Xác định quá trình và phân công trách nhiệm để đạt đƣợc mục tiêu: nhà
trƣờng xác định cơ cấu tổ chức phù hợp cho việc tiến hành quản lí chất lƣợng theo
quá trình, xác định các quá trình có liên quan đến chất lƣợng đào tạo và các dịch
vụ (bao gồm các quá trình giảng dạy của giảng viên, học tập của sinh viên ở từng
khoa, các quá trình hoạt động của các phòng ban( hành chính, tài vụ, tổ chức,
quan hệ quốc tế, đào tạo, quản lí khoa học .) phục vụ công tác đào tạo của nhà
trƣờng. Quản lí quá trình tiếp cận theo đầu vào, quá trình và đầu ra coi trọng chất
lƣợng của công tác tuyển sinh, các điều kiện phục vụ công tác đào tạo, chất lƣợng
của chính quá trình đào tạo và chất lƣợng của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Sau khi
tốt nghiệp sinh viên có đƣợc các kiến thức, kĩ năng và phẩm chất của nhà sƣ
phạm, ngƣời nghiên cứu khoa học, nhà quản lí- lãnh đạo và nhà ngoại giao. Để
đảm bảo các quá trình này hoạt động nhịp nhàng và có hiệu quả ngƣời ta xác định
các qui tắc điều hành, các tác nghiệp và nguồn lực(bao gồm cơ sở hạ tầng, nhân
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
157
lực) phục vụ việc thực hiện các mục tiêu chất lƣợng đặt ra. Xác định và phân công
trách nhiệm một cách rõ ràng giữa các thành viên trong ban lãnh đạo nhà trƣờng,
lãnh đạo các phòng ban, các khoa. trá ch nhiệm của giảng viên, cán bộ nhân viên
và sinh viên và có cam kết để thực hiện chúng. Quản lí và điều phối các hoạt động
của các phòng ban, các khoa, các cá nhân trong một thể thống nhất và hợp tác.
190 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2311 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu tham khảo hội thảo “giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và cao đẳng Việt Nam", để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị số 296/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về đổi mới quản
lý giáo dục ĐH giai đoạn 2010-2020. Theo đó, Bộ Giáo dục-Đào tạo đã triển khai
chƣơng trình hành động của Bộ về đổi mới quản lý giáo dục ĐH giai đoạn 2010-
2012. Tất cả cho thấy quyết tâm của các cấp lãnh đạo đối với đổi mới quản lý ĐH.
Tuy nhiên, vẫn còn đó rất nhiều việc phải làm.
Bài viết này sẽ phân tích một số mô hình và xu hƣớng quản trị ĐH thế giới, đồng
thời đề xuất một số hƣớng đi cho việc đổi mới quản trị giáo dục ĐH Việt Nam.
Trường ĐH và sứ mạng của trường ĐH
Để có thể đổi mới quản trị và quản lý ĐH, trƣớc tiên chúng ta cần hiểu rõ trƣờng
ĐH là gì và sứ mạng của nó nhƣ thế nào.
Theo định nghĩa, trƣờng ĐH là một cơ sở giáo dục đƣợc Nhà nƣớc, các tổ chức xã
hội, cá nhân hoặc nhóm cá nhân thành lập với sứ mạng đào tạo, nghiên cứu khoa
học, truyền bá kiến thức, chuyển giao công nghệ và trên hết là phục vụ sự phát
triển của xã hội và cộng động.
Theo ý kiến thống nhất của nhiều học giả quốc tế, trƣờng ĐH là một tổ chức phức
tạp nhất trong tất cả các loại hình tổ chức trên thế giới bởi nó là sự kết hợp của rất
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
172
nhiều loại hình tổ chức khác nhau nhƣ các tổ chức chính trị nhà nƣớc, công ty, tập
đoàn, bệnh viện, công sở…
Khác với công ty/ tập đoàn kinh doanh mà đối tƣợng phục vụ của nó chủ yếu là
khách hàng, trƣờng ĐH phục vụ rất nhiều nhóm đối tác liên đới (stakeholders) từ
chính phủ, các tổ chức xã hội/nghề nghiệp, giới công nghiệp, cán bộ nhà trƣờng,
cộng đồng, sinh viên, phụ huynh…Việc điều hành, quản trị, và quản lý của trƣờng
ĐH vì thế cũng có một số khác biệt cơ bản so với các tổ chức khác.
