúng.
Hình thành các cấu trúc nhân cách bất bình thường và
những hình thức sai lệch của các mặt khác của nhân
cách. Càng ngày, sự sai lệch càng rõ rệt. Các thuộc
tính bất bình thường ngày càng bắt rễ vào hệ thống
nhân cách và tiếp tục phát triển ngay cả khi các điều
kiện tạo ra chúng không còn tiếp tục tác động nữa.
2. Các mức độ suy thoái nhân cách
Có nhiều mức độ suy thoái nhân cách khác
nhau với các biểu hiện ở các thuộc tính của nhân cách
như xu hướng nhân cách, tính cách. Căn cứ vào tính
chất không phù hợp với các chuẩn mực xã hội có thể
có một số mức độ như sau:
- Mức độ thấp nhất là ở nhân cách hình thành
một số các nét tính cách không phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức, các giá trị xã hội như: tính tham lam, tính
lừa dối, tính độc ác. Các loại tính cách đó đi ngược lại
mong muốn của xã hội làm giảm giá trị của nhân
cách. Tuy vậy, mức độ này thường không được nhắc
đến như là sự suy thoái nhân cách mà chỉ được hiểu
đơn giản là các nét tính cách tiêu cực. Cũng chính vì lẽ
đó, dạng suy thoái nhân cách này không được chú ý
nhiều trong đời sống, thậm chí có những quan niệm
cho rằng những nét tính cách như vậy là những điều
vốn có ở cá nhân và có thể chấp nhận ở một mức độ
nhất định. Sự hình thành và bộc lộ những nét tính cách
đó không chỉ đơn giản có từ thơ ấu mà nó còn có thể
xuất hiện trong quá trình sống, khi một nhân cách đã
tương đối ổn định. Trong sự thay đổi có tính bước
ngoặt của điều kiện sống, hoàn cảnh sống các nét tính
cách này có thể xuất hiện và bộc lộ rõ ràng.
- Mức độ thứ hai của sự suy thoái nhân cách
là các nhân cách có các hành vi lệch chuẩn mang tính
hệ thống và thường xuyên: lừa đảo, hành vi tội phạm,
tệ nạn xã hội... Các nhân cách này có các hành vi đi
ngược lại các chuẩn mực xã hội. Mặc dù cá nhân vẫn
nhận thức được tính phi đạo đức của các hành vi của
bản thân nhưng lại coi các hành vi đó là hợp lý.
- Mức độ thứ ba: rối nhiễu nhân cách. Đây là
hiện tượng kết hợp một số nét nhân cách lệch lạc rõ
rệt với chuẩn mực văn hóa ảnh hưởng đến toàn bộ đời
sống và hoạt động của nhân cách. Có thể đề cập đến
nhiều loại rối nhiễu nhân cách như rối nhiễu chống đối
xã hội - Cá nhân đặt bản thân trong sự đối lập với xã
hội và có các hành vi chống đối xã hội một cách có ý
thức. Mức độ suy thoái này thực chất đã làm mất nhân
cách, các giá trị xã hội được nhập tâm hóa chuyển
thành các phản giá trị. Sự tồn tại của cá nhân được
khẳng định bằng cách đi ngược lại các yêu cầu của xã
hội, rối nhiễu dạng hoang tưởng, rối nhiễu ái kỷ, rối
nhiễu xa lánh xã hội, rối nhiễu đóng kịch... Các rối
nhiễu này có thể được xác định dựa trên các tiêu chí
đánh giá của bộ tiêu chí ICD của Tổ chức Y tế Thế giới
hoặc bộ tiêu chí DSM của Hiệp hội Tâm thần Mỹ.
3. Các nguyên nhân suy thoái nhân cách
Có nhiều nguyên nhân làm nhân cách suy
thoái. Song chủ yếu là các nguyên nhân về mặt xã hội.
Trong đó có 3 nguyên nhân chủ yếu sau:
Đó là khi cá nhân tham gia vào một nhóm xã
hội, trong đó các giá trị mà cá nhân đã chấp nhận và
tuân thủ trở nên ít có giá trị. Hệ thống các giá trị, các
chuẩn mực không được tôn trọng. Thậm chí các giá trị
được thừa nhận chung trong xã hội không còn ý nghĩa.
Môi trường sống trực tiếp tạo điều kiện cho các nét tính
cách tiêu cực hình thành hoặc bộc lộ rõ hơn. Đặc biệt,
khi có điều kiện để củng cố, nó ngày càng trở nên chi
phối hành động của cá nhân.
Cá nhân có thể rơi vào mâu thuẫn giữa
những nhu cầu, mong muốn cá nhân với các vai trò
của xã hội mà cá nhân phải đảm nhiệm hay với sự
hạn chế của các điều kiện có thể giúp cá nhân thỏa
mãn các nhu cầu đó. Do không thực hiện được các vai
trò của mình, hoặc không thỏa mãn được nhu cầu, cá
nhân có thái độ chống đối và có các hành vi lệch
chuẩn. Đối với các cá nhân này, các giá trị đã lĩnh hội
chưa đủ mạnh để ngăn chặn những hành vi lệch
chuẩn. Bên cạnh đó các tác động từ bên ngoài có các
tác động theo xu hướng xô đẩy cá nhân thực hiện các
hành vi lệch lạc.
Nguyên nhân thứ ba của sự suy thoái nhân
cách là do cá nhân bị hủy hoại các chức năng tâm lý.
