Tiền đề của ý t hức bản ng ã là việc t ự t ách mình ra khỏi ng ười
khác đã được hình t hành t ừ cuối t uổi ấu nhi . Tuy nhiên p hải t rải
qua một quá t rình p hát t riển t hì ý t hức bản ng ã của t rẻ mới được
x ác định rõ ràng .Đến cuối t uổi mẫu g iáo, t rẻ mới hiểu được mình
như t hế nào, có những p hẩm chất g ì , những ng ười x ung quanh đối
x ử với mình ra sao, và t ại sao mình có hành động này hay hành
động khác ý t hức bản ng ã được t hể hiện rõ nhất t rong sự t ự đánh
g iá về t hành công và t hất bại của mình, về những ưu điểm và
khuy ết điểm của bản t hân, về những khả năng và cả sự bất lực nữa.
76 trang |
Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 2225 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tâm lý học trẻ em, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tích cực hay tiêu cực của mảng hiện thực mà trẻ em tái tạo.
Nếu không quan tâm thì trẻ có thể chơi những trò chơi tiêu cực như
say rượu, nhảy tàu điện, bố mẹ cãi nhau…
b. Vai chơi và hành động chơi:
Vai chơi là yếu tố quan trọng để tạo nên trò chơi. Đóng vai có
nghĩa là tái tạo lại hành động của một người lớn với các đồ vật trong
những mối quan hệ nhất định với những người xung quanh. Trong
vai chơi trẻ nhận làm một chức năng xã hội của một người nào đó,
thường là chức năng mang tính chất nghề nghiệp. Đóng vai là con
đường giúp trẻ thâm nhập vào cuộc sống của người lớn xung quanh.
Muốn trở thành một vai nào đó trong trò chơi, điều quan trọng
là trẻ phải biết thực hiện hành động của vai đó. Những hành động
này xuất phát từ hành động thực tế mà trẻ đã trông thấy trong cuộc
đời thực hay nghe kể lại. Những thao tác của hành động lại phụ
thuộc vào đồ chơi, như vậy hành động chơi và cả thao tác chơi đều
phải phù hợp với điều kiện thực tế, cũng có nghĩa là để thực hiện
vai chơi trẻ không hành động tuỳ tiện mà hành động chơi phải xuất
phát từ vai chơi. Vai chơi trong trò chơi quy định hành động của trẻ
đối với đồ vật và đối với bạn cùng chơi.
Tuy nhiên đây chỉ là hành động mô phỏng, do đó nó không
đòi hỏi phải có thao tác đúng kỹ thuật , mà chỉ cần phỏng theo hình
thức của nó và mang tính khái quát.
Chính tính khái quát và ước lệ của hành động chơi cho phép
trẻ tiến hành trò chơi trong những điều kiện các đồ chơi khác nhau.
c. Những mối quan hệ qua lại của trẻ trong trò chơi: + Những
quan hệ chơi: Đó là những quan hệ qua lại của các vai trong trò chơi
theo một chủ đề nhất định, mô phỏng mối quan hệ của người lớn
trong xã hội.
+ Những quan hệ thực: Đó là những quan hệ qua lại giữa
những trẻ là những người tham gia trò chơi, những người bạn cùng
thực hiện một công việc chung.
Trong trò chơi ĐVTCĐ, các quan hệ xã hội được bộc lộ ra rõ
rệt. Việc thực hiện hành động của vai chơi là phải tạo ra các mối
quan hệ với các vai khác nhau. Sức sống của trò chơi ĐVTCĐ là ở
chỗ nó tạo ra được những mối quan hệ giữa các vai. Đó chính là bản
chất của trò chơi ĐVTCĐ.
d. Đồ chơi và hoàn cảnh chơi:
Có hai loại đồ chơi: Loại thứ nhất là những đồ chơi do người
lớn làm cho trẻ, mô phỏng theo những đồ vật thực ( con búp bê, cái
thìa, ô tô…) Loại thứ hai là những vật thay thế cho đồ vật thật ( cái
gối thay cho em bé, cái ghế thay cho toa tàu…)
Dù là đồ chơi loại thứ nhất hay loại thứ hai đều không phải là
đồ vật thực tương ứng với hành động của vai mà chỉ là vật thay thế
nên khi trẻ thao tác với đồ vật thay thế thì những thao tác này
không tương ứng với hành động thực, từ đó buộc trẻ phải tưởng
tượng ra một hoàn cảnh chơi tương ứng. Như vậy hoạt động chơi
của trẻ đã tạo ra kết quả là hoàn cảnh chơi tưởng tượng. Nghĩa là
hoạt động chơi làm nảy sinh trí tưởng tượng chứ không phải trí
tưởng tượng có trước khi chơi, mà đó là kết quả của hoạt động chơi.
3. Vai trò của trò chơi trong sự phát triển tâm lý của trẻ
mẫu giáo:
a. Hoạt động vui chơi ảnh hưởng mạnh tới sự hình thành tính
chủ định của quá trình tâm lý. Trong trò chơi, trẻ bắt đầu hình
thành chú ý có chủ định và ghi nhớ có chủ định. Khi chơi trẻ tập
trung chú ý tốt hơn và ghi nhớ được nhiều hơn.
b. Tình huống trò chơi và những hành động của vai chơi ảnh
hưởng thường xuyên tới sự phát triển của hoạt động trí tuệ của trẻ
mẫu giáo. Trò chơi góp phần rất lớn vào việc chuyển tư duy từ
bình diện bên ngoài ( tư duy trực quan – hành động ) vào bình diện
bên trong ( tư duy trực quan – hình tượng).
Trò chơi còn giúp cho trẻ tích luỹ biểu tượng làm cơ sở cho
hoạt động tư duy, đồng thời cũng giúp cho trẻ lập kế hoạch hành
động và tổ chức hành vi của bản thân mình.
c. Vui chơi ảnh hưởng rất lớn đến đến sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ mẫu giáo. Tình huống trò chơi đòi hỏi mỗi đứa trẻ tham gia
vào trò chơi phải có một trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất
định. Do đó để đáp ứng được những yêu cầu của việc cùng chơi, trẻ
phải phát triển ngôn ngữ một cách mạch lạc.
d. Trò chơi ĐVTCĐ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển trí tưởng tượng của trẻ mẫu giáo. Trong hoạt động vui chơi,
đứa trẻ học thay thế đồ vật nài bằng các đồ vật khác, nhận đóng các
vai khác nhau. Đó là cơ sở để phát triển trí tưởng tượng. Chính
hoạt động vui chơi của trẻ đã làm nảy sinh hoàn cảnh chơi, tức làm
nảy sinh trí tưởng tượng.
e. Trò chơi ĐVTCĐ có tác động rất mạnh đến sự phát triển
đời sống tình cảm trẻ mẫu giáo. Trẻ lao vào chơi với tất cả tinh thần
say mê của nó. Trong khi vui chơi trẻ tỏ ra vui sướng và nhiệt tình.
Khi phản ánh vào trò chơi những mối quan hệ giữa người và người
và nhập vào những mối quan hệ đó thì những rung động mang tính
người của trẻ được gợi lên. Trong trò chơi trẻ đã thể hiện được tình
người, như thái độ chu đáo, ân cần, sự đồng cảm, tinh thần tương
trợ và một số phẩm chất đạo đức khác.
g. Những phẩm chất ý chí của trẻ mẫu giáo được hình thành
mạnh mẽ qua trò chơi ĐVTCĐ. Khi tham gia trò chơi, trẻ buộc
phải điều tiết hành vi của mình theo mối quan hệ giữa vai mình
đóng với các vai khác, sao cho phù hợp với những quy tắc của trò
chơi. Từ đó trẻ biết điều khiển hành vi của mình bằng ý chí, đặt ý
riêng phục tùng mục đích chung của nhóm người.
Qua trò chơi, trẻ còn được hình thành những phẩm chất ý chí
như: tính mục đích, tính kỷ luật, tính dũng cảm…
Tóm lại: Hoạt động vui chơi, mà trung tâm là trò chơi ĐVTCĐ
ở tuổi mẫu giáo thực sự đóng vai trò chủ đạo. Ý nghĩa chủ đạo thể
hiện trước hết là ở chỗ nó giúp tẻ giải quyết mâu thuẫn trong bước
phát triển từ tuổi ấu nhi lên tuổi mẫu giáo. Trò chơi là phương tiện
góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Trò chơi tạo ra những
nét tâm lý đặc trưng cho tuổi mẫu giáo, mà nổi bật là tính hình
tượng và tính dễ xúc cảm, khiến cho nhân cách của trẻ mẫu giáo
mang tính độc đáo khó tìm thấy ở các lứa tuổi khác. Do đó tổ chức
trò chơi chính là tổ chức cuộc sống của trẻ. Trò chơi là phương tiện
để trẻ học làm người.
