Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này

Khoản 1 Điều 80 quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng mới chỉ quy định về thẩm quyền ra lệnh, nội dung lệnh bắt, trình tự, thủ tục bắt và thời điểm bắt; chưa có quy định về căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Khi áp dụng BPNC này, thì CQTHTT lại phải căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 88 về căn cứ áp dụng BPNC tạm giam trong khi Điều 80 không viện dẫn về căn cứ các bị can, bị cáo để tạm giam sang Điều 88. Như vậy, không có sự liên hệ logic giữa các điều luật mà buộc người thực hiện phải tự nghiên cứu và áp dụng. Do đó, Điều 80 cần được cơ cấu lại theo hướng là Khoản 1 trong điều luật quy định về căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Về việc bắt giam bị cáo ngay tại phiên toà, cần có quy định theo hướng phải có lệnh tạm giam vì nếu chỉ tuyên trong phần quyết định của bản án thì không thể tiếp tục tạm giam bị cáo do bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, chưa được đem ra thi hành, trừ trường hợp bản án được đem ra thi hành ngay theo quy định tại Khoản 2 Điều 225 BLTTHS. Đồng thời theo quy định tại Khoản 3 Điều 243 BLTTHS: “Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn”. Quy định này áp dụng cho Toà án cấp phúc thẩm còn nội dung và phạm vi áp dụng khác với cấp sơ thẩm. Cụ thể, nếu ở cấp sơ thẩm việc bắt bị cáo tại phiên toà chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho thấy “bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội” thì ở cấp phúc thẩm chỉ cần bị pháo bị tuyên phạt tù, Hội đồng xét xử phải bắt giam ngay, trừ trường hợp quy định tại Điều 261 BLTTHS

doc16 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 4501 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU. Biện pháp ngăn chặn( BPNC) là một chế định pháp lí quan trọng trong bộ luật tố tụng hình sự ( BLTTHS) Việt Nam. Việc áp dụng các BPNC có ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ của TTHS cũng như kết quả của đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung. Trong hệ thống các BPNC, tạm giam là biện pháp quan trọng và nghiêm khắc nhất. BLTTHS đã có những quy định cụ thể về các yếu tố của biện pháp tạm giam. Vậy trong thực tế, việc áp dụng biện pháp tạm giam đã đạt những kết quả nào, còn những gì hạn chế, bất cập và giải pháp nào để thực thi tốt, nâng cao hiệu quả của biện pháp tạm giam? Chúng ta cùng tìm hiểu để làm rõ Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này. NỘI DUNG. Khái quát chung về biện pháp tạm giam. Khái niệm BPNC tạm giam. BPNC là biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố; khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội Theo quy định của BLTTHS, hệ thống các BPNC trong TTHS bao gồm 6 biện pháp: bắt, tạm giam, tạm giữ, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Trong số các BPNC nêu trên, BPNC tạm giam là BPNC mang tính nghiêm khắc nhất. Các biện pháp khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo chỉ ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại hoặc quyền và lợi ích về tài sản mà không ảnh hưởng đến các quyền tự do khác của công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp. Còn các biện pháp bắt, tạm giữ cũng là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc, cũng hạn chế quyền tự do của công dân, nhưng thời gian hạn chế quyền tự do trong bắt và tạm giữ ngắn hơn nhiều so với tạm giam. Trong vòng 24 giờ sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai, ra quyết định tạm giữ hoặc trả lại tự do cho người bị bắt ( khoản 1 Điều 83). Thời hạn tạm giữ là 3 ngày và tối đa là 9 ngày đối với trường hợp có gia hạn tạm giữ ( Điều 78). Trong khi đó thời hạn tạm giam để điều tra tối đa có thể lên đến 20 tháng (đối với tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại khoản 2 Điều 120). Có thể hiểu tạm giam là BPNC do những người có thẩm quyền của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ( VKS), Toà án (TA) áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị kết án theo đúng trình tự, thủ tục, căn cứ vào trong các trường hợp do luật định, nhằm ngăn chặn việc họ bỏ trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Theo nhiều quan điểm về khái niệm tạm giam, tạm giam chỉ áp dung đối với can, bị cáo, nhưng trong thực tiễn cá chủ thể của cơ quan có thẩm quyền vẫn áp dụng biện pháp tạm giam đối với người bị kết án. Theo hướng dẫn của các cơ quan chức năng thì người bị kết án cũng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp: “ Người bị kết án trong thời gian đang chờ chấp hành hình phạt tù hoặc đang chấp hành hình phạt tù thì bỏ trốn, cơ quan có thẩm quyền đã ra lệnh truy nã sau đó bị bắt và bị áp dụng biện pháp tạm giam”. Đồng thời, tại Điều 250 BLTTHS ghi