Nhân cách bị suy thoái do nguyên nhân bệnh lý. Cá
nhân bị bệnh tâm thần và không còn ý thức nên cũng
không còn nhân cách. Trường hợp này phải có sự can
thiệp của các chuyên gia y tế.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI à Chương 6. NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
1. Khái niệm kiểu nhân cách
Kiểu nhân cách là một mẫu người bao gồm
những đặc điểm điển hình về mặt xã hội chung cho
một lớp hay một loại người. Việc phân kiểu nhân cách
mang tính mô tả. Nó cho phép hình dung một cách
chung nhất về một nhóm nhân cách trong xã hội giữa
nhiều kiểu nhân cách khác nhau.
- Đây là một mô hình bao gồm các đặc điểm
xã hội của con người do các nhà nghiên cứu phác họa
lên để nghiên cứu. Trong thực tế, con người không
hoàn toàn trùng khớp lên các mô hình này mà mô hình
này có tính đại diện cho một số người trong cộng
đồng.
- Các đặc điểm (hay tiêu chuẩn) được lấy làm
căn cứ phân kiểu người thường là các đặc điểm xã hội
như: thái độ đối với công việc, với những giá trị trong xã
hội. Các kiểu nhân cách này, trong một xã hội thường
không đối lập mà có nét tương đồng khác nhau ở thái
V. KIỂU NHÂN CÁCH XÃ HỘI
độ ưu thế nổi bật đối với một giá trị nào đó: ham địa vị,
ham tiền tài.
Ngoài ra vẫn còn những nét theo đuổi những
giá trị chung của xã hội song không như nhau.
Điều lưu ý phải phân biệt hai loại kiểu nhân
cách: kiểu nhân cách cơ bản và kiểu nhân cách lý
tưởng:
+ Kiểu nhân cách cơ bản: là kiểu nhân cách
có tính chất đại diện cho cùng tầng xét về mặt thống
kê. Nó thường xuất hiện, vốn có ở phần lớn các thành
viên trong cộng đồng.
+ Kiểu nhân cách lý tưởng là mẫu người cần
xây đựng cho một giai đoạn lịch sử nhất định.
Giữa hai loại này bao giờ cũng có khoảng
cách, thậm chí có khi đối lập nhau. Nhưng cũng có thể
kiểu nhân cách cơ bản đang tiến tới kiểu nhân cách lý
tưởng.
2. Sự khác nhau giữa hai khái niệm “nhân
cách” và “kiểu nhân cách”.
- Khái niệm “nhân cách” ngoài những nét đặc
điểm, đặc tính điển hình về mặt xã hội (có ý nghĩa xã
hội) còn bao hàm cả những nét, đặc điểm, đặc tính cá
biệt nữa. Do đó nói tới nhân cách là nói tới cái chung
và cả cái riêng cá biệt của một con người cụ thể. Nói
khác đi tâm lý không phải của bất kì cá nhân nào cũng
đều là kiểu tâm lý là kiểu nhân cách xét về mặt giai cấp
- xã hội.
Ta hiểu rằng nhân cách tất nhiên mang bản
chất xã hội lịch sử nhưng Tâm lý học nhân cách coi
nhân cách có tính chất chung hơn, trừu tượng hơn về
mặt cấu trúc nhưng không bỏ qua những nét đặc điểm
cá biệt.
Còn nói đến kiểu nhân cách là nói các điển
hình phi cá tính, phi cá nhân, xem các điển hình không
phải là cái đơn nhất mà là một cái gì chung cho một
giai cấp, một tầng lớp, một xã hội. Đó là hình ảnh thực,
“tập trung hóa” của các cộng đồng người.
3. Phân biệt kiểu nhân cách xã hội và nhân
vật điển hình của nghệ thuật
Nhân vật điển hình của nghệ thuật là nhân vật
được điển hình hóa, có những đặc điểm điển hình
được mô tả dưới hình thức cảm tính trực quan. Khái
quát từ nhiều người có thực trong thực tế nhưng nó
còn là một cá tính nữa với nghĩa là một cái đơn nhất
không có người thứ hai như vậy.
Như vậy kiểu nhân cách không có nét chung
với nhân vật điển hình mà nó có những nét tiêu biểu
cho một kiểu nhân cách xã hội nhưng hai khái niệm
này khác nhau.
Vì Tâm lý học xã hội làm việc với các kiểu có
tính chất đại diện ít nhất có tính chất phổ biến, trung
bình xét về mặt thống kê toán học theo quy luật số lớn.
Tóm lại, điển hình nghệ thuật bao giờ cũng
hiện lên với vẻ đơn nhất của một nhân vật, có xương,
nhưng không có tính chất đại diện xét về số lớn mà nó
có tính chất cá biệt nhiều hơn.
Song Tâm lý học xã hội phải khai thác nhiều
ở chỗ nhân vật điển hình trong nghệ thuật vì chính nó
phản ánh phần nào các kiểu nhân cách của một giai
đoạn lịch sử nhất định. Đó là nguồn tài liệu phong phú
của những công trình nghiên cứu vấn đề này.
4. Ví dụ về nghiên cứu kiểu nhân cách xã hội
Từ những năm 70 của thế kỉ XX, Olsanxki đưa
ra 8 kiểu nhân cách trên cơ sở xác định thái độ ưu thế
của mỗi kiểu đối với một giá trị nào đó trong xã hội
Nga hồi bấy giờ. Kết quả nghiên cứu như sau:
1. Vlađimir: tiến nhanh từ một công nhân bình
thường thành một cán bộ phụ trách cỡ lớn. Chưa đầy
40 tuổi mà Vlađimir đã chỉ huy hàng mấy trăm người
đang sản xuất một loại sản phẩm quan trọng. Cấp
lãnh đạo thừa nhận năng lực của anh ta, có cơ sở để
chờ đón anh ta sẽ tiếp tục lên cấp.