Sự khác biệt giữa quản trị (governance) và quản lý (management)
Mặc dù hai thuật ngữ quản trị và quản lý nhìn chung có sự gần gũi và tƣơng tác
nhƣng có thể thấy rõ sự khác biệt giữa quản trị và quản lý trƣờng ĐH. Đây là điều
mà bản thân Bộ GD-ĐT và các trƣờng ĐH Việt Nam thƣờng lúng túng bởi chƣa
có sự phân định rõ ràng.
Theo Gallagher (2002:2), “quản trị là cấu trúc của các mối quan hệ nhằm mang
đến sự kết dính, ủy nhiệm chính sách, kế hoạch và ra quyết định, chịu trách nhiệm
trƣớc nhà trƣờng, cộng đồng xã hội và ngƣời học về sự tin cậy, tính thích ứng và
hiệu quả chi phí quản lý trong khi quản lý nhằm đạt đƣợc kết quả mong đợi thông
qua việc phân chia trách nhiệm, nguồn lực và kiểm soát tính hiệu lực và hiệu
quả”.
Điều này có nghĩa quản trị là hoạch định đƣờng lối chính sách và quyết định các
định hƣớng đầu tƣ lớn trong khi quản lý là điều hành và thực thi công việc hàng
ngày. Vi vậy, có thể nói hiệu trƣởng ở trƣờng ĐH chính là giám đốc điều hành
(CEO) và chủ tịch hội đồng trƣờng chính là chủ tịch hội đồng quản trị ở công ty.
Mô hình quản trị/ quản lý
Về mặt quản lý nhà nƣớc, Clark (1983) dùng thuật ngữ “tam giác điều phối”
(triangle of coordination) để miêu tả việc quản trị và quản lý trƣờng ĐH. Thuật
ngữ này bao gồm “quản lý nhà nƣớc” (state authority), “thị trƣờng” (market) và
“chính thể học thuật” (academic oligarchy).
Braun và Merrien (1999) gọi đây là “không gian ba chiều của quản trị” (three-
dimensional space of governance). Trƣớc đó, van Vught (1989, 1994) đã đề xuất
điều chỉnh “tam giác điều phối” thành hai mô hình “kiểm soát nhà nƣớc” (state
control) và “giám sát nhà nƣớc” (state supervision).
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
173
Mô hình “kiểm soát nhà nƣớc” thƣờng gặp ở các nƣớc Châu Âu “vốn có sự can
thiệp khá sâu của Nhà nƣớc và của giới chính thể học thuật” (Braun and Murien,
1999:17).
Theo Neave và van Vught (1994:9), Nhà nƣớc đóng vai trò quan trọng trong việc
quyết định hệ thống giáo dục ĐH học, tức Nhà nƣớc “kiểm soát gần nhƣ tất cả các
hoạt động của hệ thống giáo dục ĐH. Bộ Giáo dục qui định các điều kiện cần
thiết, chƣơng trình giảng dạy, bằng cấp, hệ thống thi cử, tuyển dụng/bổ nhiệm
nhân sự. Mục đích quan trọng từ các qui định chi tiết của Nhà nƣớc là nhằm tiêu
chuẩn hóa bằng cấp quốc gia mà chủ yếu là do Nhà nƣớc cấp thay vì cơ sở giáo
dục ĐH”. Pháp là một thí dụ điển hình của mô hình này[1].
Ngƣợc với mô hình “kiểm soát nhà nƣớc” là mô hình “giám sát nhà nƣớc”. Mô
hình này thể hiện rõ ở các nƣớc Anh, Mỹ, Úc, nơi mà sự can thiệp của nhà nƣớc
đối với các trƣờng là khá thấp. Vai trò của nhà nƣớc là giám sát hệ thống ĐH thay
vì kiểm soát bởi nhà nƣớc muốn đảm bảo chất lƣợng học thuật và duy trì mức độ
chịu trách nhiệm cao của các trƣờng.