nhận “ Trong trường hợp huỷ bản án sơ thẩm đề điều trả lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo”. Phải hiểu rằng trong trường hợp này, tạm giam người bị kết án chứ không phải tạm giam bị cáo bởi lúc này bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật và họ tham gia tố tụng với tư cách người bị kết án chứ không phải là bị cáo nữa, do vậy trong khái niệm BPNC tạm giam cũng cần ghi nhận đối tượng trên. Vai trò, ý nghĩa của việc quy định BPNC tạm giam. Với ý nghĩa là một BPNC, tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh, phòng và chống các loại tội phạm cũng như việc bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân. Cụ thể: Tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước, củng cố, tăng cường pháp chế XHCN, các quyền cũng như lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh khám phá tội phạm, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và hàm oan người vô tội. Tạm giam là phương tiện hữu hiệu để bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất.Bởi đây là biện pháp đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của CQTHTT, đảm bảo sự chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng, ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục phạm tội. Tạm giam tạo cơ sở pháp lí vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Tạm giam thể hiện tính ưu việt của Nhà nước. Đó là biện pháp bảo đảm cho mọi công dân được sống trong một xã hội mà quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn công, xâm hại từ phía các đối tượng nhất định. II- Nội dung BPNC tạm giam trong TTHS. Căn cứ áp dụng BPNC tạm giam. Căn cứ áp dụng BPNC tạm giam được hiểu là những căn cứ luật định theo đó chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam. BLTTHS 2003 không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng BPNC tạm giam mà chỉ quy định các căn cứ áp dụng BPNC nói chung. Điều 79 BLTTHS quy định 4 căn cứ áp dụng BPNC gồm: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm; Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội sẽ tiếp tục phạm tội; Để bảo đảm thi hành án. Trong số các căn cứ áp dụng BPNC trên, căn cứ “ để kịp thời ngăn chặn tội phạm” chỉ áp dụng cho các trường hợp bắt người phạm tội quả tang theo điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, không để xảy ra hoặc hoàn thành hay không để người phạm tội kết thúc hành vi phạm tội của mình, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Căn cứ này không thể là căn cứ áp dụng BPNC tạm giam, vì đối tượng áp dụng BPNC tạm giam là bị can, bị cáo, hành vi phạm tội của họ đã dược thực hiện trong quá khứ. Như vậy, căn cứ áp dụng BPNC tạm giam sẽ có: Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Hành vi này được thể hiện qua việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm có thể bỏ trốn, tiêu huỷ, làm giả, thay đổi chứng cứ, xoá các dấu vết của vụ án, mua chuộc, khống chế người làm chứng, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định và làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Căn cứ này có thể được thực hiện qua các yếu tố phản ánh về nhân thân của các bị can, bị cáo. Họ có thể là những phần tử xấu tái phạm,tái phạm nguy hiểm, tội phạm có tính chất chuyên nghiệp hoặc đe doạ nguwoif làm chứng, người bị hại và sự đe doạ đó có khả năng trỏ thành hiện thực. Để bảo đảm thi hành án: Khi cấn bảo đảm thi hành án, tuỳ theo tính chất của từng vụ vụ án, tuỳ theo nhân thân người bị kết án, Toà án có thể áp dụng BPNC tạm giam đối với bị cáo để bảo đảm thi hành án, còn nếu không có đủ căn cứ cho rằng bị cáo sẽ bỏ trốn, không gây cản trở, khó khăn cho việc thi hành án thì không cần áp dụng biện pháp tạm giam. Đối tượng bị áp dụng BPNC tạm giam. Theo khoản 1 Điều 88 BLTTHS, đối tương có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Bị can là những người đã bị khởi tố về hình sự ( khoản 1 Điều 49), bị cáo là những người đã bị Toà quyết định đưa ra xét xử ( khoản 1 Điều 50). Tuy nhiên, không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị áp dụng BPNC tạm giam mà theo khoản 1 Điều 88, chỉ áp dụng biện pháp này với họ trong 2 trường hợp sau: “Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng” : Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của Khung hình phạt với tội ấy là đến 15 năm tù ( khoản 3 Điều 8 BLHS 1999). Nếu bị can, bị cáo thuộc những trường hợp này, những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam có thể ra lệnh tạm giam ngay mà không cần thêm căn cứ nào khác. “ Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLLH quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc gây cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”. Tội phạm nghiêm trọng là tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt với tội ấy là đến 3 năm tù ( khoản 3 Điều 8 BLHS). Theo quy định của BLTTHS, tạm giam chỉ áp dụng đối với những bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm. Đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù từ 2 năm trở xuống hoặc hình phạt không phải là hình phạt tù thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm, để tạm giam, họ cần có thêm điều kiện thứ hai là có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định được điều kiện trên, phải căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng BPNC khác ít nghiêm khắc. Thể hiện tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa, khoản 2 Điều 88 BLTTHS quy định những trường hợp không áp dụng BPNC tạm giam gồm: bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi và có nới cư trú rõ ràng; bị can, bị cáo là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng. Tuy vậy, những đối tượng này vẫn có thể bị áp dụng BPNC tạm giam trong những trường hợp: bị can, bị cáo trốn và bị bắt theo lênh truy nã; bị can, bị cáo được áp dụng BPNC khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Nhằm mục đích giáo dục, cảm hoá bị can, bị cáo là người chưa thành niên trở về với cuộc sống, đồng thời thể hiện sự quan tâm đặc biệt của nhà nước với nhóm đối tượng này, khoản 3 Điều 303 BLTTHS quy định người chưa thành niên chỉ có thể bị áp dụng BPNC tạm giam trong những trường hợp: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: nếu có đủ căn cứ tạm giam, chỉ áp dụng BPNC này khi họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi: nếu có đủ căn cứ tạm giam, chỉ áp dụng BPNC này khi họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam. Thẩm quyến áp dụng BPNC tạm giam là khả năng của một chủ thể được nhà nước giao cho quyền được quyết định việc tạm giam đối với đối tượng nhất định. Khoản 3 Điều 88 BLTTHS quy định “ Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.” Theo khoản 1 Điều 80 BLTTHS, những người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát ( VKS) nhân dân và VKS quân sự các cấp; Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân ( TAND) và Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó chánh toà phúc thẩm TAND tối cao; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp . Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Như vậy, thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam được quy định cho nhiều cơ quan với nhiều chủ thể khác nhau ở từng giai đoạn tố tụng khác nhau. VKS với chức năng là cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát hoạt động này, đặc biệt đối với lệnh tạm gia của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thủ tục áp dụng BPNC tạm giam. Thủ tục tạm giam là trình tự luật định mà chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng BPNC tạm giam phải tuân thủ một cách triệt để. Với tính chất là BPNC nghiêm khắc nhất, hạn chế quyền tự do của người bị pa dụng trong một thời gian nhất định nên việc áp dụng tạm giam cần phải tuân theo một thủ tục luật định chặt chẽ. Theo quy định của BLTTHS thì việc tạm giam bị can, bị cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh này phải do những người có thẩm quyến kí. Lệnh tạm giam ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam; và giao cho người bị tạm giam một bản. Theo quy định tại khoản 3 Điều 88, lênh tạm giam của cơ quan điều tra phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Tạm giam không chỉ hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do và danh dự của công dân mà còn ảnh hưởng đến cả nhân thân của họ. Chính vì vậy, sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam cần phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và chính quyền xã phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú, làm việc biết. Bên cạnh đó, khi tiến hành tạm giam một người cần phải đảm bảo các thủ tục liên quan khác như: thực hiện việc chăm nom người thân thích, bảo quản tài sản của người bị tạm giam ( Điều 90 BLTTHS). Thời hạn áp dụng BPNC tạm giam. Thời hạn tạm giam trong tố tụng được chia thành: thời hạn tạm giam để điều tra, thời hạn tạm giam để truy tố, thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm, thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm và thời hạn tạm giam để thi hành án. Thời hạn tạm giam để điều tra. Điều 120 quy định thời hạn tạm giam để điều tra không quá 2 tháng đối với tội ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi, huỷ bỏ BPNC tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết hạn tạm giam, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được quy định: đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 1 lần không quá 1 tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 2 lần, lần thứ nhất không quá 2 tháng và lần thứ hai