Đặc trưng của người này là địa vị, chức vụ.
2. Mátvây: công việc anh làm không mang lại
tiếng tăm và cơ hội thăng chức nhưng tiền lương khá.
Mátvây không từ chối việc gì, không tiếc thời gian làm
việc nên có nguồn thu nhập chắc chắn. Anh đã mua
được ôtô con và đang giành tiền mua biệt thự ở ngoại
ô.
Đặc trưng của người này là giá trị tiền, của
cải.
3. Vaxily: không chú ý tính toán đến lương
bổng và những tiện nghi sinh hoạt, được làm việc ở
những nơi nào khó khăn nhất có lợi ích nhất và cần
thiết nhất là thấy thích nhất, đẹp nhất, tự hào nhất.
Vaxily và những đồng chí của mình đã cùng nhau vượt
qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Đặc trưng của người này là ham việc, tinh
thần công tác cao.
4. Nicolai: công việc của anh ta chẳng có gì là
anh hùng và cũng chẳng hứa hẹn tăng thêm thu nhập
công việc nhàn hạ, không có gì là đột xuất, vất vả song
điều độ và bình lặng có một căn hộ riêng xinh xắn,
trang trí bày biện đẹp mắt.
Đặc trưng của người này là an phận, bình
lặng.
5. Paven: sống quan tâm nhiều đến số phận
của người khác, giúp đỡ nhiều khi người họ gặp khó
khăn có lương tâm, tốt bụng ân cần, hồ hởi. Khi đấu
tranh với những khuyết điểm của người khác có lúc
vấp váp với một vài cán bộ lãnh đạo khiến cho anh ta
chậm được đề bạt, tăng lương.
Đặc trưng của người này là đấu tranh cho
chân lý, lẽ phải.
6. Anđrây: còn trẻ nhưng đã nổi tiếng, ai cũng
biết đến tên tuổi của anh ta. Anh ta thường xuyên xuất
hiện trên báo chí, vô tuyến truyền hình. Anh ta không
ham tiền, thích biểu hiện (khoe) tài năng của mình
trước mọi người.
Đặc trưng của người này là ham tiếng tăm,
danh vọng.
7. Kirin: có công việc lý thú nên dồn hết sức
mình vào đó, không có thời gian cho cuộc sống cá
nhân và tiêu khiển; thích nghiên cứu một cách tự do,
suy nghĩ độc đáo và táo bạo; ít người biết đến nhưng
được thừa nhận là một chuyên gia cỡ lớn.
Đặc trưng của người này là thích sáng tạo,
thích ứng với khoa học.
8. Côngxtăngtin: không gắn bó với một nghề
nghiệp nhất định nào, làm ăn thu nhập thất thường, có
khi không còn đồng tiền nào. Côngxtăngtin tự đánh giá
mình cao, có xu hướng thích đi lang thang, phiêu bạt
nay đây mai đó có nhiều thời gian rảnh rỗi để tiêu
khiển; thích đàn đúm “vui vẻ, trẻ trung”. Khi người ta
hỏi bao giờ thì ổn định cuộc sống, anh ta trả lời rằng:
“về già cũng chưa muộn”.
Đặc trưng của người này là ham chơi, không
có chí hướng
Khi nghiên cứu hơn 200 người gồm có công
nhân, sinh viên, nghiên cứu sinh nhân viên hàng
không... thì được kết quả như sau:
- Kiểu Paven là kiểu được đánh giá cao nhất,
sau đó đến kiểu Vaxili, rồi đến Kirin - đến Vlađimir, bị
lên án nhiều nhất là kiểu Côngxtăngtin, rồi đến Matvây,
Nicôlai và Anđrây.
Thái độ đối với các kiểu nhân cách nêu trên ở
Nam và Nữ có sự khác biệt.
- Nữ thích kiểu Vaxili nhưng cũng kém cương
quyết hơn trong việc phủ định và bác bỏ kiểu Mátvây.
- Đặc biệt số nữ được nghiên cứu tỏ ra lo
lắng thương hại số phận Paven và cần lưu ý một số
phụ nữ tỏ ra không hiểu, không thông cảm với kiểu
Kirin: không thể tưởng tượng được rằng có người
quên gia đình, quên cuộc sống cá nhân: những mặt
khác thì Vaxili vẫn được đánh giá cao nhất.
Kết luận: Nhìn chung đối với nữ, vấn đề gia
đình và xây dựng quan hệ gia đình là vấn đề hết sức
thiết yếu và điều đó không phải chỉ do nguyên nhân
sinh vật mà chủ yếu do nguyên nhân xã hội.
Lòng yêu đời về cơ bản giữa nam và nữ
không khác nhau nhưng nghiên cứu cho thấy tính
năng động (kể cả việc mình tin rằng sẽ đạt được mục
đích này), nữ thấp hơn nam tới gần 2 lần (vấn đề có
tính chất lịch sử).