II. SỰ NẢY SINH CÁC YẾU TỐ CỦA HOẠT ĐỘNG HỌC
TẬP, LAO ĐỘNG:
1. Sự nảy sinh các yếu tố của hoạt động học tập:
Hoạt động học tập là dạng hoạt động chủ đạo của học sinh phổ
thông, và chỉ đến tuổi học sinh phổ thông, dạng hoạt động này mới
phát triển tới mức hoàn chỉnh, còn ở tuổi mẫu giáo, hoạt động học
tập đang ở thời kỳ phôi thai.
Ở tuổi mẫu giáo, hoạt động học tập chưa được hình thành đầy
đủ. Nhưng trong nhiều hoạt động, đặc biệt là hoạt động vui chơi, ở
trẻ mẫu giáo đã xuất hiện những yếu tố của hoạt động học tập.
Trong cuộc sống hàng ngày trẻ đã tiếp thu được một lượng tri
thức đáng kể về thế giới xung quanh do trẻ trực tiếp nhìn thấy, nghe
thấy và sờ thấy hoặc do người lớn kể lại… Từ đó thế giới biểu
tượng của trẻ cũng phong phú dần lên và làm nảy sinh tính ham
hiểu biết, hứng thú nhận thức, muốn khám phá những điều mới lạ.
Nhưng lòng ham hiểu biết của trẻ mẫu giáo vẫn chưa đủ để
đảm bảo thái độ sẵn sàng học tập, tiếp thu tri thức một cách có hệ
thống trong các môn học. Để hình thành những hứng thú bền vững
và nảy sinh những kỹ năng trí tuệ chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ
thông, người ta đã dạy trẻ trong các hình thức tổ chức đặc biệt gọi
là “ tiết học”. Trong “tiết học” người ta dạy cho trẻ những tri thức,
kỹ năng tương đối có hệ thống về các lĩnh vực của đời sống tự
nhiên và xã hội xung quanh trẻ theo một chương trình nhất định.
Đồng thời trong “tiết học” người ta bắt đầu đề ra cho trẻ những yêu
cầu nhất định về mức độ và chất lượng lĩnh hội các tri thức, luyện
tập cho trẻ những kỹ năng nghe và làm theo lời chỉ dẫn của cô giáo
để thực hiện nhiệm vụ cụ thể do cô đề ra.
Việc dạy học trong các tiết học có một ý nghĩa quan trọng đối
với việc làm nảy sinh các yếu tố của hoạt động học tập ở trẻ mẫu
giáo.
Khác với “giờ học” ở trường phổ thông, “ tiết học” ở trường
mẫu giáo được tổ chức linh hoạt hơn, mang tính tổng hợp hơn,
trong đó trò chơi học tập giữ một vị trí vô cùng quan trọng.
Trong “ tiết học “, chủ yếu là thông qua các trò chơi học tập,
niềm hứng thú đối với các lĩnh vực tự nhiên và xã hội có khả năng
xuất hiện ở hầu hết trẻ mẫu giáo. Ở đây người ta đã dạy trẻ những
tri thức mang tính hệ thống nhất định, trong đó những quan hệ chủ
yếu của các hiện tượng vốn có ở mỗi lĩnh vực trong hiện thực được
bộc lộ trước trẻ em.
Cùng với trò chơi, “tiết học” còn giúp trẻ hình thành những kỹ
năng ban đầu của học tập. Kỹ năng đó đòi hỏi trước hết phải hiểu ý
nghĩa của nhiệm vụ học tập như là một nhiệm vụ cần phải thực
hiện, từ đó biết phân biệt nhiệm vụ học tập với các nhiệm vụ khác
trong đời sống thực tế.
Việc tổ chức trò chơi có định hướng cùng với việc tổ chức các
“tiết học” vừa sức và phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ mẫu
giáo, sẽ làm thúc đẩy những yếu tố của hoạt động học tập nảy sinh
một cách thuận lợi, chuẩn bị tốt cho trẻ học tập ở trường phổ thông
sau này.
2. Những hình thức sơ đẳng của hoạt động lao động:
Hoạt động lao động là một loại hoạt động nhằm tạo ra những
sản phẩm có ích cho xã hội, những giá trị vật chất và tinh thần cần
thiết cho loài người. Đó chính là hình thức hoạt động cơ bản của
người lớn, nó đòi hỏi những điều kiện thể lực và tâm lý cao.
Những phẩm chất tâm lý của người lao động chưa thể có được
ở tuổi mẫu giáo nhưng những tiền đề của chúng đang được hình
thành ở lứa tuổi này. Việc hình thành những tiền đề cần thiết cho
hoạt động lao động ở lứa tuổi mẫu giáo lại được diễn ra theo con
đường đặc biệt, chủ yếu ở bên ngoài việc thực hiện nhiệm vụ lao
động.
Trẻ em làm quen bước đầu với hoạt động khi chúng quan sát
người lớn làm việc hay thông qua kể chuyện, tranh vẽ… Trong
những cuộc chơi, trẻ tái tạo lại những hành động lao động và những
mối quan hệ giữa những người lớn với nhau, qua đó mà thu nhận
những biểu tượng cần thiết về lao động., về ý nghĩa xã hội và tính
chất tập thể của nó. Thông qua trò chơi, ở trẻ cũng được hình thành
những hình thức đầu tiên của sự phân công hợp tác của những
người lao động.
Trong những hình thức hoạt động có sản phẩm, trẻ mẫu giáo
đã biết thực hiện những hành động nhằm tạo ra một kết quả nhất
định.. Trong hoạt động đó ở trẻ hình thành nên những kỹ năng cần
thiết. Việc thực hiện những nhiệm vụ học tập đơn giản cũng góp
phần hình thành ở trẻ sự tự kiểm tra, tự đánh giá công việc của
mình. Tất cả những điều đó là tiền đề cần thiết để hình thành nên
hoạt động lao động.Tuy nhiên những tiền đề đó còn bị tản mạn
trong nhiều hình thức hoạt động khác nhau. Để thống nhất lại, cần
phải hình thành ở trẻ em những hình thức sơ đẳng của lao động,
trước hết là hướng dẫn trẻ thực hiện những nhiệm vụ lao động đơn
giản nhằm đạt được một kết quả cụ thể.
Hướng dẫn trẻ em hợp tác với nhau trong nhiệm vụ lao động
chung có một ý nghĩa quan trọng vì nó tạo ra ở đứa trẻ một ý thức
hợp tác, tinh thần trách nhiệm và sự quan tâm đến công việc chung,
và đó là những điều kiện cần thiết cho việc hình thành con người lao
động kiểu mới sau này.
Tuy nhiên, do đặc điểm phát triển về thể chất và tâm lý của
trẻ mẫu giáo mà thường những nhiệm vụ lao động được tổ chức gắn
liền với trò chơi. Hơn nữa, điều quan trọng không phải là làm sao
cho những hành động lao động cho trẻ mẫu giáo thực sự mang lại
kết quả cao, mà điều chủ yếu là làm sao để trẻ hiểu được thế nào là
lao động. Cần tổ chức cho trẻ tham gia những hình thức lao động
đơn giản, nhằm tạo cho sự xuất hiện những tiền đề của hoạt động
lao động.
Tóm lại:
+ Vui chơi, học tập và lao động là ba dạng hoạt động cơ bản
của con người, trong đó thể hiện các trình độ phát triển theo bậc
thang khác nhau của một đời người. Lúc đầu trẻ mới biết vui chơi,
sau đó là học tập và cuối cùng là lao động. Hoạt động vui chơi đóng
vai trò chủ đạo trong sự phát triển tâm lý của trẻ mẫu giáo.
+ Bên cạnh hoạt động vui chơi, cần tổ chức cho trẻ tham gia
vào những hoạt động khác như học tập và lao động phù hợp với các
em.
+ Ngoài ra, có thể tổ chức cho trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm
loài người về các lĩnh vực văn hoá – xã hội như: tạo hình, âm nhạc,
thể dục – thể thao, văn học ngôn ngữ… Tuy nhiên cũng cần phải tổ
chức sao cho phù hợp với những đặc điểm phát triển của trẻ.
Bài 6: ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
TRẺ TUỔI MẪU GIÁO BÉ
I. SỰ THAY ĐỔI HOẠT ĐỘNG CHỦ ĐẠO Ở TUỔI
MẪU GIÁO BÉ:
Cuối tuổi ấu nhi, ở trẻ xuất hiện một mâu thuẫn đó là mâu
thuẫn giữa một bên là tính độc lập đang phát triển mạnh và một bên
là khả năng còn quá non yếu của trẻ. Tình trạng trẻ em luôn đòi hỏi
“ Để con tự làm lấy” còn người lớn thì luôn “ Cấm không được
làm” đã dẫn đến những mâu thuẫn giữa trẻ và người lớn. Để giải
quyết mâu thuẫn này, trẻ phải tìm đến một hoạt động mới: Hoạt
động vui chơi mà thực chất là trò chơi đóng vai theo chủ đề (
ĐVTCĐ ).