Neave và van Vught (1994:11) đã miêu tả: “Trong mô hình này, sự tác động/can
thiệp của nhà nƣớc thƣờng không cao. Nhà nƣớc không can thiệp sâu vào cơ sở
giáo dục ĐH thông qua các qui định chi tiết và kiểm soát chặt chẽ nhƣ mô hình
nhà nƣớc kiểm soát mà tôn trọng quyền tự chủ của các trƣờng và khuyến khích
khả năng tự quản lý và chịu trách nhiệm”.
Theo đó, nhà nƣớc đóng vai trò là ngƣời giám sát và quản lý từ xa và dùng các
hành lang và khuôn khổ pháp lý để điều tiết. Mô hình này, theo Neave và van
Vught cũng nhƣ của các học giả về quản trị ĐH thế giới đƣợc xem là mô hình phù
hợp nhất trong giai đoạn khủng hoảng giáo dục ĐH hiện nay bởi nó có khả năng
tạo nên sự đột biến sáng tạo trong các cơ sở giáo dục ĐH.
Một số quan điểm/ xu hướng về ĐH và quản trị ĐH
Có khá nhiều quan điểm/ xu hƣớng khác nhau về ĐH và quản trị ĐH. Giống nhƣ
các tổ chức nhà nƣớc và tƣ nhân, trƣờng ĐH không thể đứng ngoài những thay
đổi lớn của xã hội (Bargh và các cộng sự, 1996). Các tác động bên ngoài nhƣ sự
chuyển hƣớng từ đào tạo tinh hoa sang đại trà, sự gia tăng nhanh số lƣợng của
sinh viên, việc khan hiếm các nguồn lực tài chính và các biến đổi trong môi
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
174
trƣờng chính trị đã làm bản thân Nhà nƣớc và các trƣờng đứng trƣớc sự lựa chọn
hoặc chấp nhận thay đổi hoặc là chết (Becher và Kogan, 1992).
Ở Úc chẳng hạn, viêc thay đổi này thể hiện vai trò điều phối sâu hơn của nhà
nƣớc. Ở Canada đang có xu hƣớng gia tăng sự điều phối của Nhà nƣớc đối với hệ
thống giáo dục ĐH, đồng thời gia tăng yêu cầu trách nhiệm xã hội và giải trình đối
với các trƣờng. Ở Mỹ chứng kiến sự mở rộng các khung pháp lý về trách nhiệm
thể chế.
Ở Anh, hiện đang có sự điều tiết tập trung trong việc quản trị hệ thống ĐH của
nhà nƣớc. Riêng ờ Hà Lan lại có xu hƣớng ngƣợc lại (Goedegeburre và Hayden,
2007).
Thứ hai là xu hƣớng ảnh hƣởng của yếu tố thị trƣờng. Braun và Merrien (1999)
nhấn mạnh tầm quan trọng của một “thị trƣờng hoàn chỉnh” (perfect operation of
markets) và đề xuất các trƣờng cần phải tập trung vào khía cạnh thị trƣờng. Một
số học giả khác lại cho rằng yếu tố thị trƣờng không phải là ý tƣởng hoàn hảo bởi
vì sẽ không thể có một “thị trƣờng hoàn hảo” (perfect market) trong giáo dục ĐH
mà là một “cận thị trƣờng” (quasi-market) (Amaral và Magalhaes).
Theo Dill (1997), cần xác lập và ứng dụng xu hƣớng “cận thị trƣờng” thay vì “thị
trƣờng hoàn hảo” trong giáo dục nhằm quản lý nhà trƣờng một cách có hiệu quả.
Theo đó, cơ quan nhà nƣớc trung ƣơng có thể hành động nhƣ một cơ quan đại
diện cho nhu cầu và lợi ích của khách hàng, đồng thời thay mặt khách hàng ký
hợp đồng với các cơ sở giáo dục ĐH để cung cấp các sản phẩm. Điều này cho
thấy giáo dục là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt chứ không phải là một loại hàng
hóa thông thƣờng để có thể thƣơng mại hóa theo dạng “thị trƣờng hoàn hảo”.