Các kiểu nhân cách này là ở Liên Xô trong
những năm 1960 đặt ra cho ta suy nghĩ: Cần và nên
nghiên cứu một số kiểu người hiện nay trong xã hội ta
và nên tham khảo tài liệu của Nga nhưng phải nghiên
cứu trên thực tế Việt Nam.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI à Chương 6. NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
1. Khái niệm quan hệ liên nhân cách
a) Quan hệ xã hội
Nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội,
cũng có nghĩa là nghiên cứu cá nhân trong các nhóm,
trong các quan hệ xã hội. Nói cách khác là nghiên cứu
cá nhân trong hệ thống chung các mối quan hệ xã hội,
trong một số “ngữ cảnh xã hội”. “Ngữ cảnh” này bao
gồm hệ thống các mối quan hệ thực của nhân cách
với thế giới khách quan. Xác nhận các mối quan hệ có
nghĩa là thực hiện nguyên tắc chung về phương pháp
luận - nghiên cứu con người trong sự liên hệ với môi
trường xung quanh. Nhưng nội dung, mức độ các mối
quan hệ của con người với thế giới khách quan lại rất
khác nhau bởi vì mỗi cá nhân lại là chủ thể của rất
nhiều mối quan hệ khác nhau. Trong sự đa dạng đó
có thể có thể chia ra làm hai loại mối quan hệ: quan
hệ xã hội và quan hệ “tâm lý” của nhân cách - quan hệ
liên nhân cách.
VI. QUAN HỆ LIÊN NHÂN CÁCH
Cấu trúc quan hệ xã hội được bộ môn Xã hội
học nghiên cứu. Trong lý thuyết của khoa học, Xã hội
học đã đưa ra rất nhiều loại quan hệ xã hội: quan hệ
kinh tế, quan hệ pháp quyền, quan hệ chính trị... Tổng
hoà các mối quan hệ này tạo nên quan hệ xã hội. Đặc
trưng của quan hệ xã hội được biểu hiện ở chỗ, trong
các mối quan hệ này không chỉ đơn giản là cá nhân
“gặp gỡ” với cá nhân hay cá nhân “quan hệ” với cá
nhân khác mà những cá nhân này với tư cách là
những người đại diện cho các nhóm xã hội nhất định
(đại diện cho giai cấp nghề nghiệp, các tổ chức chính
trị, đảng phái...). Do vậy, có thể hiểu: quan hệ xã hội là
quan hệ giữa các cá nhân với tư cách đại diện cho một
nhóm xã hội, do xã hội quy định một cách khách quan
vai trò của mỗi cá nhân trong nhóm. Ví dụ: thầy - trò;
người mua - người bán; thủ trưởng - nhân viên.
Đặc trưng cơ bản của quan hệ xã hội là các
mối quan hệ này được thiết lập không phải dựa trên
nền tảng có thiện cảm hay không thiện cảm của các cá
nhân mà dựa trên cơ sở về vị trí nhất định của mỗi cá
nhân trong xã hội, trên cơ sở những chức năng, hành
vi mà cá nhân phải thực hiện khi đứng ở vị trí đó (gọi là
vai xã hội). Bởi vậy, các mối quan hệ này được xã hội
quy định một cách khách quan. Đây là mối quan hệ
giữa các nhóm xã hội hay giữa các cá nhân với tư cách
là những đại diện các nhóm xã hội đó. Điều này nói
lên rằng quan hệ xã hội không có tính bản sắc. Bản
chất của các mối quan hệ này không nằm trong sự tác
động qua lại giữa các nhân cách mà nằm trong sự tác
động qua lại giữa các vai trò xã hội.
Trong thực tế, mỗi cá nhân đảm nhiệm không
chỉ một vai trò mà là nhiều vai xã hội: Họ có thể là một
giáo viên, một người bố, là một thành viên một câu lạc
bộ, là một trưởng họ... Có những vai xã hội được quy
định trước cho con người từ khi mới sinh ra (ví dụ là
nam hay nữ), những vai xã hội khác được hình thành
trong cuộc sống. Mặc dù vậy, bản thân vai xã hội không
quyết định hoạt động và hành vi của mỗi người mà tất
cả những điều đó phụ thuộc vào nhận thức của cá
nhân và sự nhập vai của cá nhân đó. Sự nhập vai
mang màu sắc cá nhân rõ rệt vì được xác định bằng
hàng loạt các đặc điểm tâm lý cá nhân của người
mang vai đó. Bởi vậy các quan hệ xã hội, mặc dù thực
chất là các quan hệ theo vai, không phải là quan hệ
nhân cách, nhưng trong thực tế, trong mỗi sự biểu
hiện cụ thể vẫn có “sắc thái nhân cách”. Trở thành
nhân cách trong hệ thống các quan hệ xã hội, con
người nhất định phải tham gia vào quá trình tác động
qua lại, vào quá trình giao tiếp vì thông qua các quá
trình đó những đặc tính cá nhân nhất định được biểu
hiện. Bởi vậy mỗi vai trò xã hội không có nghĩa là sự
định trước tuyệt đối của hành vi, mà nó thường xuyên
giữ lại một vài “phạm vi cơ hội” cho người thực hiện.
Ta có thể ước lệ gọi đó là “phong cách nhập vai”.
Chính phạm vi này trở thành nền tảng để xây dựng các
quan hệ khác bên trong của hệ thống quan hệ xã hội -
quan hệ liên nhân cách.
b) Khái niệm, vai trò và bản chất của quan
hệ liên nhân cách
Khi tham gia vào các quan hệ với người khác,
cá nhân, một mặt có thể thực hiện vai xã hội do mối
quan hệ đó quy định. Khi đó cá nhân đang tiến hành
mối quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân có thể quan hệ
với người khác không phải trên cơ sở của vai xã hội
mà chủ yếu dựa trên cơ sở của tình cảm, xúc cảm của
quan hệ mang tính tâm lý. Khi đó cá nhân đang thực
hiện quan hệ liên nhân cách.