Hoạt động với đồ vật nguyên là hoạt động chủ đạo của tuổi ấu
nhi, nay lùi xuống hàng thứ hai, nhường chỗ cho hoạt động vui chơi
nổi lên chiếm vị trí ưu thế và giữ vai trò chủ đạo để tạo ra một diễn
biến cơ bản trong tâm lý của trẻ, tức là bắt đầu hình một nhân cách.
Tuy nhiên vì mới chuyển sang vị trí hoạt động chủ đạo nên
hoạt động vui chơi chưa thể đạt tới dạng chính thức mà chỉ mới ở
dạng sơ khai của nó. Chính vì vậy mà hoạt động vui chơi cỡ độ tuổi
này có những đặc điểm sau đây:
Do vốn sống của trẻ còn quá ít ỏi nên việc mô phỏng lại đời
sống xã hội của người lớn còn hạn chế. Những mảng cuộc sống được
đưa vào trò chơi chưa nhiều, chưa rộng, chỉ mới quanh quẩn với
những sự việc gần gũi đối với trẻ.
Nét đặc trưng của trò chơi ĐVTCĐ là ở chỗ trẻ phải hoạt
động cùng nhau để mô phỏng lại những mối quan hệ của người lớn
trong xã hội. Nhưng ở tuổi mẫu giáo bé trẻ chưa quen phối hợp
hoạt động với nhau, cho nên tuy hoạt động vui chơi được chuyển
sang hoạt động chủ đạo nhưng vẫn còn bị hoạt động cũ, hoạt động
với đồ vật chi phối. Tuy trẻ đã biết bắt chước một số hành động
phối hợp với nhau trong sinh hoạt của người lớn, nhưng việc vui
chơi đó vẫn còn mang tính chất của việc chơi một mình. Chỉ khi nào
có thêm vài đứa trẻ khác cùng chơi, cùng phối hợp hành động thì
lúc đó chúng mới phân vai cho nhau và nhập vai thực sự. Vai chơi
chỉ xuất hiện từ những mối quan hệ, muốn có trò chơi ĐVTCĐ thì
trước hết cần phải tạo ra những mối quan hệ giữa các thành viên
trong khi chơi với nhau.
Người lớn cần hướng dẫn trẻ quan sát cuộc sống xung quanh,
cho trẻ tiếp xúc rộng dần với sinh hoạt xã hội và bày cho trẻ những
hành động với đồ vật như người lớn vẫn làm và giao tiếp với xung
quanh tuỳ theo cương vị và chức năng xã hội của mỗi người, tức là
bày cho trẻ thiết lập những mối quan hệ xã hội.
Ở tuổi mẫu giáo bé, trò chơi ĐVTCĐ vừa mới xuất hiện còn
rất no yếu, nhưng nó vẫn tạo ra ở trẻ một cấu tạo tâm lý mới, một
nhân cách hết sức đơn giản, nhưng đó lại chính là xu hướng phát
triển cơ bản của trẻ. Do đó giáo viên cần tập trung mọi cố gắng để
làm cho hoạt động vui chơi phát triển thật mạnh mẽ.
II. SỰ PHÁT TRIỂN CHÚ Ý, NGÔN NGỮ CỦA TRẺ
MẪU GIÁO BÉ:
1. Chú ý:
Nhiều phẩm chất chú ý của trẻ ở độ tuổi này được hình thành
và phát triển mạnh do sự tiếp xúc với nhiều dạng đồ vật, những loại
âm thanh, màu sắc, độ di động khác nhau, kích thích phản xạ định
hướng của trẻ.
Những thay đổi cơ bản trong các phẩm chất chú ý của trẻ:
a. Khối lượng chú ý: Khối lượng chú ý tăng đáng kể.
Khối lượng chú ý không chỉ là số lượng đồ vật trong cùng một
thời điểm trẻ tri giác được nhiều, mà ngay một vật trẻ chú ý được
nhiều thuộc tính, tính chất hơn.
Khối lượng chú ý của trẻ cũng tăng lên dưới tác động của ngôn ngữ.
b. Tính bền vững của chú ý: Tính bền vững của chú ý tăng
đáng kể. Theo số liệu nghiên cứu thì trẻ 3 – 4 tuổi chú ý được 27
phút so với trẻ 1 tuổi là 14,5 phút.
c. Tính chủ định của chú ý phát triển mạnh.
2. Ngôn ngữ:
Số lượng từ ngữ trong giai đoạn 3 – 4 tuổi khoảng từ 800 –
1926 từ ( nghiên cứu của E.Arkin). Những đặc điểm phát triển
ngôn ngữ của trẻ trong giai đoạn này là:
+ Ngôn ngữ của trẻ được xây dựng từ câu ngắn đến câu có
nhiều âm tiết.
+ Ngôn ngữ của trẻ thể hiện giọng điệu rõ nét.
+ Ngôn ngữ của trẻ thường kèm theo các hình thức hoạt động
tư duy khác nhau, kích thích hành động.
+ Thường nhắc đi nhắc lại một từ trong câu trọn vẹn.
Ngôn ngữ mang màu sắc cảm xúc rõ nét.
Ngôn ngữ của trẻ có ưu thế rõ nét thể hiện hứng thú cá nhân,
hoạt động cá nhân của trẻ.
III. SỰ PHÁT TRIỂN QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA TRẺ
MẪU GIÁO BÉ:
1. Tri giác:
+ Ở độ tuổi này đã làm chủ được tri giác của mình, dưới sự
hướng dẫn bằng lời của người lớn trẻ đã biết quan sát nhất là những
đồ vật quen thuộc.
Trẻ tự tổ chức được quá trình tri giác của mình.
+ Trong quan sát trẻ rất tò mò, ham hiểu biết, hay đặt câu
hỏi…
+ Tính đúng đắn trong việc phân biệt màu sắc, kích thước…
cao hơn.
+ Tri giác của trẻ còn mang tính tự kỷ.
+ Sự phát triển tri giác thể hiện ở tính đúng đắn về khối lượng
vật thể mà trẻ gọi tên và tri giác được; ở tính ý nghĩa và sự tổ chức
lại các phương thức tri giác do vốn kinh nghiệm của trẻ tăng lên.
2. Trí nhớ:
+ Trẻ không chỉ ghi nhớ những dấu hiệu bên ngoài mà trẻ đi
dần vào thuộc tính khuất trong trường tri giác.
+ Giữ gìn thông tin: Ở độ tuổi này, trẻ giữ gìn được thông tin
gây ấn tượng mạnh cho trẻ trong thời gian vài tháng, thậm chí cả đời
người.
Quá trình giữ gìn thông tin mang tính chất trực quan hình ảnh,
nếu sự kiện, đồ vật… cần nhớ gắn với cảm xúc thì trẻ nhớ được lâu,
trẻ bắt đầu nhớ được ý nghĩa đơn giản của đồ vật, sự kiện.
Việc giữ gìn những âm thanh, ký hiệu bắt đầu phát triển mạnh.
+ Nhận lại và nhớ lại: Trẻ dễ nhận lại, nhớ lại các thao tác,
hành vi, ngôn ngữ. Trẻ nhớ nhanh, đúng những sự kiện, đồ vật gắn
với cảm xúc, hành động.
Để giúp trẻ nhớ tốt cần:
+ Thiết lập mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng mới với
với những sự kiện, thông tin… đã có trong kinh nghiệm trẻ.
+ Cần để trẻ nhớ cái gì, hãy nhắc đi nhắc lại những cảm xúc
tích cực và gắn với sự tham gia tích cực bằng hành động của chính
bản thân trẻ.
+Cần hướng dẫn trẻ phát triển các loại trí nhớ hình ảnh, trí
nhớ vận động, trí nhớ cảm xúc, tập cho trẻ nhớ có chủ định…
3. Tư duy:
X.Vưgôtxki cho rằng sự hình thành tư duy chủ yếu thuộc về
sự lĩnh hội ngôn ngữ, tên gọi, chức năng các đồ vật, sự kiện, hiện
tượng xung quanh trẻ.
+ Ngôn ngữ là ký hiệu tượng trưng về các sự vật, hiện tượng
do vậy chúng mang tính khái quát. Theo A.V. Daporozet thì khi trẻ
nắm được trung bình 1600 từ thì hàng loạt đặc trưng của tư duy
xuất hiện: thao tác so sánh, thao tác phân tích, thao tác tổng hợp.
+ Tư duy của trẻ phát triển đi từ khái quát trên cơ sở những
dấu hiệu bên ngoài của đồ vật đến khái quát những dấu hiệu bản
chất của đồ vật, hiện tượng cụ thể.
+ Ở trẻ đã xuất hiện một số dạng phán đoán, suy lý đơn giản
gắn liền với các sự kiện, hiện tượng mà trẻ tri giác được gắn với
hoàn cảnh cụ thể.