Vai trò của Nhà nƣớc là hỗ trợ và điều tiết theo hƣớng “cận thị trƣờng” để mục
tiêu của giáo dục không bị bóp méo và hiểu sai lệch. Trên quan điểm này,
Marginson (2002) nhấn mạnh: “Các trƣờng ĐH không phải là các công ty/ tổ chức
tƣ nhân sản xuất ra các loại hàng hóa dịch vụ thông thƣờng. Mặc dù mức độ hỗ trợ
tài chính của chính phủ ở từng giai đoạn có thể khác nhau nhƣng cũng không thể
xem trƣờng ĐH là nơi mua bán hàng hóa.
Trƣờng ĐH đƣợc thành lập và hoạt động trong khuôn khổ pháp lý qui định nhằm
sản xuất ra nhiều loại hàng hóa công và tƣ với chức năng chính của nó là giảng
dạy và nghiên cứu. Vì vậy, trƣờng ĐH là một phần quan trọng của hệ thống cơ sở
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
175
hạ tầng quốc gia với trách nhiệm chính là tạo ra những sản phẩm công phục vụ xã
hội”.
Một vấn đề tiếp theo đối với quản trị ĐH là hình thức “quản trị chia sẻ” (shared
governance) từ giới học thuật. “Quản trị chia sẻ” hay còn đƣợc gọi là “quản trị tập
thể” chiếm vị trí quan trọng bởi trƣờng ĐH là một tập thể phức hợp đƣợc cấu
thành chủ yếu từ các giáo sƣ, cán bộ giảng dạy và sinh viên.
Trong những thập niên vừa qua, tiếng nói của các nhóm đối tƣợng trên là quan
trọng[2]. Tuy nhiên, vai trò của nhóm học thuật này ngày nay có vẻ yếu đi vì họ
có xu hƣớng chống lại các thay đổi, đặc biệt là sự chuyển hƣớng từ “quản trị chia
sẻ” sang quản trị theo mô hình công mới (new public management), nơi quyền lực
thƣờng tập trung vào hội đồng quản quản trị và giám đốc điều hành[3].
Trong bối cảnh đó, quyền lực của của Hội đồng trƣờng (đối với trƣờng công) và
hội đồng quản trị (đối với trƣờng tƣ) và giám đốc điều hành (tức hiệu trƣởng)
ngày càng tăng cao nhằm đối phó với những biến động của xã hội, khan hiếm các
nguồn kinh phí và trên hết là thích ứng với kinh tế thị trƣờng. Hầu hết các học giả
về quản trị ĐH tiên tiến trên thế giới đồng ý rằng xu hướng trường ĐH hoạt động
như một doanh nghiệp/ công ty (để đảm bảo hiệu quả đầu tư) kết hợp với hương vị
“cận thị trường” (để thích ứng với nền kinh tế thị trường nhưng tránh thương mại
hóa) dưới sự hỗ trợ, giám sát và điều tiết (state supervision) của nhà nước là mô
hình hoạt động tối ưu nhất của các trường ĐH trên thế giới hiện nay.
Một vấn đề khác của quản trị trong việc ra quyết định là mối quan hệ giữa tam
giác quyền lực: giám đốc điều hành/hiệu trƣởng (executive), hội đồng quản trị
(governing board) và hội đồng khoa học (academic board).
Hội đồng quản trị đƣợc xem nhƣ cơ quan quyền lực cao nhất của trƣờng[4] -
“ngƣời gác đền” (institutional safe guard) - quyết định các chính sách, qui hoạch
chiến lƣợc, định hƣớng và đầu tƣ lớn của trƣờng. Vai trò của hội đồng quản trị
giống nhƣ một cơ quan “đệm” (buffer) nhằm giám sát các hoạt động của trƣờng
và thay mặt nhà trƣờng làm việc với các đối tác bên ngoài. Điều này có nghĩa là
hội đồng trƣờng chịu trách nhiệm trƣớc nhà nƣớc và xã hội về các hoạt động của
trƣờng chứ không phải ban giám hiệu nhƣ ở Việt Nam.