Quan hệ liên nhân cách là quan hệ cá nhân
với cá nhân trên cơ sở tâm lý, tình cảm và sự đồng
nhất với nhau ở mức độ nhất định.
Như vậy, nói đến quan hệ liên nhân cách là
nói đến quan hệ mang tính người - người, nói đến nội
dung tâm lý của quan hệ đó chứ không nói đến nội
dung “công việc” của quan hệ đó.
c) Quan hệ giữa quan hệ xã hội và quan hệ
liên nhân cách
Quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân cách
gắn bó rất chặt chẽ với nhau. Trong Tâm lý học xã hội
có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề xác định
vị trí của quan hệ liên nhân cách với hệ thống quan hệ
xã hội. Đôi khi quan hệ liên nhân cách được coi như
ngang hàng với quan hệ xã hội, một thành phần tạo
nên các quan hệ xã hội, hoặc ngược lại quan hệ liên
nhân cách ở mức độ cao hơn quan hệ xã hội, hay
quan hệ liên nhân cách là sự phản ánh trong ý thức
của quan hệ xã hội...Theo quan điểm khác, bản chất
của quan hệ liên nhân cách có thể được hiểu đúng
nếu như chúng không đặt ngang hàng với quan hệ xã
hội mà được nhìn nhận như một hàng quan hệ đặc
biệt xuất hiện bên trong mỗi loại quan hệ xã hội và nó
không thể nằm ngoài các quan hệ này (ví dụ như “thấp
hơn”, “cao hơn” hay “bên cạnh”).
Có thể có sơ đồ biểu diễn hai loại quan hệ
này như sau:
Quan hệ liên nhân cách nằm trong quan hệ
xã hội, chúng đan xen vào nhau. Bất kì một quan hệ xã
hội nào cũng bao hàm quan hệ liên nhân cách ở một
mức độ nhất định. Ngược lại bất kì một quan hệ liên
nhân cách nào cũng bao hàm một quan hệ xã hội nhất
định. Ví dụ, trong quan hệ tình yêu, thoạt nhìn đây là
quan hệ có vẻ như là quan hệ liên nhân cách đơn
thuần nhưng thực tế nó cũng không thể thoát khỏi một
kiểu quan hệ xã hội (một vai trò xã hội là nam giới và
vai kia là nữ giới). Sự tồn tại quan hệ liên nhân cách
bên trong các hình thức khác nhau của quan hệ xã hội
như là sự thực hiện các quan hệ trong hoạt động của
các nhân cách cụ thể, trong các hoạt động giao tiếp và
sự tác động qua lại. Trong quá trình thực hiện đó, mối
quan hệ giữa con người với con người (trong đó có
môi quan hệ xã hội) một lần nữa được tái tạo lại. Hay
nói một cách khác, trong toàn bộ tiến trình vận hành hệ
thống khách quan các quan hệ xã hội có sự hiện diện
của các yếu tố thuộc về các cá nhân. Chính vì vậy ở đây
có sự giao thoa giữa quan hệ xã hội và quan hệ liên
nhân cách.
Bản chất quan hệ liên nhân cách khác với
bản chất quan hệ xã hội được thể hiện ở nét đặc trưng
quan trọng: quan hệ liên nhân cách được thiết lập trên
nền tảng xúc cảm, tình cảm. Điều đó có nghĩa là
những quan hệ liên cách đó xuất hiện và hình thành
trên nền tảng những tình cảm nhất định nảy sinh ở con
người trong mối quan hệ giữa con người với con
người. Chính vì vậy quan hệ liên nhân cách được xem
như là nhân tố của bầu “không khí tâm lý” trong nhóm.
2. Các yếu tố chi phối quan hệ liên nhân
cách
a) Giao tiếp trong hệ thống quan hệ liên
nhân cách
Không thể có quan hệ người - người (bao
hàm cả quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân cách) nói
chung nếu thiếu giao tiếp. Giao tiếp là phương tiện là
công cụ để thực hiện các quan hệ đó. Do vậy, giao tiếp
có một vị trí trung tâm trong hệ thống phức tạp các
quan hệ của con người. Hiểu chung nhất, giao tiếp
như là sự tác động qua lại giữa hai hay nhiều người
để trao đổi thông tin, nhận thức hay tình cảm. Trong
cấu trúc của giao tiếp có những phương diện sau: 1)
Sự gắn kết, thành lập cộng đồng; 2) Sự trao đổi thông
tin; 3) Sự hiểu biết lẫn nhau. Cả ba phương diện này
của giao tiếp đều tác động mạnh mẽ đến quan hệ liên
nhân cách.
Giao tiếp là điều kiện cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người. Nó vừa là phương thức
phát triển cá nhân vừa là phương thức để thống nhất
các cá nhân. Cần đặc biệt nhấn mạnh ý tưởng rằng,
trong giao tiếp, cá nhân lĩnh hội các chuẩn mực, các
giá trị xã hội, đồng thời biểu hiện sự gắn bó tình cảm,
sự ghét bỏ, chối từ hay đơn giản là thờ ơ, lãnh đạm
đối với các cá nhân khác. Cũng trong giao tiếp, các
định hướng giá trị của cá nhân có thể xích gần lại với
định hướng giá trị của cá nhân khác hay theo chiều
ngược lại là phân hóa rõ ràng hơn. Chính điều này tác
động đến quan hệ liên nhân cách.