+ Tư duy của trẻ mang tính chất cụ thể, hình ảnh, cảm xúc.
+ Ở giai đoạn này tư duy của trẻ chủ yếu là tư duy hành động
- trực quan, đồng thời phát triển tư duy hình ảnh - trực quan, mầm
móng tư duy từ ngữ – lôgic xuất hiện.
4. Tưởng tượng:
+ Đến lứa tuổi này tưởng tượng của trẻ phát triển mạnh cả về
dạng loại và các mức độ phong phú của hình ảnh tưởng tượng. Hình
ảnh tưởng tượng thường gắn với biểu tượng trong hoàn cảnh cụ thể
giới hạn bởi kinh nghiệm tích luỹ được ở lứa tuổi này.
+ Trẻ bắt đầu xuất hiện tưởng tượng có chủ định và tưởng
tượng sáng tạo.
+ Ngôn ngữ có ý nghĩa rất lớn kích thích tưởng tượng của trẻ
phát triển.
IV. SỰ PHÁT TRIỂN CẢM XÚC, TÌNH CẢM, Ý CHÍ CỦA
TRẺ MẪU GIÁO BÉ:
1. Sự phát triển cảm xúc:
+ Theo kết quả của một số nhà nghiên cứu thì trẻ ở độ tuổi 3 –
4 xúc cảm phát triển rất mạnh.
+ Ở giai đoạn này trẻ đã phát triển tất cả các sắc thái xúc cảm,
trẻ phản ứng với những người xung quanh, các sự kiện vui, buồn,
hờn giận… đặc biệt trẻ phản ứng xúc cảm qua lời nói, sự vận động
và điệu bộ, hành vi của trẻ.
2. Sự phát triển tình cảm:
+ Tình cảm trí tuệ của trẻ bắt đầu xuất hiện. Qua câu chuyện
kể, trẻ thích thú lắng nghe và kể lại nội dung một cách hứng thú, xúc
động thật sự đối với các nhân vật yếu ớt, tự hào, thích thú noi
gương các nhân vật anh hùng.
Nhiều đối tượng mới lạ đều gây sự tò mò ham hiểu biết đối với
trẻ. Trẻ biết kể chuyện khi đến thăm vườn bách thú, bắt chước
những hành vi của các con vật một cách say sưa.
+ Tình cảm đạo đức ở trẻ thể hiện khá rõ, khi mẹ ốm, trẻ biết
lo lắng, giúp mẹ lấy nước… biết phân biệt hành vi tốt của mình và
trẻ khác.
+ Tình cảm thẩm mỹ được phát triển mạnh qua các giờ dạy
vẽ, nặn, xé, dán ở các lớp mẫu giáo. Trẻ biết khen đẹp, chê xấu…
+ Tình cảm thực tiễn: trẻ hoạt động tích cực với đồ vật, với
các quan hệ người, ở hành động thực tiễn này khi thành công, thất
bại trẻ đều bộc lộ thái độ xúc cảm rất rõ ràng.
3. Sự phát triển ý chí:
+ Dấu hiệu ý chí xuất hiện đầu tiên từ khi trẻ 18 tháng tuổi
nhưng sau thời kỳ khủng hoảng tuổi lên 3, trẻ tự khẳng định được
mình trong nhóm bạn bè. Ý thức về “cái tôi” được hình thành thì ý
chí hình thành và phát triển nhanh.
+ Một số phẩm chất ý chí được biểu hiện trong hành động với
đồ vật, hành vi ứng xử với những người xung quanh: Tính mục đích,
tính độc lập, tính kiên trì.
+ Tuy nhiên trẻ 3 – 4 tuổi mục đích vui chơi, giao tiếp và động
cơ hành vi còn trùng nhau, trẻ chưa nhận thức rõ ràng. Cần tiếp tục
xây dựng ý chí cho trẻ qua các hoạt động vui chơi, các tiết học …
V. SỰ XUẤT HIỆN ĐỘNG CƠ HÀNH VI:
Trong suốt thời kỳ mẫu giáo, ở trẻ em diễn ra những biến đổi
căn bản trong hành vi, chuyển từ hành vi bộc phát sang hành vi
mang tính xã hội. Đó cũng chính là quá trình hình thành động cơ của
hành vi. Tuy nhiên, ở lứa tuổi mẫu giáo bé thì bước chuyển này
cũng ở vào thời điểm khởi đầu.
Phần nhiều hành động của trẻ mẫu giáo bé còn giống với trẻ ấu
nhi. Thông thường trẻ không hiểu được tại sao mình hành động như
thế này hoặc như thế kia. Trẻ hành động thường do những nguyên
nhân trực tiếp, như theo ý muốn chủ quan của mình hoặc do tình
huống ở thời điểm đó thúc giục mà không ý thức được nguyên cớ
nào khiến mình hành động như vậy.
Dần dần trong hành vi của trẻ có một sự biến đổi quan trọng,
đó là sự nảy sinh động cơ.. Lúc đầu động cơ còn đơn giản và mờ
nhạt. Khi hành động, trẻ bị kích thích bởi những động cơ sau đây:
+ Những động cơ gắn liền với ý thích muốn được như người
lớn. Nguyện vọng này biến thành động cơ, dẫn trẻ tới việc sắm vai
trong những trò chơi ĐVTCĐ.
+ Những động cơ gắn liền với quá trình chơi có tác động khá
mạnh mẽ thúc đẩy hành vi của trẻ. Trẻ ham chơi không phải là do
kết quả của trò chơi mang lại, mà chính quá trình chơi làm cho trẻ
thích thú. Có thể nói rằng hành động của trẻ được thúc đẩy bằng
động cơ vui chơi. Động cơ này làm toàn bộ hành vi của đứa trẻ
mang một sắc thái riêng biệt và đó cũng là một nét độc đáo của tuổi
mẫu giáo.
+ Những động cơ nhằm làm cho người lớn vui lòng và yêu mến
cũng bắt đầu xuất hiện và đóng vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy trẻ thực hiện những hành động tích cực.
Vào cuối tuổi mẫu giáo bé, một loại động cơ của hành vi mang
tính đạo đức xã hội được hình thành, thể hiện ở sự quan tâm của trẻ
đối với những người xung quanh, đối với bạn bè.Trong điều kiện có
sự giáo dục đúng đắn thì loại động cơ này sẽ được phát triển mạnh
ở các giai đoạn sau. Đó là cốt lõi trong nền tảng đạo đức của nhân
cách con người mới trong tương lai.
VI. SỰ HÌNH THÀNH Ý THỨC VỀ BẢN THÂN:
Ý thức về bản thân được chớm nảy sinh từ cuối tuổi ấu nhi
khi trẻ biết tách mình ra khỏi mọi người xung quanh để nhận ra
chính mình, biết mình có một sức mạnh và một thẩm quyền nào đó
trong cuộc sống. Nhưng ý thức về bản thân của trẻ cuối tuổi ấu nhi
còn mờ nhạt.
Cùng với năm tháng qua đi, việc tiếp xúc của trẻ với thế giới
bên ngoài được mở rộng dần ra. Trẻ biết được nhiều điều lý thú
trong thiên nhiên, trẻ bắt đầu tìm hiểu thế giới của chính con người
và dần dần khám phá ra được rằng xung quanh có nhiều mối quan
hệ chằng chịt giữa người và người. Trẻ mẫu giáo rất muốn phát hiện
ra những mối quan hệ ấy, nhập vào đó để học làm người lớn. Trò
chơi ĐVTCĐ là một dạng hoạt động đặc biệt giúp trẻ một cách có
hiệu quả nhất để thực hiện được điều đó.
Khi nhập vào những mối quan hệ trong trò chơi, điều quan
trọng là trẻ phát hiện ra mình trong nhóm bạn bè cùng chơi, có dịp
đối chiếu, so sánh những bạn cùng chơi với bản thân mình. Trẻ thấy
được vị trí của mình trong nhóm chơi, khả năng của mình so với bạn
ra sao, cần phải điều chỉnh hành vi như thế nào để phục vụ mục
đích chơi chung. Tất cả những điều đó dần dần sẽ giúp trẻ nhận ra
được mình.
Độ tuổi mẫu giáo bé là điểm khởi đầu của sự hình thành ý thức
bản ngã, nên trong ý thức đó còn mang những đặc điểm sau đây:
+ Trẻ chưa phân biệt thật rõ đâu là ý muốn, ý đồ chủ quan của
mình và đâu là tính chất khách quan của sự vật. Chính vì vậy
thường xảy ra tình trạng là trẻ đòi làm những việc rất vô lí.
+ Trẻ còn chưa nhận rõ đâu là ý muốn, nhu cầu chủ quan của
mình với những quy định, những luật lệ, những quy tắc trong xã
hội, do đó nhiều em thường có những đòi hỏi vô lí mà người lớn
không thể đáp ứng được.