Trong khi đó, vai trò của giám đốc điều hành/ hiệu trƣởng là điều hành/ quản lý
công viêc hàng ngày và thực thi các chính sách, định hƣớng do hội đồng quản trị
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
176
thông qua. Đối với hội đồng khoa học, vai trò của nó là đảm bảo cao nhất chất
lƣợng học thuật và nghiên cứu của nhà trƣờng dƣới sự quản lý của giám đốc điều
hành/ hiệu trƣởng.
Ở các nƣớc, thành phần của Hội đồng trƣờng là khá đa dạng, chủ yếu là đại diện
từ giới công nghiệp, chính phủ, nhà khoa học có uy tín, giáo sƣ, cán bộ, sinh viên,
chính quyền địa phƣơng v.v. Theo đó, tỉ lệ của ngƣời từ ngoài trƣờng thƣờng
chiếm khoảng 60-70% . Thông thƣờng, số thành viên trung bình của hội đồng
quản trị các trƣờng ĐH Úc vào khoảng 19-30 trong khi ở Mỹ dao động từ 25 đến
35. Ở một số nƣớc châu Âu, hội đồng trƣờng chủ yếu đƣợc chỉ định bởi chính
quyền thành phố, tiểu bang hoặc liên bang (tiêu biểu là trƣờng ĐH Kỹ thuật Delft,
Hà Lan). Điều đặc biệt quan trọng là trong thành phần của Hội đồng trƣờng cần
phải có một số chuyên gia về kinh tế, tài chính và pháp luật để có thể giúp trƣờng
tính toán hiệu quả chi phí đầu tƣ cũng nhƣ hoạt động trong khuôn khổ luật pháp
qui định. Đây là điều ít thấy ở các trƣờng ĐH Việt Nam.
Tự chủ thể chế và chịu trách nhiệm thể chế
Nhƣ đã đề cập, do đặc trƣng của trƣờng ĐH là phải thỏa mãn nhu cầu của tất cả
các nhóm liên đới, việc quản trị và quản lý nhà trƣờng cũng cần phải có những
khác biệt. Tuy nhiên, sự khác biệt này không nằm ngoài hai nguyên lý cơ bản
nhất và tiên quyết nhất của quản trị, tức quyền tự chủ thể chế (institutional
autonomy) và chịu trách nhiệm thể chế (institutional accountability)[5]. Hai
nguyên lý này cần phải hoạt động song song và không thể thiếu một trong hai vì
tự chủ giúp các trƣờng độc lập và chủ động trong việc xây dựng qui hoạch chiến
lƣợc, tài chính, chƣơng trình đào tạo, tuyển dụng sinh viên, nhân sự… trong khi
đó chịu trách nhiệm thể chế là sợi dây pháp lý ràng buộc khiến các trƣờng không
thể “xé rào” hoặc mua bán bằng cấp.
Trong số 20 quốc gia đƣợc khảo sát, Anderson và Johnson (1998) cho thấy nhóm
các nƣớc Anh-Mỹ có mức độ tự chủ cao nhất, tiếp đó là các nƣớc Châu Âu lục địa
và cuối cùng là nhóm các nƣớc Châu Á. Đây là điều dễ hiểu bởi sự khác biệt đặc
trƣng về lịch sử, chính trị, kinh tế và văn hóa giữa ba nhóm quốc gia. Tuy nhiên,
gần đây với sự chuyển hƣớng từ đào tạo tinh hoa (elite) sang đào tạo đại trà (mass
education) cùng với sự khan hiếm của các nguồn tài chính, vai trò của Nhà nƣớc
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
177
trong việc quản lý và điều phối nguồn lực ở nhóm các nƣớc Anh/ Mỹ/ Úc ngày
càng tăng cao.