Hai hàng quan hệ của con người - quan hệ xã
hội và quan hệ liên nhân cách được bộc lộ và thực
hiện chính trong giao tiếp. Vì vậy có thể nói, nguồn gốc
khởi thủy của giao tiếp được bắt nguồn từ hoạt động
trong cuộc sống của cá nhận. Giao tiếp là thực hiện
toàn bộ hệ thống các quan hệ của con người. Các mối
quan hệ đa dạng của con người chỉ có thế thực hiện
trong giao tiếp. Xã hội loài người không thể tồn tại nếu
không có giao tiếp. Nó vừa như một phương thức
thống nhất các cá nhân vừa như là một phương thức
phát triển các cá nhân đó. Chính vì vậy giao tiếp cùng
một lúc thực hiện hai nhiệm vụ: vừa thực hiện quan hệ
xã hội và vừa thực hiện quan hệ liên nhân cách.
Mỗi loại quan hệ vận hành trong các hình thức
đặc trưng của giao tiếp. Giao tiếp với tư cách thực hiện
quan hệ liên nhân cách được nghiên cứu rất nhiều
trong Tâm lý học xã hội. Giao tiếp liên nhân cách được
nảy sinh từ hoạt động cùng nhau của con người. Vì
vậy, nó được thực hiện trong các quan hệ liên nhân
cách đa dạng, có nghĩa là nó được hình thành trong
trường hợp khi quan hệ giữa con người với con người
mang tính tích cực và ngay cả khi quan hệ đó mang
tính tiêu cực.
Giao tiếp khi thực hiện các quan hệ xã hội là
giao tiếp giữa các nhóm hay các cá nhân như là đại
diện của các nhóm xã hội. Trong trường hợp này hoạt
động giao tiếp cần thiết phải được diễn ra thậm chí
ngay cả khi có sự đối kháng giữa các nhóm. Trong tác
phẩm của mình, Mác đã viết rằng: giao tiếp là người
bạn đồng hành tuyệt đối của lịch sử nhân loại. Theo
Lêônchiev, giao tiếp cũng là người bạn đồng hành
tuyệt đối trong hoạt động hàng ngày, trong sự tiếp xúc
hàng ngày của con người. Như vậy, chúng ta có thể
nghiên cứu lịch sử thay đổi các hình thức của giao tiếp
trong phạm vi phát triển xã hội cùng với sự phát triển
các quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị và các quan hệ
xã hội khác. Với tư cách là người đại diện cho một số
nhóm xã hội, con người giao tiếp với đại diện của
nhóm xã hội khác và cùng một lúc đã thực hiện được
hai loại quan hệ: quan hệ xã hội và quan hệ nhân
cách. Ví dụ, người nông dân khi bán sản phẩm của
mình ngoài chợ và nhận được một số tiền, số tiền này
như một công cụ cần thiết của giao tiếp trong hệ thống
quan hệ xã hội. Mặt khác, người nông dân này khi bán
hàng đã bộc lộ những đặc điểm tâm lý riêng của mình,
tác động qua lại với khách hàng hay nói cách khác là
chính bằng nhân cách của mình để giao tiếp với khách
hàng.
b) Những yếu tố tâm lý xã hội
Với tư cách là quan hệ tâm lý giữa các cá
nhân, quan hệ liên nhân cách chịu sự tác động của
một loạt các yếu tố tâm lý xã hội. Đó là sự gần gũi giữa
các cá nhân, sự tương tác và hình ảnh “cái tôi” của các
cá nhân.
Sự gần gũi giữa các cá nhân bao hàm sự
gần gũi về địa lý và về tâm lý. Sự gần gũi về địa lý
thường tạo cơ hội cho sự giao tiếp thường xuyên giữa
các cá nhân, từ đó làm nảy sinh sự hiểu biết lẫn nhau,
sự gắn bó và đồng nhất lẫn nhau ở mức độ nhất định,
đặc biệt trong các trường hợp các cá nhân đó cùng ở
trong môi trường lạ, không quen thuộc. Sự gần gũi về
địa lý càng gần thì càng tạo điều kiện cho việc hình
thành nhiều quan hệ liên nhân cách. Sự gần gũi về địa
lý còn tạo ra những sự tương đồng nhất định về tâm lý
giữa các cá nhân trong cùng một cộng đồng.
Sự gần gũi giữa các cá nhân về tâm lý trong
Tâm lý học xã hội thường được gọi là sự tương hợp
tâm lý. Sự tương hợp tâm lý có thể hiểu là sự giống
nhau của các đặc điểm tâm lý của các cá nhân và sự
thích ứng lẫn nhau dễ dàng giữa các cá nhân. Sự
tương hợp tâm lý về thái độ, sở thích, về quan điểm, về
cách thức ứng xử... là điều kiện thuận lợi cho sự hình
thành các quan hệ liên nhân cách. Các yếu tố đó có
thể giúp quan hệ liên nhân cách trở nên gắn bó chặt
chẽ hơn. Sự tương hợp tâm lý tạo ra sự hài hòa trong
quan hệ mà các cá nhân không cần phải điều chỉnh
nhiều để thích ứng với cá nhân khác. Đây được coi là
tiền đề tốt cho một quan hệ liên nhân cách bền chặt.