không quá 1 tháng; đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 2 lần, lần thứ nhất không quá 3 tháng, lần thứ hai không quá 2 tháng; đối với tội đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 3 lần, mỗi lần không quá 4 tháng. Như vậy, đối với tội phạm ít nghiêm trọng, thời hạn tạm giam để điều tra tối đa có thể là 3 tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng, thời hạn tạm giam để điều tra có thể là 6 tháng; đối với tội phạm rất nghiêm trọng tối đa có thể là 9 tháng; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tối đa có thể lên đến 16 tháng. Riêng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia hạn lấn 2 quy định tại điểmb khoản 3 Điều 120 đã hết hạn và vụ án có nhiều tính tiết phức tạp mà không có căn cứ thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì VTVKS nhân dân tối cao có thể gia hạn tạm giam lần 3. Trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì VTVKS nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá 4 tháng ( khoản 5 Điều 120). Thời hạn tạm giam để truy tố. Theo khoản 1 điều 166, trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngáy nhận được hồ sơ vụ án và kết luận điều tra, VKS phải ra một trong những quyết định sau: Truy tố bị can trước Toà án bằng bản cáo trạng; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Trong trường hợp cần thiết, VTVKS có thể gia hạn, nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng; không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, thời hạn tạm giam để truy tố đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng tối đa có thể lên đến 30 ngày; đối với tội phạm rất nghiêm trọng tối đa có thể lên đến 45 ngày; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng tối đa có thể lên đến 60 ngày. Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm. Điều 177 quy định “ Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 176 Bộ luật này”. Theo quy định tại Điều 176, thời hạn chuẩn bị xét xử là 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 2 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và 3 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thời hạn tạm giam để mở phiên toà là từ 15 đến 30 ngày. Ngoài ra, đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên toà, thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần thiết thì Toà án có thể ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên toà. Như vậy, thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử tối đa là 75 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 90 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng; 120 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 150 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm. Điều 243 quy định “ Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn. Việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó chánh án TAND tỉnh, TA quân sự cấp quân khu, Chánh toá, Phó Chánh toà phúc thẩm TANDTC quyết định. Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 242 Bộ luật này”. Theo quy định tại Điều 242, TAND tỉnh, TA quân sự cấp quân khu phải mở phiên toà phúc thẩm trong thời hạn 16 ngày; Toà phúc thẩm TAND tối cao, TA quân sự TW phải mở phiên toà phúc thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án. Ngay sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, HĐXX có thể quyết định việc tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm, Điều 228 quy định: đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên toà, thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án. Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam thì HĐXX có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Thời hạn tạm giam bị cáo là 45 ngày, kể từ ngay tuyên án. Tại phiên toà phúc thẩm, theo quy định tại Điều 243, nếu bị cáo đang bị tạm giam, bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên toà thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án. Thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án. 6. Một số quy định khác liên quan đến việc tạm giam. Thứ nhất, về chế độ tạm giam: Trong TTHS, tạm giam là BPNC được áp dụng để bảo đảm cho hoạt động của CQTHTT được diễn ra bình thường và thuận lợi, đồng thời không để cho người phạm tội tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Điều 72 Hiến pháp năm 1992 và Điều 9 BLTTHS đã chỉ rõ: “ không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Theo đó, chừng nào chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị tạm giam vẫn được coi là người chưa có tội. Do vậy, trong thời gian bị tạm giam, họ không bị đối xử như một người có tội. Điều này còn thể hiện ở quy định chế độ tạm giam khác vơi chế độ chấp hành hình phạt tù. Thứ hai, quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giam: Theo quy định của BLTTHS, đối tượng có thể bị áp dụng BPNC là bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù hoặc tử hình bỏ trốn bị bắt để tạm giam. Khi bị tạm giam, bị can, bị cáo có đầy đủ các quyền quy định tại Điều 49, Điều 50 BLTTHS và khi họ là người bị kết án đang chờ thi hành hình phạt tù thì họ có đầy đủ quyền quy định tại Điều 260 BLTTHS. Thứ ba, về chế độ thăm nom người than và bảo quản tài sản của người bị tạm giam. Theo Điều 90 BLTTHS, khi người bị tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người than thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giam giao những người đó cho người than thích chăm nom. Trong trường họp người bị tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người chăm nom, cơ quan ra quyết định tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng. Cơ quan ra quyết định tạm giam thong báo cho người bị tạm giam biết những biện pháp đã được áp dụng. Thứ tư, về việc khấu trừ thời hạn tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt tù: Theo quy định của BLHS, thời hạn tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ mỗi ngày tạm giam bằng một ngày tù. Quy định này không chỉ áp dụng đối với người bị tạm giam liên tục cho đến khi xét xử mà còn áp dụng đối với người bị áp dụng BPNC khác sau một thời gian bị tạm giam. Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỉ luật quân đội và hình phạt tù chung thân thời hạn tạm giam sẽ được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. III- Thực tiễn thi hành BPNC tạm giam và một số kiến nghị. Những kết quả đạt được. Trong những năm qua, tạm giam đã được CQTHTT áp dụng một cách có hiệu quả. Đa số việ tạm giam là đúng căn cứ, đúng pháp luật, tình trạng tạm giam không có lệnh, quá hạn tạm giam từng bước được khắc phục. Những trường hợp không cần thiết phải tạm giam, các CQTHTT đã áp dụng các BPNC khác như: bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Việc thực hiện kiểm sát thường kì cũng như bất thường tại các trại giam đạt chất lượng, hiệu quả hơn so với những năm trước. Theo báo cáo tổng kết của Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2005 toàn quốc có 92.368 người bị tạm giam. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã giải quyết 60.904 người. Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam của cơ quan điều tra 394 trường hợp và không phê chuẩn lệnh tạm giam 329 trường hợp. Năm 2006, toàn quốc có 105.094 người bị tạm giam. So với cùng kì năm 2005 tăng 1,14%. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã giải quyết 71.757 người. Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam của Cơ quan điều tra 350 trường hợp và không phê chuẩn lệnh tạm giam 350 trường hợp. Năm 2007, toàn quốc có 107.999 người bị tạm giam. So với cùng kì năm 2006 tăng 1, 03%. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã giải quyết 74.126 người. Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam của Cơ quan điều tra 329 trường hợp và không phê chuẩn lệnh tạm giam 341 trường hợp. Năm 2008, toàn quốc có 110.939 người bị tạm giam. So với cùng kì năm 2007 tăng 2, 72 %. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã giải quyết 80.151 người. Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam của Cơ quan điều tra 298 trường hợp và không phê chuẩn lệnh tạm giam 334 trường hợp. Năm 2009, toàn quốc có 135.012 người bị tạm giam. So với cùng kì năm 2008 tăng 21, 6%. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã giải quyết 98.709 người. Trả tự do vì thời hạn tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian tạm giam 1.442 người. Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam của Cơ quan điều tra 178 trường hợp và không phê chuẩn lệnh tạm giam 190 trường hợp. Có thể thấy, từ năm 2005 đến năm 2009, tổng số người bị tạm giam có xu hướng tăng nhưng số trường hợp được giải quyết cũng tăng. Số trường hợp Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam và lệnh tạm giam có xu hướng giảm. Những kết quả đạt được nêu trên là sự cố gắng của các cấp, các ngành có liên quan, nó cho thấy công tác kiểm sát và quản lí giam giữ ngày càng thu được những kết quả đáng khích lệ. Những hạn chế, vướng mắc. Bên cạnh những tích cực trên thì trong thời gian qua việc áp dụng các quy định về tạm giam trên thực tiễn vẫn còn nhiều hạn chế. Một số hạn chế thường phát hiện thấy trong thực tiễn thi hành pháp luật TTHS về tạm giam như sau: Về căn cứ áp dụng BPNC tạm giam. Các căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam trong BLTTHS đã làm cơ sở cho việc thống nhất trong nhận thức và thực tiễn hoạt động, đồng thời thể hiện sự phát triển về kĩ thuật lập pháp của các nhà làm luật. Tuy nhiên, nội dung quy định về căn cứ áp dụng BPNC còn có những hạn chế, bất cập như