Tâm lý học đại cương bài tập học kỳ

Nhờ hoạt động nhận thức, chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực xung quanh ta, mà cả hiện thực của bản thân ta nữa. Không chỉ phản ánh cái bề ngoài mà cả cái bản chất bên trong. Không chỉ phản ánh cái hiện thực mà cái đã qua và cái sẽ tới, các quy luật phát triển của hiện thực nữa. Khẳng định của V.I.Lênin cho thấy tư duy có đặc điểm cơ bản là có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính và lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng đắn trong nhận thức. Tư duy là mức độ nhận thức cao hơn hẳn về chất so với nhận thức cảm tính, nhưng tư duy không tách rời khỏi nhận thức cảm tính , mặc dù là trong những điều kiện của khoa học hiện đại, việc nghiên cứu một hiện tượng hay quá trình nào đó được bắt đầu từ những sự trừu tượng hóa cao nhất, từ những giả thuyết toán học, nhưng cuối cùng nó vẫn phải dựa trên những tài liệu cảm tính, trên kinh nghiệm, cơ sở trực quan sinh động. Nhận thức cảm tính là một khâu có mối liên hệ trực tiếp giữa ý nghĩ, tư duy với hiện thực, là cơ sở của những khái quát

doc12 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 4736 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tâm lý học đại cương bài tập học kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang MỤC LỤC 1 A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2 I. Khái niệm ý thức 2 II. Hai giai đoạn của quá trình nhận thức. 3 1. Khái niệm nhận thức 3 2. Trực quan sinh động ( Nhận thức cảm tính) 4 a. Khái niệm 4 b. Cảm giác 5 c. Tri giác 5 d. Biểu tượng 5 3. Tư duy trừu tượng ( Nhận thức lý tính) 6 a. Khái niệm 6 b. Phán đoán 7 c. Suy luận 7 III. Phân tích luận điểm của Lênin – con đường biện chứng của nhận thức chân lý 8 1. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng 8 a. Trực quan sinh động 8 b. Tư duy trừu tượng 9 2. Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn 9 3. Ý nghĩa 10 C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 11 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12 A. ĐẶT VẤN ĐỀ. Nhận thức là quá trình ý thức của con người, phản ánh thế giới xung quanh, tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào ý thức. Thừa nhận thế giới hiện thực và sự phản ánh thế giới đó vào đầu óc con người và là cơ sở lí luận của nhận thức luận theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Quá trình đó hình thành và phát triển trên cơ sở hoạt động của con người và thực tiễn xã hội. V.I.Lênin chỉ rõ “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” – đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan,có mối quan hệ biện chứng với nhau. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. Khái niệm ý thức. Ý thức là năng lực hiểu được các tri thức về thế giới khách quan mà con người tiếp thu được và năng lực hiểu được thế giới chủ quan trong chính bản thân mình nhờ đó con người có thể cải tạo thế giới khách quan và hoàn thiện bản thân mình. - Ý thức phản ánh những sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan chứ không phải là cái gì siêu nhiên từ không trung nhập vào đầu chúng ta. - Ý thức là phản ánh của sự phản ánh về tâm lý con người. - Ý thức còn là sự nhận thức về thế giới chủ quan trong chính bản thân mình. Con người có khả năng phân tích, đánh giá được thế giới tâm lý của mình.Đó là hình thức phản ánh tâm lý. II. Hai giai đoạn của quá trình nhận thức. 1. Khái niệm nhận thức Lý luận nhận thức hay còn gọi là nhận thức luận được hình thành từ khi triết học mới ra đời. Tất cả các trào lưu triết học đều xuất phát từ thế giới quan của mình đưa ra những hệ thống, quan điểm nhất định về vấn đề nhận thức (trả lời câu hỏi). Đó là việc con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không ? Lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới và tìm ra chân lý. Mục đích của nhận thức là tìm ra các quy luật nhằm biến đổi và cải tạo thế giới, bắt thế giới phục vụ mục tiêu, nhu cầu, nhiệm vụ của bản thân con người. Như thế cũng có nghĩa là tìm ra chân lý. Bản chất của nhận thức là sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan hay là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người ở trình độ cao. Nhận thức là một quá trình. Để nhận thức được cần có một thế giới khách quan, một bộ óc bình thường và hoạt động lao động. Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận những nguyên lý cơ bản của lý luận nhận thức sau đây: - Phải thừa nhận rằng có một thế giới sự vật triết học tồn tại khách quan bên ngoài chúng ta và không lệ thuộc vào chúng ta. Quan điểm này nhằm chống lại chủ nghĩa duy tâm vì chủ nghĩa duy tâm không thừa nhận quan điểm này. - Giữa hiện tương và “ vật tự nó” không có sự khác nhau về nguyên tắc. quan điểm này khẳng định khả năng nhận thức của con người chống lại thuyết “ bất khả tri”. Can tơ – người theo thuyết bất khả tri – cho rằng “ vật tự nó” là cái không thể nhận thức được bản chất của sự vật. - Nhận thức là một quá trình đi từ cái chưa biết, từ cái biết ít đến nhiều và sâu sắc hơn. Quan điểm này nhằm chống lại quan điểm của chủ nghĩa siêu hình về nhận thức. Chủ nghĩa siêu hình cho rằng nhận thức của con người là không biến đổi. - Thực tiễn là nguồn gốc và tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Việc đưa quan niệm này vào lý luận nhận thức là đóng góp rất quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng. * Quá trình nhận thức: Trong lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng cần chú ý: không được coi nhận thức chỉ một phần là xong g “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn là biện chứng của quá trình nhận thức chân lý” ( Lênin). Nói một cách khác quá trình nhận thức bao gồm quá trình nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Trường phái duy cảm cho rằng nhận thức chỉ là nhận thức cảm tính. Họ tuyệt đối hóa nhận thức cảm tính cho rằng chỉ có những gì thông qua nhận thức cảm tính mới là chân lý. Họ đã phủ nhận vai trò của nhận thức lý tính. Trường phái duy lí lại cho rằng chỉ có những gì thông qua nhận thức lý tính mới là chân lý. Họ đã phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính. Cả hai trường phái này đều tồn tại trước triết học Mác. Thực ra nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính chỉ là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức mà thôi. Nhận thức không phải là hành động nhất thời, làm một lần là xong, dường như lặp đi lặp lại, quy trở về chỗ xuất phát nhưng trên một cơ sở cao hơn ( điểm tăng trưởng của ý thức). 2. Trực quan sinh động ( nhận thức cảm tính) a. Khái niệm. Trực quan sinh động là sự phản ánh trực tiếp khách thể bằng các giác quan và được diễn ra dưới ba hình thức nhận thức cơ bản kế tiếp nhau như cảm giác, tri giác, biểu tượng đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức được gắn liền với thực tiễn trực quan sinh động còn gọi là nhận thức cảm tính. Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau: b. Cảm giác. Là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng, khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hóa những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức. Lênin viết “ Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Nếu dừng lại ở cảm giác con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể, riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ, bởi vì muốn hiểu biết bản chất phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn. Ví dụ: Khi ta ăn một thứ gì đấy ta cảm thấy ngọt, cay, hoặc nóng, lanh….Khi sự vật thôi tác động vào cơ quan cảm giác thì cảm giác không còn nữa. c. Tri giác. Hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng đâu là thuộc tính không đặc trưng và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do vậy, nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn. d. Biểu tượng. Biểu tượng là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sinh vật. Như vậy, cảm giác, tri giác, biểu tượng là những hình thức của nhận cảm tính có liên quan hữu cơ với nhau và phản ánh trực tiếp vẻ ngoài sự vật, hiện tượng khách quan. Giai đoạn này có các đặc điểm: + Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức. + Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên, cái bản chất và không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vât. + Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính. 3. Tư duy trừu tượng ( Nhận thức lý tính) a. Khái niệm Nhận thức lý tính là một hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, nó phản ánh khái quát những mối liên hệ, những thuộc tính chung của một lớp sự vật, hiện tượng nhất định. Khái niệm có tính khách quan được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn, là kết quả của sự khái quát từ trực quan sinh động mà có. Ví dụ : “ Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng”. Nhận thức lý tính gồm các khái niệm, hình thức, phán đoán và lập luận. Khái niệm là hình thức của tư duy, trong đó phản ánh các dấu hiệu cơ bản khác biệt của của sự vật đơn nhất hay lớp các sự vật, hiện tượng nhất định. Khái niệm được biểu đạt bằng từ hoặc cụm từ. Ví dụ: hình tam giác, cái bàn, chớp, tia lửa,….Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học. b. Phán đoán Là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Là một sự phán đoán vì có sự liên kết khái niệm “ dân tộc Việt Nam” với khái niệm “ anh hùng”. Theo trình độ phát triển của nhận thức phán đoán được phân chia làm ba loại: . Phán đoán đơn nhất. Ví dụ: Đồng dẫn điện. . Phán đoán đặc thù. Ví dụ : Đồng là kim loại. . Phán đoán phổ biến. Ví dụ : Mọi kim loại đều dẫn điện. Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng lớn nhất về đối tượng. Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái phổ biến , chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến . Chẳng hạn qua các phán đoán ví dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc tính dẫn điện giống nhau thì giữa đòng với các kim loại khác còn có các thuộc tính giống nhau nào khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức nhận thức suy luận. c. Suy luận Là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Ví dụ: nếu liên kết các phán đoán “ đồng dẫn điện” với phán đoán “ đồng là kim loại” ta rút ra được nhiều tri thức mới “mọi kim loại đều dẫn điện”. Tùy theo sự kết hợp phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch. Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức một cách nhanh chóng và đúng đắn. - Giai đoạn này có hai đặc điểm: . Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng. . Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng. Nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật. III. Phân tích luận điểm của Lênin – con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý Với luận điểm: “ Con đường nhận thức của con người từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Lê nin muốn nói đến quá trình nhận thức sinh vật của con người hay nói cách khác đó là quá trình con người đạt được chân lý. Qua trình đó được Lê nin diễn đạt qua hai giai đoạn: 1. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Trực quan sinh động với tư duy trừu tượng gắn bó thống nhất với nhau kế tiếp nhau và bổ sung lẫn nhau trong quá trình con người nhận thức thế giới nhưng chúng lại khác nhau: a. Trực quan sinh động: + Con người nhận thức được hình ảnh bên ngoài trực tiếp cụ thể về thế giới xung quanh. + Là sự nhận thức bề ngoài chưa đi vào bên trong, chưa nắm được bản chất và quy luật của hiện thực khách quan. Do đó nhận thức chưa được sâu sắc, chưa đầy đủ những mặt tích cực của giai đoạn này là sát thực tế đưa vào kinh nghiệm là chủ yếu. + Nếu nhận thức của con người chỉ dừng lại ở đây thì chưa đủ vì với những tri thức ấy con người chưa cải tạo được hiện thực Lênin nói “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” tức là muốn nói nhận thức của con người phải được tiếp tục phát triển lên giai đoạn tư duy trừu tượng. b. Tư duy trừu tượng Là sự nhận thức đã đi vào bản chất phản ánh được quy luật của sự vật đó là chân lý. Tư duy trừu tượng khác với trực quan sinh động là nó không gắn với sự tác động trực tiếp của sự vật mà thường tách khỏi hiện thực để phản ánh khái quát sự vật trong tính tất yếu và toàn diện của nó. Điều đó sẽ có nguy cơ phản ánh sai lệch sự vật, do đó tư duy trừu tượng phải được kiểm tra bằng thực tiễn đó là thực chất của bước chuyển từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng tuy khác nhau nhưng thống nhất ở chỗ trực quan sinh động cung cấp tài liệu cho tư duy trừu tượng không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Ngược lại, không đưa nhận thức cảm tính phát triển lên nhận thức lý tính thì nhận thức không phản ánh được bản chất của sự vật. Nhận thức của con người phải đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng nhưng nếu dừng lại ở đây thì chưa được vì đến tư duy trừu tượng ta thu được quy luật lý luận. Liệu những lý luận ấy có đúng không? Lý luận phải quay trở lại thực tiễn kiểm tra tính chân thực. 2. Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn Giai đoạn từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn mới hoàn thành một chu trình của quá trình nhận thức. Ở đây thực tiễn là điểm bắt đầu và điểm kết thúc của chu trình đó. Nhưng sự kết thúc này lại là điểm bắt đầu của chu trình tiếp theo mới và cao hơn, cứ như thế nhận thức của con người từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Nhận thức của con người ngày càng đi sâu nắm bắt được các quy luật của thế giới khách quan phục vụ cho hoạt động thực tế có hiệu quả. Thực tiễn không ngừng vận động biến đổi và phát triển, vì vậy, nhận thức lý tính phải quy lại thực tiễn để bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp, kiểm tra, khẳng định chân lý sai lầm. Mục đích cuối cùng của nhận thức là để phục vụ hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Một vòng của quá trình nhận thức được bắt đầu từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Kết thúc vòng này, cũng là sự bắt đầu của vòng mới của nhận thức mới sâu sắc hơn, toàn diện hơn. Cứ như thế nhận thức của con người là vô tận. 3. Ý nghĩa. Với luận điểm trên, Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của quá trình nhận thức của con người. Nhận thức của con người phải xuất phát từ thực tiễn và giải quyết những yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi. - Hai giai đoạn nhận thức gắn bó chặt chẽ không tách rời: + Nếu tuyệt đối nhận thức cảm tính (TQSD) sẽ dẫn đến chủ nghĩa duy cảm. + Nếu tuyệt đối hóa nhận thức lý tính (TDTT) sẽ dẫn tới chủ nghĩa duy lý. - Phải từ thực tế, từ kinh nghiệm và tổng kết thành lý luận đó định ra đường lối, chính sách đúng phù hợp với thực tiễn. Ngược lại cũng phải biết vận dụng quy luật lý luận và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể thành giáo điều dập khuôn máy móc thoát ly thực tế. C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ. Nhờ hoạt động nhận thức, chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực xung quanh ta, mà cả hiện thực của bản thân ta nữa. Không chỉ phản ánh cái bề ngoài mà cả cái bản chất bên trong. Không chỉ phản ánh cái hiện thực mà cái đã qua và cái sẽ tới, các quy luật phát triển của hiện thực nữa. Khẳng định của V.I.Lênin cho thấy tư duy có đặc điểm cơ bản là có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính và lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng đắn trong nhận thức. Tư duy là mức độ nhận thức cao hơn hẳn về chất so với nhận thức cảm tính, nhưng tư duy không tách rời khỏi nhận thức cảm tính , mặc dù là trong những điều kiện của khoa học hiện đại, việc nghiên cứu một hiện tượng hay quá trình nào đó được bắt đầu từ những sự trừu tượng hóa cao nhất, từ những giả thuyết toán học,…nhưng cuối cùng nó vẫn phải dựa trên những tài liệu cảm tính, trên kinh nghiệm, cơ sở trực quan sinh động. Nhận thức cảm tính là một khâu có mối liên hệ trực tiếp giữa ý nghĩ, tư duy với hiện thực, là cơ sở của những khái quát kinh nghiệm dưới dạng các quy luật. Ngược lại, tư duy và những kết quả của nó cũng ảnh hưởng đến các quá trình nhận thức cảm tính, tính có ý nghĩa ổn định của tri giác. Ph.Ăngghen đã nói : “ Nhập vào với con mắt của chúng ta chẳng những có cảm giác khác mà còn có hoạt động tư duy của ta nữa”. Trên đây là bài tiểu luận của em, do kinh nghiệm và hiểu biết còn hạn chế mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến cho bài viết thêm phần hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Tâm lý học đại cương ( Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Năm 2009). Chương 5 : Lý luận nhận thức của giáo trình khoa Mác – Lênin tại trường Đại học Mỏ - Địa chất. Từ điển triết học. NXB Tiến bộ - 1986. Từ điển Tiếng Việt. NXB Khoa học xã hội – 1988. Giáo trình của bộ môn Triết học, Khoa Mác – Lênin, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Website: www.google.com.vn.Từ khóa: “ Nhận thức của con người từ hiện thực khách quan đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tương đến thực tiễn”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTâm lý học đại cương bài tập học kỳ.doc