Các cá nhân có xu hướng tìm kiếm và thiết lập quan
hệ với các cá nhân khác giống mình. Điều này lại được
giải thích bằng cơ chế đồng nhất hóa và nhu cầu được
khẳng định bản thân của cá nhân trong đời sống xã
hội. Sự giống nhau giữa một số cá nhân tạo điều kiện
cho cá nhân cảm thấy sự tự tin, tôn trọng vào bản thân,
thúc đẩy cá nhân quan hệ tích cực hơn với các cá nhân
giống mình. Tuy nhiên, trong Tâm lý học xã hội cũng
có những ý kiến ngược lại cho rằng không chỉ sự
tương hợp tâm lý giúp quan hệ liên nhân cách có thể
tạo ra và làm tăng cường quan hệ liên nhân cách mà
ngay cả sự khác biệt cũng có vai trò nhất định trong
việc tạo ra quan hệ liên nhân cách. Không ít khi, sự
khác biệt lại tạo ra sự cuốn hút các đối tượng khác
trong quan hệ liên nhân cách.
Quan hệ liên nhân cách diễn ra trên cơ sở sự
tương tác giữa các cá nhân. Tương tác được hiểu là
sự tác động lẫn nhau giữa các cá nhân nhằm thực
hiện những mục đích nhất định nào đó. Trong quá
trình tương tác, các cá nhân nằm trong sự tác động
qua lại trực tiếp, trao đổi thông tin, điều chỉnh, phối
hợp hành động với nhau, nhận thức lẫn nhau. Chính
trong quá trình này, các đặc điểm tâm lý của cá nhân
được bộc lộ, biểu hiện ra bên ngoài và được các cá
nhân khác nhận biết. Tính chất của sự tương tác có
thể ảnh hưởng đến quan hệ liên nhân cách. Có hai
loại tương tác chính: hợp tác và cạnh tranh. Mỗi loại có
tính chất riêng. Hợp tác là sự tương tác theo chiều
hướng phối hợp hành động, giúp đỡ lẫn nhau trong
hoạt động. Hợp tác có thể tạo quan hệ liên nhân cách
tốt khi các cá nhân tham gia vào quan hệ đó tích cực
và thiện chí. Ngược lại, nếu các cá nhân ỷ lại, bị động,
sự tương tác sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn.
Cạnh tranh là loại tương tác giúp cá nhân phát huy tốt
nhất tiềm năng của mình, bộc lộ rõ rệt bản thân. Tuy
nhiên cạnh tranh với mục đích tiêu cực có thể làm hủy
hoại quan hệ liên nhân cách.
Hình ảnh “cái tôi” của mỗi cá nhân là một cấu
trúc tâm lý, là biểu tượng của cá nhân về chính bản
thân, hình thành nhờ quá trình tự nhận thức, tự đánh
giá bản thân. Cái tôi là hạt nhân của hệ thống điều
khiển của nhân cách. Nó chi phối thái độ, hành vi của
con người trong các quan hệ xã hội. Trong quá trình
hoạt động với người khác cái tôi được thể hiện ở 5
phương diện: tính đồng nhất, tính ổn định, quá trình tự
ý thức, tự đánh giá về bản thân và ý thức xã hội (theo
Shibutani). Tính đồng nhất thể hiện ở hành vi, ứng xử
của một cá nhân. Trong cùng một tình huống, một thời
điểm, một cá nhân không có những cách ứng xử trái
ngược nhau. Cá nhân lựa chọn và hành động theo
một lập trường nhất định. Bên cạnh đó, cái tôi tương
đối ổn định, nó không dễ dàng thay đổi khi cá nhân
thay đổi vai xã hội của mình. Do vậy, xác định được vị trí
của bản thân trong các quan hệ với người khác đóng
vai trò to lớn đối với việc điều chỉnh quan hệ liên nhân
cách. Bên cạnh đó, chính nhờ các quan hệ với người
khác, cá nhân có thể hình thành cái tôi ngày càng
chính xác hơn.
HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ
GIÁO DỤC:
Các tri thức tâm lý học xã hội về nhân cách
giúp nhận biết các yếu tố chi phối sự phát triển nhân
cách, từ đó tác động nhằm phát triển nhân cách của
sinh viên trong hoạt động giáo dục. Đồng thời, dựa
trên các kiểu nhân cách để có những cách thức ứng xử
phù hợp trong quan hệ với sinh viên. Trong hoạt động
dạy học và giáo dục cần chú ý:
- Tạo điều kiện cho sự phát triển nhân cách
lành mạnh ở sinh viên, giúp sinh viên có được sự
thích ứng tốt nhất với hoạt động học tập hình thành
nghề nghiệp thông qua việc tổ chức nhóm, tổ chức
môi trường hoạt động tích cực, phát huy những điểm
mạnh, tính chủ động của sinh viên.
- Phân loại và nhận biết các kiểu nhân cách
khác nhau ở sinh viên. Việc đó giúp giảng viên có thể
dự đoán được các chiều hướng hành vi ở sinh viên,
đồng thời có khả năng dự kiến các tác động hay cách
thức ứng xử phù hợp với các kiểu nhân cách. Bên
cạnh đó, việc chỉ ra các hình mẫu của các kiểu loại
nhân cách xã hội giúp dự đoán và tác động đến sự
thích ứng của sinh viên với các tình huống xã hội.
- Chú ý đến sự tác động và các yếu tố chi phối
sự hình thành quan hệ liên nhân cách trong quá trình
tiến hành các quan hệ xã hội với sinh viên. Một mặt có
thể xây dựng quan hệ liên nhân cách tích cực, mặt
khác có ý thức thoát khỏi sự chi phối của các quan hệ
liên nhân cách trong quá trình vận hành các quan hệ
xã hôi.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG VI
1. Nhân cách là gì? Có những yếu tố nào ảnh
hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách? Vai
trò của các yếu tố đó?