chưa thể hiện đúng bản chất và sự cần thiết phải áp dụng BPNC tạm giam; còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các căn cứ chung và căn cứ riêng…Cụ thể: Thứ nhất, tại điểm a, khoản 1 Điều 88 BLTTHS quy định: “ Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng” . Với quy định này, nhà làm luật cho rằng, người phạm tội sẽ cân nhắc mối tương quan về lợi ích giữa việc chấp nhận bị truy cứu trách nhiệm hình sự với việc bỏ trốn thì việc bỏ trốn luôn mang lại lợi ích cao hơn nên đã lấy tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và khả năng phải gánh chịu hình phạt tương ứng để làm căn cứ áp dụng PNC tạm giam. Có thể hiểu, đây không phải là căn cứ đầy đủ để áp dụng BPNC tạm giam. Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi cao hay thấp, mức hình phạt mà bị can, bị cáo có thể phải chịu là vấn đề mà các CQTHTT phải làm rõ trong các giai đoạn tố tụng, vì vậy nó không thể là căn cứ để áp dụng BPNC. Ta có thể hiểu, căn cứ áp dụng BPNC là căn cứ có thật, dự báo khả năng thực tế có thể xảy ra việc bỏ trốn chứ không thể là căn cứ mang tính suy diễn từ tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Việc suy diễn như vậy trong lập pháp đã tạo cơ sở cho việc xâm phạm các quyền cơ bản của công dân. Mặt khác, cách dung từ trong các quy định trên cũng chưa thật chuẩn xác, bởi khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Toà án có thẩm quyền thì chưa thể khẳng định bị can, bị cáo đó phạm loại tội nào. Thứ hai, có sự mâu thuẫn trong quy định tại điểm b khoản 1 với khoản 2 Điều 88 BLTTHS. Cả hai khoản này đều quy định về căn cứ áp dụng BPNC tạm giam cho các trường hợp khác nhau, trong đó, khoản 2 quy định việc áp dụng chính sách nhân đạo cũng như khả năng áp dụng biện pháp tạm giam với một số đối tượng đặc biệt là phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng. Nếu ở điểm b khoản 1 ngoài căn cứ bị can, bị cáo có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội, thì bại can, bị cáo còn phải thoả mãn “ phạm tội phạm tội nghiêm trọng; phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm” thì ở điểm a, điểm b khoản 2, bị can, bị cáo phạm bất cứ tội phạm nào cũng có thể bị tạm giam. Tức là căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam của một số đối tượng đáng lẽ ra được hưởng chính sách đặc biệt thì lại được mở rộng hơn so với căn cứ áp dụng BPNC tạm giam của các đối tượng bình thường. Về đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam. Trong những năm gần đây, tình hình tạm giam không đúng đối tượng còn xảy ra nhiều như: giam cả những người không phải là bị can, bị cáo thuộc các trường hợp được hưởng chính sách miễn trừ giam giữ cũng bị áp dụng biện pháp tạm giam. Trường hợp “ Vụ án cổ phiếu chứng khoán giả ở Hải Phòng” được đưa tin ngày 23/04/2007 trên báo Tiền Phong là một ví dụ cụ thể. Trong vụ án này, bị cáo Hương là người đang mang thai, theo quy đinh tại Điều 88 BLTTHS thì bị cáo không bị áp dụng BPNC tạm giam nhưng trên thực tế, bị cáo Hương vẫn bị tạm giam để chờ ngày xét xử. Mặc dù luật đã có sự quy định rõ ràng các trường hợp áp dụng và các trường hợp không áp dụng BPNC tạm giam nhưng trên thực tế vẫn có những khó khăn khi vận dụng.Ta có thể hiểu đối với những bị can, bị cáo thuộc một trong hai trường hợp: là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; hoặc là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng, cần áp dụng BPNC khác, có thể là bảo lĩnh hoặc cấm đi khỏi nơi cư trú… Còn đối với các trường hợp đặc biệt quy định tại khoan2 Điều 88 BLTTHS không được miễn trừ chính sách ưu đãi khi áp dụng BPNC tạm giam thì hiện tại chưa có quy định cụ thể về điều kiện áp dụng và đảm bảo quyền lợi cho họ, như trường hợp bị can, bị cáo đang mang thai được hưởng chế độ giam giữ như thế nào? Dinh dưỡng cho thai sản ra sao?...Đó là những vấn đề cần phải được quy định và có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng. Về thời hạn tạm giam. Trong những năm qua, tình trạng giam quá thời hạn còn xảy ra nhiều. Theo quy định của BLTTHS, để hoàn thành một quy trình từ khi điều tra, truy tố đến lúc ét xử sơ thẩm thì bị can, bị cáo có thể bị tạm giam tối đa từ 195 ngày đến 690 ngày tuỳ mức độ phạm tội. Nhưng trong các vụ án còn lấn cấn về chứng cứ, nếu bị cáo kháng cáo và may mắn được cấp phúc thẩm huỷ án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại thì quy trình nói trên quay về điểm xuất phát ban đầu. Điều đáng nói là trong trường hợp này, luật không hề quy định cụ thể được huỷ án để điều tra lại là bao nhiêu lần, mặc dù biết rằng quy trình ấy vẫn phải tuân theo thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Chính vì điểm này mà thời hạn tạm giam có thể bị kéo dài vô thời hạn do bị cáo phải chờ điều tra, xét xử