Trò chơi ĐVTCĐ giữ vai trò tích cực trong quá trình hình
thành sự tự ý thức của trẻ mẫu giáo bé, nên cần phải quan tâm đặc
biệt đến sự tổ chức trò chơi này.
Bài 7: ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
TRẺ TUỔI MẪU GIÁO NHỠ
I. HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI VÀ SỰ HÌNH
THÀNH XÃ HỘI TRẺ EM:
Ở lứa tuổi mẫu giáo bé, hoạt động vui chơi của trẻ đã phát
triển mạnh. Nhưng chỉ ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ, hoạt động vui chơi
mới mang đầy đủ ý nghĩa của nó nhất. Có thể nói rằng hoạt động
vui chơi ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn phát triển tới mức
hoàn thiện, được thể hiện ở những đặc điểm sau đây:
1. Trong hoạt động vui chơi, trẻ thể hiện rõ rệt tính tự
lực, tự do và chủ động.
Tính tự lực, tự do của trẻ biểu hiện ở các điểm sau đây:
Trong việc lựa chọn chủ đề và nội dung chơi: Do có ít nhiều
vốn sống nhờ tiếp xúc hằng ngày với thế giới đồ vật, giao tiếp rộng
rãi với những người xung quanh tạo điều kiện cho trẻ tự do lựa chọn
chủ đề chơi và phản ánh vào vai chơi những mảng hiện thực mà
mình quan tâm.
Trong việc lựa chọn bạn cùng chơi: Vào cuối tuổi mẫu giáo nhỡ
và lớn, cá tính của trẻ đã bắt đầu bộc lộ rõ rệt, mỗi em có mỗi tính,
mỗi nết. Do đó trẻ cần phải lựa chọn bạn “ tâm đầu ý hợp” với
mình.
Trong việc tự do tham gia vào trò chơi nào mà mình thích và
tự do rút ra khỏi những trò chơi mà mình đã chán: Khi tự nguyện
tham gia vào các cuộc chơi thì trẻ chơi một cách say sưa, chơi hết
mình, nhưng khi đã chán thì cũng sẽ bỏ cuộc một cách nhẹ nhàng.
2. Trong hoạt động vui chơi, trẻ đã biết thiết lập những quan
hệ rộng rãi và phong phú với các bạn cùng chơi: Một xã hội
trẻ em được hình thành.
Hoạt động vui chơi, mà đặc biệt là trò chơi ĐVTCĐ là loại
hoạt động cùng nhau đầu tiên của trẻ em. Không có sự phối hợp với
nhau giữa các thành viên thì không thành trò chơi. Ở lứa tuổi này,
việc chơi của các em tương đối thành thạo và chơi với nhau trong
nhóm bạn đã trở thành một nhu cầu cấp bách. Đã chơi thì phải có
vai nọ vai kia mới thú vị. Một trò chơi của trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn
thường có nhiều vai hơn của trẻ mẫu giáo bé mặc dù có thể cùng
một chủ đề. Như vậy các quan hệ trong trò chơi của trẻ đã được mở
rộng hơn nhiều so với trẻ mẫu giáo bé. Vào cuối tuổi mẫu giáo, trẻ
còn biết liên kết các trò chơi theo các chủ đề khác nhau, làm cho các
mối quan hệ trở nên phong phú hơn. Quan hệ của trẻ ngày càng
được đa dạng hơn chẳng khác nào một xã hội người lớn thu nhỏ lại.
Ở tuổi mẫu giáo nhỡ và lớn việc chơi trong nhóm bạn bè là một
nhu cầu bức bách. Đặc biệt là nhu cầu giao tiếp với bạn bè đang
phát triển rất mạnh. Từ đó những “ xã hội trẻ em “ thực sự được
hình thành.
“Xã hội trẻ em “ này còn khác xa so với xã hội người lớn. Hợp
rồi tan, tan rồi hợp, thực và chơi, chơi và thực. Đó chính là nét độc
đáo của cái xã hội ấy. Nhưng chính những mối quan hệ xã hội đầu
tiên trong nhóm bạn bè này lại có một ý nghĩa lớn lao đối với cả đời
người sau này.
Cấu trúc của cái “ xã hội trẻ em “ cũng rất phức tạp. Trong cái
xã hội ấy mỗi đứa trẻ có một vị trí nhất định. Vị trí đó được thể
hiện ở chỗ bạn bè trong nhóm đối xử với các em như thế nào. Vị trí
trong nhóm bạn cùng tuổi ảnh hưởng một cách sâu sắc đến sự phát
triển nhân cách của trẻ.
Vào cuối tuổi mẫu giáo, đã bắt đầu xuất hiện vai trò “thủ lĩnh”.
Đó là đứa trẻ được các bạn tôn sùng và vị nể nhất. Hiện tượng thủ
lĩnh xuất hiện trong nhóm bạn là điều làm cho người lớn phải đặc
biệt quan tâm, không nên để tình trạng chỉ có một em luôn luôn làm
thủ lĩnh còn những đứa trẻ khác chỉ biết phục tùng.
“Xã hội trẻ em” cũng dần dần hình thành những dư luận
chung. Dư luận chung thường được bắt nguồn từ những nhận xét
của người lớn đối với trẻ em, cũng có thể do trẻ em nhận xét lẫn
nhau.Dư luận chung ảnh hưởng khá lớn đối với sự lĩnh hội những
chuẩn mực hành vi đạo đức của trẻ trong nhóm và qua đó ảnh
hưởng đến nhân cách của từng đứa trẻ.
Nhóm trẻ cùng chơi là một trong những cơ sở xã hội đầu tiên
của trẻ em, do đó người lớn cần tổ chức tốt hoạt động của nhóm trẻ
ở lớp mẫu giáo cũng như ở gia đình, khu tập thể, xóm dân cư… để
tạo môi trường lành mạnh có tác dụng giáo dục tích cực đối với trẻ.
II. SỰ PHÁT TRIỂN CHÚ Ý, NGÔN NGỮ:
1 . Sự phát triển chú ý: Cả hai dạng chú ý có chủ định và
không có chủ định đều phát triển mạnh ở trẻ 4 – 5
tuổi.
Nhiều phẩm chất chú ý có chủ định phát triển nhanh do sự
phát triển của ngôn ngữ và tư duy.
Sức tập trung chú ý của trẻ cao, trẻ có thể vẽ, nặn một thời
gian dài.
Với các hoạt động tạo hình làm tăng khối lượng chú ý của trẻ.
Sức bền vững của chú ý cao ( chú ý tới 37 phút với những đồ
vật thích thú – theo A.V Daporozet ). Những công việc mà cha mẹ,
cô giáo giao cho trẻ chính là điều kiện tốt để trẻ phát triển chú ý có
chủ định.
Việc giáo dục chú ý có chủ định phụ thuộc vào việc tổ chức
nhiệm vụ hoạt động cho trẻ. Ví dụ giao việc mà trẻ thích sẽ làm tăng
năng lực chú ý có chủ định, cho trẻ tập tìm, quan sát các chi tiết các
đồ vật, tranh vẽ… để rèn luyện chú ý cho trẻ về tính mục đích, tính
hệ thống…
Mặc dù chú ý có chủ định phát triển mạnh, nhưng nhìn toàn
bộ lứa tuổi thì tính ổn định chưa cao, do vậy khi giao việc cần giải
thích rõ ràng, nhắc lại khi cần thiết.
2. Sự phát triển ngôn ngữ:
Ngôn ngữ của trẻ mang tính chất hoàn cảnh, tình huống nghĩa
là ngôn ngữ của trẻ gắn liền với sự vật, hoàn cảnh, con người, hiện
tượng đang xảy ra trước mắt trẻ.
Cuối 4 tuổi, ngôn ngữ của trẻ đã bắt đầu biết nối kết giữa tình
huống hiện tại với quá khứ thành một “văn cảnh”.
Vốn từ của trẻ tăng lên không chỉ số lượng từ mà điều quan
trọng là lĩnh hội được các cấu trúc ngữ pháp đơn giản.
Đã hình thành những cảm xúc ngôn ngữ qua giọng nói, ngữ
điệu, âm tiết… Tuy nhiên dưới tác động của cảm xúc trẻ có thể
nghe nhầm, phát âm nhầm.
Dưới sự hướng dẫn của cô giáo, đặc biệt trong hoạt động vui
chơi, tạo hình, các tiết kể chuyện, tham quan, âm nhạc, thể dục…và
các nhiệm vụ do người lớn giao cho trẻ, xác định trách nhiệm của trẻ
một cách đơn giản, trẻ lĩnh hội được nhiều từ mới và ý nghĩa sử
dụng của chúng, là tiền đề quan trọng giúp trẻ hoạt động sau này.
III. SỰ PHÁT TRIỂN QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC:
1. Tri giác:
Do tiếp xúc với nhiều đồ vật, hiện tượng, con người… độ
nhạy cảm phân biệt các dấu hiệu thuộc tính bên ngoài của chúng
ngày càng chính xác và đầy đủ.