Mặc dù vậy, điều này không có nghĩa là Nhà nƣớc can thiệp sâu vào công việc nội
bộ của các trƣờng mà để cho các trƣờng tự quyết định trên cơ sở của trách nhiệm
xã hội/ giải trình và trách nhiệm thể chế mà các trƣờng phải tuân thủ. Theo đó,
Nhà nƣớc cấp kinh phí trên cơ sở của kết quả hoạt động và cạnh tranh. Các trƣờng
ĐH vì thế ngày càng phải gấp rút nâng cao chất lƣợng giảng dạy, nghiên cứu và
đẩy mạnh hợp tác để có thể duy trì hoạt động[6]. Các trƣờng có chất lƣợng yếu
kém sẽ dần dần bị đào thải và đóng cửa. Điều này có vẻ trái ngƣợc so với ở Việt
Nam khi ngày càng có nhiều ĐH “trƣờng làng” đƣợc thành lập mới hoặc nâng cấp
từ các trƣờng cao đẳng.
Chính Bộ GD-ĐT đã thừa nhận: “Giáo dục ĐH đang đứng trƣớc thách thức rất to
lớn: Phƣơng pháp quản lý nhà nƣớc đối với các trƣờng ĐH, cao đẳng chậm đƣợc
thay đổi, không đảm bảo yêu cầu nâng cao chất lƣợng đào tạo của toàn hệ thống,
chƣa phát huy mạnh mẽ đƣợc sự sáng tạo của đội ngũ nhà giáo, các nhà quản lý
và sinh viên. Chất lƣợng nguồn nhân lực đang là một khâu yếu kém, kéo dài của
toàn bộ hệ thống kinh tế”[7].
Kiểm định chất lượng
Qua khảo sát các một số trƣờng ĐH trọng điểm ở 3 miền Bắc, Trung, Nam, hầu
hết các trƣờng đều thiếu hẳn “văn hóa chất lƣợng” khi tiến hành kiểm định vì bản
thân các trƣờng thiếu nguồn lực, chuyên môn, và trên hết là không biết kiểm định
xong rồi để làm gì vì các yếu kém, bất cập đƣợc chỉ ra nhƣng làm cách nào (tức
lấy đâu ra kinh phí và nguồn lực trong cơ chế hiện nay) để khắc phục các yếu kém
đó vẫn còn bỏ ngõ.
El-Khawas (2002) đã đƣa ra một số câu hỏi quan trọng để trả lời cho mục tiêu
chính sách của kiểm định chất lƣợng nhƣ mục đích của kiểm định chất lƣợng là
nhằm để kiểm soát, cải tiến, thay đổi hay chỉ đơn giản là để xếp hạng? Nếu không
thể trả lời và giải quyết các câu hỏi trên thì kiểm định chất lƣợng sẽ đi vào ngõ
cụt. Hơn nữa hiện nay chúng ta chƣa có một cơ quan kiểm định chất lƣợng độc lập
với Bộ GD-ĐT nên kết quả kiểm định trƣớc đây nếu có công bố thì độ tin cậy
chắc hẵn sẽ không cao.
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
178
Hội đồng Trường ở Việt Nam
Nhƣ trên đã đề cập, Hội đồng trƣờng chính là cơ quan quyền lực nhằm đảm bảo tự
chủ thể chế và trách nhiệm thể chế ở trƣờng. Tuy nhiên, ở Việt Nam ta, việc thành
lập Hội đồng trƣờng còn rất nhiều khó khăn bởi một câu hỏi đơn giản nhƣng rất
khó trả lời: Hội đồng trƣờng nên đƣợc thành lập thế nào và có đƣợc đứng trên
Đảng ủy? Thực tế ở Việt Nam, cho đến nay, có rất ít trƣờng ĐH thành lập Hội
đồng trƣờng.
Nhƣ vậy, có thể thấy, Hội đồng trƣờng của các trƣờng ĐH Việt Nam chỉ thực hiện
tốt chức năng nhiệm vụ của mình khi giải quyết đƣợc mối quan hệ giữa Đảng ủy,
ban giám hiệu và hội đồng khoa học. Điều đó có nghĩa là tổ chức Đảng không làm
thay công việc của hội đồng trƣờng.
Hướng đi nào cho quản trị ĐH Việt Nam?