lại. Tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố còn kéo dài do hồ sơ điều tra thiếu nhiều chứng cứ. Cơ quan truy tố và cơ quan xét xử nghiên cứu hồ sơ còn chậm, chưa kịp thời phát hiện được những thiếu sót nên hồ sơ phải trả đi trả lại nhiều lần. Trong các vụ hồ sơ có bị can, bị cáo bị tạm giam phải kéo dài thời hạn tạm giam do phải xin ý kiến đường lối xử lí của các CQTHTT các cấp.Trong số liệu mà Trại tạm giam Chí Hoà cung cấp cho Ban pháp chế của Hội đồng nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ngày 26/06/ 2009 thì trong số 1.976 người đang bị tạm giam ở đây vào thời điểm đó có 64 trường hợp quá hạn. Trong đó Công an thành phố, Công an quận huyện thụ lí 49 trường hợp và Toà án nhân dân thành phố thụ lí 15 trường hợp. Có 137 trường hợp án tồn từ năm 2007 chưa xử. Những số liệu đó là minh chứng cho việc vi phạm về thời hạn tạm giam, đó là cơ sở để vi phạm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được Hiến pháp và các luật khác quy định. Về công tác kiểm soát và chế độ quản lí giam giữ. Thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lí va giáo dục người chấp hành hình phạt tù, Viện kiểm sát các cấp đã kiểm sát 9.497 lần trại tạm giam và trại giam. Qua kiểm sát cho thấy việc tạm giam thời hạn qua đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, việc quá hạn tạm giam chưa được khắc phục triệt để tình trạng tạm giam chung các đối tượng trong cùng vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử còn xảy ra nhiều; tình trạng trại tạm giam quá tải chưa được khắc phục. Trong công tác quản lí tạm giam ở các trại tạm giam còn đễ xảy ra tình trạng đánh nhau 3710 người/ tổng số 6184 người bị giam, giữ; trốn khỏi nơi giam giữ là 503 người ( trong đó bắt lại 307 người). Hiện tượng cán bộ trại giam và cán bộ điều tra có những hành vi đánh đập, ép cung đối với bị can bị tạm giam cũng là một trong những vấn đề gây bức xúc hiện nay. Nhiều trại tạm giam quá tải, xuống cấp, việc phân loại và quản lí người bị tạm giam có nơi, có lúc chưa đúng quy định của pháp luật… Nguyên nhân của những hạn chế trên là do: Nguyên nhân chủ quan: Do các CQTHTT, người tiến hành tố tụng chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc quy định cũng như áp dụng BPNC tạm giam dấn đến áp dụng biện pháp này một cách thiếu căn cứ, trái pháp luật. Năng lực của người THTT còn có những hạn chế nhất định cần khắc phục. Phần khác là do công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực giam giữ ở nhiều địa phương chưa được kiểm tra thường xuyên, đều khắp nên chưa phát hiện kịp thời những biểu hiện vi phạm và khắc phục. Sự phối hợp giữa CQTHTT cũng như với những người có trách nhiệm trong công tác quản lí người bị tạm giam chưa chặt chẽ, linh hoạt. Nguyên nhân khách quan: Việc áp dụng các quy định của BLTTHS về BPNC tạm giam còn có nhiều khó khăn, vướng mắc mà nguyên nhân chủ yếu là do các quy định của pháp luật tố tụng về tạm giam còn có những hạn chế nhất định. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Sửa đổi bổ sung quy định của BLTTHS năm 2003 về tạm giam. Bổ sung Điều 88 BLTTHS. Thứ nhất, trong quy định của BLTTHS hiện hành chưa có quy định về khái niệm BPNC tạm giam. Tại Điều 88 BLTTHS mới chỉ nêu ra được đối tượng bị áp dụng BPNC tạm giam, do vậy cần phải có một quy định cụ thể về khái niệm BPNC tạm giam. Có thể nêu khái niệm theo hướng sau: tạm giam là BPNC do những người có thẩm quyền của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị kết án theo đúng trình tự thủ tục, căn cứ và trong các trường hợp luật định, nhắm ngăn chặn việc họ bỏ trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Thứ hai, khoản 2 Điều 88 quy định “…người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp luật định” nhưng luật lại không có hướng dẫn cũng như giải thích lứa tuổi nào được coi là già yếu, tình trạng như thế nào được coi là bệnh nặng…?Vì thế mà quy định tiến bộ và nhân đạo này của pháp luật đã bị phủ nhận dễ dàng trong thực tiễn bởi ý chí chủ quan của những người có thẩm quyền trong CQTHTT. Do vậy, cần bổ sung quy định hoặc có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Thứ ba, về vấn đề phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì BLTTHS nên quy định các mức thời hạn phê chuẩn lệnh của VKS theo từng loại vụ án đơn giản hay phức tạp, kể từ khi nhận được công văn đề nghị phê chuẩn và tài liệu của vụ án. Khoản 3 Điều 88 BLTTHS có quy định về thời hạn của VKS xem xét là: “ Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn”. Trên thực tế, có vụ đơn giản, tài liệu không nhiều thì VKS có thể xem xét phê chuẩn trong thời hạn ba ngày, xong đối với những vụ án phức tạp, số lượng tài liệu lớn thì cần phải có nhiều thời gian cho việc xem xét và phê chuẩn. Bổ sung Điều 80 BLTTHS Khoản 1 Điều 80 quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng mới chỉ quy định về thẩm quyền ra lệnh, nội dung lệnh bắt, trình tự, thủ tục bắt và thời điểm bắt; chưa có quy định về căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Khi áp dụng BPNC này, thì CQTHTT lại phải căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 88 về căn cứ áp dụng BPNC tạm giam trong khi Điều 80 không viện dẫn về căn cứ các bị can, bị cáo để tạm giam sang Điều 88. Như vậy, không có sự liên hệ logic giữa các điều luật mà buộc người thực hiện phải tự nghiên cứu và áp dụng. Do đó, Điều 80 cần được cơ cấu lại theo hướng là Khoản 1 trong điều luật quy định về căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Về việc bắt giam bị cáo ngay tại phiên toà, cần có quy định theo hướng phải có lệnh tạm giam vì nếu chỉ tuyên trong phần quyết định của bản án thì không thể tiếp tục tạm giam bị cáo do bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, chưa được đem ra thi hành, trừ trường hợp bản án được đem ra thi hành ngay theo quy định tại Khoản 2 Điều 225 BLTTHS. Đồng thời theo quy định tại Khoản 3 Điều 243 BLTTHS: “Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn”. Quy định này áp dụng cho Toà án cấp phúc thẩm còn nội dung và phạm vi áp dụng khác với cấp sơ thẩm. Cụ thể, nếu ở cấp sơ thẩm việc bắt bị cáo tại phiên toà chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho thấy “bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội” thì ở cấp phúc thẩm chỉ cần bị pháo bị tuyên phạt tù, Hội đồng xét xử phải bắt giam ngay, trừ trường hợp quy định tại Điều 261 BLTTHS. Một số kiền nghị khác. Thứ nhất, nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của các chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam. Đối với cơ quan điều tra: Cần nâng cao chất lượng đội ngũ Điều tra viên, thường xuyên mở các lớp huấn luyện nhằm nâng cao ý thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ cho Điều tra viên. Đối với VKS: VKS với chức năng là kiểm soát hoạt động tố tung nói chung trong đó có việc áp dụng biện pháp tạm giam nên vai trò của VKS có ý nghĩa rất quan trọng. Vì thế, yêu cầu đặt ra đối với cơ quan kiểm sát là cần kiểm sát chặt chẽ việc phê chuẩn lệnh tạm giam, đảm bảo không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền của những đối tượng không bị tạm giam. Đối với Toà án: Cần thường xuyên tiến hành việc tập huấn nghiệp vụ cho các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân về vấn đề áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ BPNC tạm giam. Cần phải có văn bản hướng dẫn trực tiếp về các trường hợp áp dụng, thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam của Chánh án, Phó chánh án và của Hội đồng xét xử cũng như về thời hạn tạm giam trong từng giai đoạn của quá trình xét xử. Thứ hai, tăng cường xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất, năng cao chất lượng sống cho người bị tạm giam. Có thể thấy, tình trạng quá tải, xuống cấp trầm trọng ở các trại tạm giam chính là nguyên nhân của tình trạng gây gổ đánh nhau dẫn đến chết người trong các trại tạm giam, vi phạm kỉ luật buồng giam hay bỏ trốn tập thể của các đối tượng bị giam, khiến cho công tác quản lí giam giữ gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, chế độ tạm giam không phải là chế độ chấp hành hình phạt tù, trong quá trình tạm giam, không được đối xử với họ như tù nhân, những nhu cầu tối thiểu về ăn, mặc. ở của họ phải được bảo đảm. Do đó, vấn đề hoàn thiện cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng sinh hoạt cho người bị tạm giam là một như cầu thiết yếu. Điều đó đòi hỏi các cơ quan chức năng cần tăng cường đầu tư kinh phí để xây dựng hoặc cải tạo lại các nhà giam, đặc biệt ở những nơi qua tải hay xảy ra các vi phạm về chế độ giam giữ. KẾT LUẬN. Tạm giam là BPNC quan trọng trong hệ thống các BPNC trong BLTTHS Việt Nam. Nó có vai trò to lớn trong việc đảm bảo thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là phát hiện nhanh chóng, chính xác, xử lí công minh người phạm tội. Trước yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm xảy ra hiện nay, đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc áp dụng các BPNC nói chung và biện pháp tạm giam nói riêng, không chỉ phù hợp trong thực tiễn pháp lí mà còn phù hợp trong thực tế cuộc sống. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006. Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự, Khóa luận tốt nghiệp, Đàm Thị Trang, 2011. Tạm giam trong tố tụng hình sự- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Đình Hiệu, 2010. Tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Nguyễn Thị Minh Thương, 2011.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập học kỳ tố tụng hình sự-Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này.doc