Một số quan hệ không gian và thời gian được trẻ trẻ tri giác
hơn trong tầm nhìn, nghe của trẻ.
Khả năng quan sát của trẻ được phát triển không chỉ số lượng
đồ vật mà cả các chi tiết, dấu hiệu thuộc tính, màu sắc…
Bắt đầu xuất hiện khả năng kiểm tra độ chính xác của tri giác
bằng cách hành động thao tác lắp ráp, vặn mở… phù hợp với nhiệm
vụ yêu cầu. Các loại tri giác nhìn, nghe, sờ mó… phát triển ở độ
tinh nhạy.
Việc tổ chức tri giác, hướng dẫn quan sát, nhận xét của cô giáo,
cha mẹ giúp trẻ phát triển tính mục đích, kế hoạch…
2. Trí nhớ:
Trẻ đã biết sử dụng cơ chế liên tưởng trong trí nhớ để nhận lại
và nhớ lại các sự vật và hiện tượng.
Trí nhớ có ý nghĩa đã thể hiện rõ nét khi gọi tên đồ vật, hoa
quả, thức ăn…
Đồng thời với trí nhớ hình ảnh về đồ vật thì âm thanh ngôn ngữ
được trẻ tri giác, hiểu và sử dụng chúng như một phương tiện giao
tiếp ới những người xung quanh tuy ở mức độ đơn giản.
Trí nhớ không chủ định của trẻ ở các dạng hoạt động phát triển
khác nhau và tốc độ phát triển rất nhanh.
Ở độ tuổi này, các loại trí nhớ: hình ảnh, vận động, từ ngữ đều
được phát triển tuy ở mức độ khác nhau nhưng đều được hình
thành và tham gia tích cực trong các hoạt động vui chơi, lao động,
tạo hình… ở trẻ.
3. Tư duy:
Ở trẻ 4 – 5 tuổi các loại tư duy đều được phát triển nhưng
mức độ khác nhau.
Tư duy trực quan hành động vẫn tiếp tục phát triển, nhưng
chất lượng khác với trẻ 3 – 4 tuổi ở chỗ trẻ bắt đầu biết suy nghĩ
xem xét nhiệm vụ hoạt động, phương pháp và phương tiện giải
quyết nhiệm vụ tư duy.
Tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh mẽ và chiếm ưu
thế.
Nhờ có sự phát triển ngôn ngữ, trẻ ở lứa tuổi này đã xuất hiện
loại tư duy trừu tượng.
Một số đặc điểm trong tư duy ở trẻ 4 – 5 tuổi:
Mức độ khái quát ngẫu nhiên giảm dần từ 4 đến 5 tuổi trong
hoạt động tư duy của trẻ.
Mức độ tích cực huy động vốn kinh nghiệm ( liên tưởng ) của trẻ
tăng lên từ 4 – 5 tuổi .
Sự khái quát các dấu hiệu chung giảm dần từ 4 – 5 tuổi,
nhường chỗ cho các chi tiết đặc thù của các sự vật hiện tượng.
Cô giáo cần tổ chức các tiết học vui chơi kích thích sự phát
triển tư duy ở trẻ, kích thích trẻ tìm tòi các dấu hiệu giống nhau,
khác nhau, so sánh các đồ vật, tranh ảnh, hoa quả, đồ chơi.
3. Tưởng tượng:
Nhờ có sự phát triển các hoạt động tạo hình mà khả năng
tưởng tượng của trẻ được nâng lên.
Tranh vẽ của trẻ vừa gần với hiện thực vừa mang tính chủ
quan cảm xúc rõ nét.
Độ phong phú của các hình ảnh tưởng tượng cao nhờ có sự
nhận thức được màu sắc trong thiên nhiên và qua các tiết nghệ
thuật tạo hình.
Trẻ có thể xé dán các mẫu hình, truyện cổ tích, biết bố cục…
những chủ đề gần gũi thân quen đối với trẻ… nếu được thầy cô
giáo, cha mẹ hướng dẫn chu đáo.
Việc hướng dẫn tổ chức các tiết học tạo hình, vẽ, nặn, cho trẻ
tham quan các di tích, danh lam thắng cảnh… rất cần thiết cho sự
tưởng tượng.
IV. SỰ PHÁT TRIỂN XÚC CẢM, TÌNH CẢM, Ý CHÍ:
1. Đời sống xúc cảm và tình cảm:
Các loại tình cảm bậc cao của trẻ phát triển ngày càng rõ nét
hơn so với mẫu giáo bé.
Tình cảm đạo đức ngày càng được phát triển do lĩnh hội được
các chuẩn mực hành vi, quy tắc ứng xử. Trẻ bối rối, cảm thấy có lỗi
khi hành vi phạm sai lầm. Trẻ biết đòi người lớn đánh giá đúng mức
hành vi đúng, sai, tốt, xấu của mình.
Tình cảm trí tuệ cũng phát triển theo hướng tìm hiểu các
nguyên nhân, cội nguồn các hiện tượng tự nhiên và xã hội, cuộc
sống xung quanh trẻ.
Tình cảm thẩm mỹ: Tổng hợp nhiều xúc cảm cùng loại khi
rung cảm trước vẽ đẹp của thiên nhiên, con người, cỏ cây, hoa lá…
tình cảm thẩm mỹ xuất hiện ở trẻ.
Nhìn chung xúc cảm và tình cảm của trẻ phong phú nhưng có
những đặc điểm sau đây:
Dễ dao động, dễ thay đổi, dễ khóc, dễ cười.
Xúc cảm chi phối mạnh vào các hoạt động tâm lý, vì vậy hiện
thực đối với trẻ bao giờ cũng mang màu sắc cảm xúc mạnh mẽ, thích
cái gì thì đòi bằng được cái đó, không thích thì vứt đi…
2. Ý chí:
Tính mục đích phát triển từ tuổi lên 2 khi trẻ đã làm chủ được
một số hành vi của mình. Từng bước một, trẻ 4 tuổi có thể điều
khiển được quá trình ghi nhớ và nhớ lại một “tài liệu” nào đó do
người lớn giao cho, ghi nhớ một bài thơ ngắn trẻ thích.
Do hiểu được nhiều hành vi ngôn ngữ và biết sử dụng những
hành vi ngôn ngữ, trẻ có thể bước đầu vận dụng để lập kế hoạch
hành động và chỉ đạo hành động, trẻ thường nói to khi hành động.
Việc phát triển, bộc lộ ý chí của trẻ mẫu giáo nhỡ phụ thuộc
vào các nhiệm vụ mà người lớn giao cho trẻ ( nhiệm vụ phải vừa
sức với trẻ).
Để giáo dục ý chí cho trẻ, cần phải giáo dục động cơ cho trẻ.
Thường ở lứa tuổi này mục đích và động cơ trùng nhau, chưa tách
ra được.
V. SỰ PHÁT TRIỂN ĐỘNG CƠ VÀ SỰ HÌNH THÀNH HỆ
THỐNG ĐỘNG CƠ:
Cuối tuổi mẫu giáo bé, trong hành vi của trẻ đã xuất hiện
những loại động cơ khác nhau, nhưng những động cơ ấy còn mờ
nhạt, yế ớt, tản mạn.
Đến cuối tuổi mẫu giáo nhỡ, các động cơ đã xuất hiện ở tuổi
mẫu giáo bé được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt đến cuối tuổi mẫu
giáo nhỡ và lớn thì những động cơ đạo đức thể hiện thái độ của trẻ
đối với những người khác có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong
sự phát triển các động cơ hành vi.
Từ tuổi mẫu giáo nhỡ, những động cơ “ vì xã hội” bắt đầu
chiếm vị trí ngày càng lớn trong số các động cơ đạo đức. Trong thời
kỳ này, trẻ đã hiểu rằng những hành vi của chúng có thể mang lại lợi
ích cho những người khác và chúng bắt đầu thực hiện những công
việc vì người khác theo sáng kiến của riêng mình.
Động cơ hành vi của trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn trở nên nhiều
màu nhiều vẻ: động cơ muốn tự khẳng định mình, động cơ muốn
nhận thức, muốn khám phá thế giới xung quanh, động cơ thi đua,
động cơ xã hội… Cần phải quan tâm đến nội dung động cơ của trẻ,
cần phải phát huy động cơ tích cực và ngăn chặn động cơ tiêu cực.
Ở lứa tuổi này đã bắt đầu hình thành quan hệ phụ thuộc theo
thứ bậc của các động cơ, được gọi là hệ thống thứ bậc các động cơ.
Đó là một cấu tạo tâm lý mới trong sự phát triển nhân cách của trẻ
mẫu giáo.
Trong hệ thống thứ bậc này, các động cơ được sắp xếp theo ý
nghĩa quan trọng của mỗi động cơ đối với bản thân đứa trẻ. Trước
một công việc, mỗi trẻ em đều có thể có một hệ thống thứ bậc các
động cơ thúc đẩy. Sự khác nhau giữa trẻ em ở đây rõ nhất là trong
hệ thống thứ bậc của động cơ, xem động cơ nào chiếm ưu thế nhất.
Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào sự giáo dục của người lớn và ảnh
hưởng của cuộc sống bên ngoài mà trẻ tiếp xúc.
Hệ thống thứ bậc các động cơ được hình thành ở tuổi này
khiến cho toàn bộ hành vi của trẻ nhằm theo một xu hướng nhất
định. Đây là điểm khác với hành vi của trẻ mẫu giáo bé.
Ở trẻ mẫu giáo nhỡ trở đi, hành vi của chúng tương đối dễ xác
định. Nếu động cơ vì xã hội chiếm ưu thế thì trẻ sẽ thực hiện những
hành vi mang tính đạo đức tốt đẹp. Ngược lại nếu động cơ nhằm
thoả mãn quyền lợi riêng chiếm ưu thế thì trong nhiều trường hợp
trẻ sẽ hành động nhằm tìm kiếm những quyền lợi cá nhân ích kỷ,
dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng về quy tắc đạo đức xã hội.
Đối với những đứa trẻ này cần áp dụng những biện pháp giáo dục
thích hợp, có hiệu quả nhằm thay đổi những cơ sở của nhân cách đã
được hình thành một cách bất lợi này, trước hết phải cảm hoá trẻ
bằng tình yêu thương, đồng thời lại đòi hỏi ở chúng sự yêu thương
và quan tâm đến những người xung quanh, tạo ra những tình huống
để gợi lên ở trẻ những hành vi đạo đức tốt đẹp.
Bài 8 : ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
TRẺ TUỔI MẪU GIÁO LỚN
I. HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN:
Học tập ở mẫu giáo lớn vẫn là “ Học mà chơi, chơi mà học”.
Học theo nghĩa là chơi theo một trình tự hành động gần giống như
học, bởi lẽ việc thiết kế “ Học mà chơi” thể hiện:
Nội dung học vừa nhẹ nhàng, vừa hấp dẫn trẻ, đối tượng của
“tiết học “ là những kiến thức rất cụ thể, trực quan sinh động.
Các trình tự học tập diễn ra giống với tiết học, nhưng không
nghiêm ngặt, căng thẳng như tiết học. Nhưng tiết học vẫn đủ các
bước lên lớp như: tổ chức lớp, tiến hành tiết dạy ( vào bài, nêu câu
hỏi đặt vấn đề, giảng giải khái niệm), kết thúc tiết dạy bằng cách cho
trẻ nhắc lại những khái niệm đã học ( củng cố bài)…
Những chức năng tâm lý diễn ra trong “ tiết học “ giống như
tiết học ở lớp một, học sinh phải chú ý nghe cô hướng dẫn, giảng
giải, phải sử dụng các hình thức nhớ, các thao tác tư duy diễn ra
theo yêu cầu của tiết học. Ý thức được huy động đến mức tối đa để
hiểu bài.
Quan hệ bạn bè trong khi “ Học mà chơi “ cũng được thiết lập
gần như quan hệ bạn bè ở lớp một, quan hệ cô và trẻ cũng tương tự
như cô giáo và học sinh ở lớp một nghĩa là cô có thể đứng “giảng
bài” nhưng cũng có thể ngồi cùng trẻ để giải thích, phân tích chứng
minh. Ngôn ngữ của cô vừa mạch lạc, rõ ràng vừa diễn cảm, đặc biệt
ở môn truyện, thơ… lại kèm cả tranh, ảnh…
Các “tiết” học âm nhạc, nghệ thuật tạo hình… đã khơi dậy
hứng thú học tập thật sự đối với trẻ.
Tóm lại: Trẻ tập làm quen với các tiết học để lĩnh hội những
tri thức đơn giản gần gũi đối với trẻ, nhưng là tiền đề để trẻ vào lớp
một. Trẻ dần dần nhận thức được nhiệm vụ học tập, bổn phận,
trách nhiệm của học sinh phải làm gì cho cô giáo vui lòng, bạn bè
yêu mến.
II. SỰ PHÁT TRIỂN CHÚ Ý CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN:
Nhiều phẩm chất chú ý của trẻ đã được phát triển, trẻ biết
hướng ý thức của mình vào các đối tượng cần cho vui chơi, học tập
hoặc lao động tự phục vụ.
Trẻ có khả năng chú ý có chủ định từ 37 – 51 phút, đối tượng
chú ý hấp dẫn, nhiều thay đổi, kích thích được sự tò mò, ham hiểu
biết của trẻ.
Trẻ có thể phân phối được chú ý vào 2,3 đối tượng cùng một
lúc, tuy nhiên thời gian phân phối chú ý chưa bền vững, dễ dao
động.
Di chuyển chú ý của trẻ nhanh, nếu sự hướng dẫn di chuyển
tốt. Sự phân tán chú ý ở trẻ còn mạnh, nhiều khi trẻ không tự chủ
được do xung lực bản năng chi phối. Do vậy cần thay đổi đồ chơi,
trò chơi hấp dẫn hơn.
Ở giai đoạn này ý nghĩa của âm thanh làm cho trẻ đã chú ý
nhiều. Từ âm thanh bên ngoài, trẻ biết chú ý tập trung vào sự suy
nghĩ, cảm xúc bên trong óc trẻ.
Cần luyện tập các phẩm chất chú ý cho trẻ qua các trò chơi và các
tiết học.
III. SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ TUỔI MẪU
GIÁO LỚN:
Trẻ sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ theo các hướng:
Nắm vững ngữ âm và ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ: Trẻ
biết đọc diễn cảm, biết dùng điệu bộ bổ sung cho ngôn ngữ nói.
Vốn từ và cơ cấu ngữ pháp phát triển.
Các tính chất ngôn ngữ thường gặp ở trẻ 5 – 6 tuổi là:
Ngôn ngữ giải thích, trẻ có nhu cầu nhận sự giải thích và cũng
thích giải thích cho các bạn.
Ngôn ngữ tình huống (hoàn cảnh) do giao tiếp với người xung
quanh bằng những thông tin mà trẻ trực tiếp tri giác được trong
khung cảnh.
Tính mạch lạc rõ ràng: do vốn từ của trẻ chiếm 50% là danh
từ, nên câu nói của trẻ thường ngắn gọn, rõ ràng.
Tính địa phương trong ngôn ngữ nền văn hoá của địa phương,
cộng đồng thể hiện rõ trong ngôn ngữ của trẻ ( nói ngọng, nói mất
dấu …)
Tính cá nhân đã bộc lộ rõ qua các sắc thái khác nhau của trẻ,
đặc biệt ở chức năng ngôn ngữ biểu cảm
Việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp và các tính chất của
ngôn ngữ ở trẻ phụ thuộc phần lớn vào việc hướng dẫn và sự gương
mẫu về lời nói của người lớn.
III. SỰ PHÁT TRIỂN CÁC QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA
TRẺ MẪU GIÁO LỚN:
Các hiện tượng tâm lý như tri giác, trí nhớ, tưởng tượng về cơ
bản là sự nối tiếp sự phát triển ở lứa tuổi từ 4 – 5 tuổi nhưng chất
lượng mới hơn. Thể hiện ở:
Mức độ phong phú của các kiểu loại
Mức độ chủ định các quá trình tâm lý rõ ràng hơn, có ý thức
hơn.
Tính mục đích hình thành và phát triển ở mức độ cao hơn.
Độ nhạy cảm của các giác quan được tinh nhạy hơn.
Khả năng kiềm chế các phản ứng tâm lý được phát triển.
Ở đây chúng ta chỉ đề cập tới quá trình tâm lý phát triển mạnh
mẽ và đặc trưng nhất, đó là tư duy.
Sự phát triển tư duy ở độ tuổi này mạnh mẽ về kiểu loại, các
thao tác và thiết lập nhanh chóng các mối quan hệ giữa các sự kiện,
hiện tượng, thông tin giữa mới và cũ, gần và xa…
Đặc tính chung của sự phát triển tư duy:
Trẻ đã biết phân tích tổng hợp không chỉ dừng lại ở đồ vật,
hình ảnh mà ngay cả từ ngữ.
Tư duy của trẻ dần dần mất đi tính duy kỷ, tiến dần đến
khách quan, hiện thực hơn.
Dần dần trẻ phân biệt được thực và hư.
Đã có tư duy trừu tượng với các con số, không gian, thời gian,
quan hệ xã hội…
Ý thức rõ về những ý nghĩ, tình cảm của mình, trách nhiệm đối
với hành vi.
Các phẩm chất của tư duy đã bộc lộ đủ về cấu tạo và chức
năng hoạt động của nó như tính mục đích, độc lập sáng tạo, tính
linh hoạt, độ mềm dẻo…
Ở trẻ 5 – 6 tuổi phát triển cả 3 loại tư duy, tư duy hành động
trực quan vẫn chiếm ưu thế. Tuy nhiên do nhiệm vụ hoạt động mà
cả loại tư duy hình ảnh trực quan, tư duy trừu tượng dược phát
triển ở trẻ. Loại tư duy này giúp trẻ đến gần với hiện thực khách
quan.