2. Có các thành phần nào tạo nên cấu trúc
của nhân cách?
3. Thế nào là kiểu nhân cách xã hội? Ý nghĩa
của việc nghiên cứu kiểu nhân cách xã hội? Anh/Chị
cho biết có những kiểu nhân cách xã hội nào? Mô tả
kiểu nhân cách đó.
4. Phân biệt quan hệ xã hội và quan hệ liên
nhân cách. Làm cách nào để điều chỉnh các yếu tố
ảnh hưởng đến quan hệ liên nhân cách?
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
Tiếng Việt
1. Vũ Dũng (chủ biên), Từ điển Tâm lý học,
NXB Khoa học Xã hội, 2000.
2. Fisher, Những khái niệm cơ bản của Tâm
lý học xã hội, NXB Thế giới, Hà Nội.
3. Freud.S, Nguồn gốc của văn hóa và tôn
giáo, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000.
4. Trần Hiệp (chủ biên), Tâm lý học xã hội -
một số vấn đề luận. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1996.
5. Hipxơ.H và M.Phorvec, Nhập môn Tâm lý
học xã hội mácxít, NXB Khoa học Xã hội, 1984.
6. Ngô Công Hoàn, Tâm lý học xã hội trong
quản lý, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997
7. Lêônchiev.A.N, Hoạt động - Ý thức - Nhân
cách, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1989.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
8. Lômôv.B.Pa, Những vấn đề lý luận và
phương pháp luận Tâm lý học, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, 1998.
9. J.Surowiecki, Trí tuệ đám đông NXB Tri
thức, 2007.
10. Toeffler.A, Làn sóng thứ ba, NXB Khoa
học Xã hội 2007.
11. Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên), Tâm lý
học đại cương, NXB Giáo dục, 2005.
Tiếng Anh
12. Allport, F.H, Socialpsychology,
Routledge/Thoemes press, 1994.
13. Burger, J.M, Personality, Wadworth
Publishing, Califomia, 1990.
14. Keley.H, The two functions of reference
group / reading in social psychology, New York, 1952.
15. Lott.A.J, Lot.B.E, Group cohesivness as
interpersonal atrraction: A review of relationships with
antecedent and consequent variable. Psychological
bulettin, 64, 259, 309, 1976.
16. Lewin.K, Field theory in social science,
New York, 1964.
17. Myer.D.G (1996), Social psychology
Intemational edition, McGrawhill 18. Shaw.E, Group
dynamic. The psychology of small group behavior, Mc
Grawhill book, 1976.
19. Zaden, J.V, Social psychology, New York,
Mc Grawhill, 1994.
Tiếng Nga
Created by AM Word2CHM
LỜI NÓI ĐẦU
Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC
I. Bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội.
II. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của
Tâm lý học xã hội.
III. Lịch sử hình thành Tâm lý học xã hội.
IV. Tâm lý học xã hội trong các hệ thống các
khoa học.
V. Các phương pháp nghiên cứu của Tâm lý
xã hội học.
Câu hỏi ôn tập chương I.
Chương II. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ
HỘI
I. Các quy luật tâm lý xã hội.
II. Cơ chế tâm lý xã hội.
MỤC LỤC
Câu hỏi ôn tập chương II
Chương III. NHÓM XÃ HỘI
I. Khái niệm nhóm xã hội và phân loại nhóm.
II. Cấu trúc của nhóm xã hội.
III. Một số đặc điểm tâm lý của nhóm lớn.
IV. Khái niệm chung về nhóm nhỏ.
Câu hỏi ôn tập chương III.
Chương IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA
TẬP THỂ
I. Tập thể và cấu trúc quan hệ cá nhân trong
tập thể.
II. Sự cố kết trong tập thể.
III. Một số hiện tượng tâm lý xã hội cơ bản
trong đời sống tập thể.
Câu hỏi ôn tập chương IV.
Chương V. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI, ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI
VÀ SỰ XÂM KÍCH
I. Ảnh hưởng xã hội
II. Định kiến xã hội
III. Sự xâm kích
Câu hỏi ôn tập chương V
Chương VI. NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ XÃ HỘI.
I. Khái niệm nhân cách trong Tâm lý học xã
hội.
II. Cấu trúc nhân cách.
III. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát
triển nhân cách.
IV. Sự suy thoái và nhân cách.
V. Kiểu nhân cách xã hội.
VI. Quan hệ liên nhân cách.
Câu hỏi ôn tập chương VI
---//---
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
Tác giả:
TRẦN QUỐC THÀNH - NGUYỄN ĐỨC SƠN
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Địa chỉ: 136 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: 04.37547735 - Fax: 04 - 3754791
Email: hanhchinh@nxbdhsp.edu.vn
Website: www.nxbdhsp.edu.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc: ĐINH NGỌC BẢO
Tổng biên tập: ĐINH VĂN VANG
Người nhận xét:
GS.TS. VŨ DŨNG - PGS.TS. MẠC VĂN TRANG
GVCC.TS. ĐỖ MỘNG TUẤN
Biên tập nội dung: LÊ THỊ BÍCH
Bià và trình bày: TIÊU VĂN ANH
Mã số: 01.01.54/159. ĐH2011.294
In 1.000 cuốn, khổ 17 x 24 cm, tại Công ty cổ phần in
Phúc Yên. Đăng kí KHXB số: 267-2011/CXB/54-
13/ĐHSP ngày 14/3/2011. In xong và nộp lưu chiểu
tháng 12 năm 2011.
Created by AM Word2CHM
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tam_ly_hoc_xa_hoi_4302.pdf