V. SỰ PHÁT TRIỂN XÚC CẢM, TÌNH CẢM VÀ Ý CHÍ
CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN:
1. Sự phát triển xúc cảm và tình cảm:
Ở lứa tuổi này trẻ xuất hiện tình cảm bạn bè.
Đời sống xúc cảm, tình cảm ổn định hơn so với trẻ 4 – 5 tuổi,
mức độ phong phú, phức tạp tăng dần theo các mối quan hệ giao
tiếp với những người xung quanh.
Các sắc thái xúc cảm con người trong quan hệ với các loại lứa
tuổi khác nhau, vị trí xã hội khác nhau, được hình thành như: Tình
cảm mẹ con, ông bà, anh chị em, tình cảm với cô giáo, với người
thân, người lạ…
Tuy nhiên đời sống xúc cảm của trẻ còn dễ dao động, mang
tính chất tình huống.
Tình cảm trí tuệ: Tình cảm trí tuệ của trẻ phát triển, mỗi nhận
thức mới đều kích thích niềm vui, hứng thú, sự say mê thích thú
của trẻ; tính tò mò ham hiểu biết, làm nảy sinh nhiều xúc cảm tích
cực; trong vui chơi, học tập, lao động tự phục vụ nhiều thành công
thất bại củng cố sự phát triển tình cảm trí tuệ ở trẻ.
Tình cảm đạo đức: Do lĩnh hội được ý nghĩa các chuẩn mực
hành vi tốt, xấu. Qua vui chơi giao tiếp với mọi người; do các thói
quen nếp sống tốt được gia đình, các lớp mẫu giáo xây dựng cho
trẻ… Trẻ ý thức được nhiều hành vi tốt đẹp cần thực hiện để vui
lòng mọi người.
Tình cảm thẩm mỹ: Qua các tiết học nghệ thuật tạo hình, âm
nhạc, tìm hiểu môi trường xung quanh… Cùng với những nhận thức
về cái đẹp tự nhiên, hài hoà về bố cục, sắp xếp trong gia đình và lớp
học. Trẻ ý thức rõ nét về cái đẹp cái xấu theo chuẩn ( lúc đầu theo
chuẩn của bé dần dần phù hợp với đánh giá của những người xung
quanh ) xúc cảm thẩm mỹ, óc thẩm mỹ phát triển.
3. Sự phát triển ý chí:
Do có khả năng làm chủ được nhiều hành vi, được người lớn
giao cho nhiều việc nhỏ… Trẻ dần dần đã xác định rõ mục đích của
hành động. Trẻ dần dần tách động cơ ra khỏi mục đích với sự cố
gắng hoàn thành nhiệm vụ.
Trẻ muốn chơi trò chơi, trẻ muốn được nghe kể chuyện nhiều
hơn nhưng không được cô giáo đáp ứng, phải chuyển trò chơi mà
trẻ không thích.
Tính mục đích càng ngày càng được trẻ ý thức và cố gắng hoàn
thành công việc.
Tình kế hoạch xuất hiện, trẻ biết sắp xếp “công việc” vui chơi và
phải quét nhà, nhặt rau để khi mẹ về là mọi việc phải xong cho mẹ
hài lòng.
Tinh thần trách nhiệm bản thân dần dần được hình thành ở trẻ.
Sự phát triển ý chí mạnh hay yếu tuỳ thuộc phần lớn vào sự giáo
dục, các biện pháp giáo dục của cha mẹ, cô giáo và những người lớn
xung quanh.
VI. SỰ XÁC ĐỊNH Ý THỨC BẢN NGÃ:
Tiền đề của ý thức bản ngã là việc tự tách mình ra khỏi người
khác đã được hình thành từ cuối tuổi ấu nhi. Tuy nhiên phải trải
qua một quá trình phát triển thì ý thức bản ngã của trẻ mới được
xác định rõ ràng.Đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ mới hiểu được mình
như thế nào, có những phẩm chất gì, những người xung quanh đối
xử với mình ra sao, và tại sao mình có hành động này hay hành
động khác… ý thức bản ngã được thể hiện rõ nhất trong sự tự đánh
giá về thành công và thất bại của mình, về những ưu điểm và
khuyết điểm của bản thân, về những khả năng và cả sự bất lực nữa.
Để đánh giá bản thân một cách đúng đắn, đầu tiên đứa trẻ phải
học cách đánh giá người khác và nghe những người xung quanh đánh
giá mình như thế nào.
Thoạt đầu sự đánh giá của trẻ về người khác còn phụ thuộc
nhiều vào thái độ của nó đối với người này. Chẳng hạn mọi đứa trẻ
đều đánh giá mẹ mình bao giờ cũng tốt.
Cuối tuổi mẫu giáo lớn, trẻ nắm được kỹ năng so sánh mình
với người khác, điều này là cơ sở để tự đánh giá một cách đúng đắn
hơn và cũng là cơ sở để noi gương những người tốt, việc tốt.
Ở tuổi mẫu giáo lớn, sự tự ý thức còn được biểu hiện rõ trong
sự phát triển giới tính của trẻ. Trẻ không những nhận ra mình là trai
hay gái mà còn biết nếu mình là trai hay gái thì hành vi này phải thể
hiện như thế nào cho phù hợp với giới tính của mình.
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng giúp trẻ điều khiển và
điều chỉnh hành vi của mình dần dần phù hợp với những chuẩn
mực, những quy tắc xã hội, từ đó hành vi của trẻ mang tính xã hội.
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng còn cho phép trẻ thực
hiện các hành động có chủ tâm hơn. Nhờ đó các quá trình tâm lý
mang tính chủ định rõ rệt.
VII. BƯỚC NGOẶT 6 TUỔI VÀ SỰ CHUẨN BỊ VỀ MẶT
TÂM LÝ CHO TRẺ VÀO HỌC LỚP 1:
Thời điểm lúc trẻ tròn 6 tuổi là một bước ngoặt quan trọng của
trẻ em. Ở độ tuổi mẫu giáo lớn là thời kỳ trẻ đang tiến vào bước
ngoặt đó với sự biến đổi của hoạt động chủ đạo. Hoạt động vui chơi
vốn giữ vị trí chủ đạo trong trong suốt thời kỳ mẫu giáo, nhưng vào
cuối tuổi này không còn giữ nguyên dạng hoàn chỉnh của nó, những
yếu tố của hoạt động học tập bắt đầu nảy sinh.
Cuối giai đoạn mẫu giáo lớn, trẻ đã có những tiền đề cần thiết
của sự chín muồi đến trường về các mặt tâm sinh lý, nhận thức, trí
tuệ ngôn ngữ và tâm thế để trẻ có thể thích nghi bước đầu với điều
kiện học tập ở lớp 1.
Việc chuẩn bị cho trẻ vào học lớp 1 là chuẩn bị những tiền đề,
những yếu tố của hoạt động học tập để có thể thích ứng tốt nhất,
nhanh nhất đối với việc học ở lớp 1. Có thể có hai lĩnh vực cần
chuẩn bị:
Chuẩn bị chung, tổng quát cho trẻ bao gồm:
Chuẩn bị về thể lực: bảo đảm cho trẻ khoẻ về thể xác và tinh
thần, dẻo dai và linh hoạt, năng lực phối hợp các vận động cơ bản.
Chuẩn bị về trí tuệ: óc tò mò ham hiểu biết, óc tưởng tượng,
chú ý, trí nhớ, tư duy…
Chuẩn bị về một số nét nhân cách: một số nét ý chí của nhân
cách (Tính chủ định, tự lập, kiên trì…), một số nét nhân cách biểu
hiện thái độ đối với xã hội và bản thân (lòng tự trọng, tự đánh giá,
tinh thần hợp tác…)
Chuẩn bị chuyên biệt: là sự chuẩn bị những năng lực và phẩm
chất chuyên biệt, trực tiếp giúp trẻ dễ dàng và nhanh chóng thích
ứng với việc tham gia vào các tiết học, môn học ở lớp 1. Cụ thể là:
Chuẩn bị cho trẻ dễ làm quen, thích ứng với hình thức “ tiết
học “ ở lớp 1 và cấp tiểu học sau này.
Chuẩn bị về động cơ học tập.
Chuẩn bị về nhận thức nhiệm vụ học tập.
Chuẩn bị về cách học.
Việc chuẩn bị tốt các nội dung trên sẽ giúp trẻ nhanh chóng
thích nghi, thích ứng trường học.
( Hết )
Nguồn: tamlyhoc.net
Edited, Formated & Converted by Lửa
Hanoi, 25/08/2007
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tam_ly_hoc_tre_em_6638.pdf