Qua khảo sát và nghiên cứu tình hình quản trị ĐH ở một số nƣớc tiên tiến trên thế
giới và Việt Nam, tác giả xin đƣợc mạnh dạn đề xuất một số vấn đề sau:
1. Xác định rõ mối quan hệ, vai trò, trách nhiệm giữa Nhà nƣớc
và trƣờng ĐH[8]. Theo đó, Chính phủ và Bộ GD-ĐT xây dựng đƣờng lối,
chính sách, hành lang pháp lý và trên hết là không làm thay, và can thiệp
vào công việc nội bộ của các trƣờng trên cơ sở trao quyền tự chủ và trách
nhiệm xã hội/giải trình cho các trƣờng.
2. Củng cố và hoàn thiện vai trò, chức năng, và quyền hạn của
Hội đồng Giáo dục Quốc gia nhƣ là một cơ quan “đệm” quyền lực trong
việc phân bổ kinh phí/ suất đầu tƣ cũng nhƣ thành lập cơ quan kiểm định
chất lƣợng độc lập nhằm kiểm định, xếp hạng, sắp xếp và phân loại các loại
các trƣờng[9].
3. Xây dựng lộ trình xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, đƣa đầu mối
quản lý nhà nƣớc về giáo dục về Bộ GD-ĐT[10].
4. Củng cố và xác lập vai trò chủ đạo của nhà nƣớc trong việc
đầu tƣ và hỗ trợ cho các trƣờng để các trƣờng có thể phát triển trong một
môi trƣờng lành mạnh nhằm tránh hiện tƣợng “thƣơng mại hóa giáo dục”
thông qua khẩu hiệu “xã hội hóa” vốn chƣa minh bạch nhƣ hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
179
5. Trong giai đoạn hiện nay, xem xét lựa chọn một số trƣờng ĐH
lớn có tiềm lực mạnh (trong số 14 trƣờng trọng điểm hiện nay)[11] và giao
quyền tự chủ cho các trƣờng trên. Tự chủ phải đi đôi với trách nhiệm xã hội
và giải trình.
6. Thành lập Hội đồng trƣờng theo đúng nghĩa thông qua giải
quyết mối quan hệ và phân định minh bạch vai trò, trách nhiệm giữa Hội
đồng trƣờng, Đảng ủy và Ban Giám hiệu. Theo đó, chủ tịch Hội đồng
trƣờng có thể là Bí thƣ Đảng ủy để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng.
7. Phân loại và phân tầng các trƣờng ĐH theo dạng ĐH nghiên
cứu/ tinh hoa (đào tạo đến tiến sĩ); ĐH địa phƣơng (đào tạo đến thạc sĩ) và
cao đẳng cộng đồng (đào tạo chuyên môn ngắn hạn/ nghề nghiệp) nhằm đào
tạo nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ cho nhu cầu quốc gia và địa
phƣơng.
8. Giám sát chặt chẽ các trƣờng yếu kém; đóng cửa, sát nhập
hoặc giải thể các trƣờng ĐH, cao đẳng đƣợc thành lập hoặc nâng cấp trong
thời gian gần đây nhƣng chất lƣợng kém và không đảm bảo đƣợc nguồn lực
cần thiết.
9. Đầu tƣ cho giáo dục ĐH phải dựa trên cơ sở chia sẻ chi phí
giữa Nhà nƣớc, nhà trƣờng và ngƣời học. Việc tăng học phí phải đi đôi với
chính sách cho vay tín dụng theo đúng nghĩa để sinh viên có khả năng làm
việc và chi trả khoảng 10-15 năm sau khi ra trƣờng[12]. Tránh tình trạng
cùng một mức học phí cho tất cả các đối tƣợng ngƣời học bởi nhƣ thế sẽ
gây ra hiện tƣợng ngƣời nghèo phải bao cấp cho ngƣời giàu.
10. Xây dựng Luật giáo dục ĐH, theo đó làm rõ cơ chế sở hữu
(nhà nƣớc, tƣ nhân, hay cả hai) cũng nhƣ lợi nhuận hay phi lợi nhuận hoặc
một nửa vì lợi nhuận trong giáo dục ĐH để tránh hiện tƣợng trục lợi và
thƣơng mại hóa giáo dục từ các nhóm lợi ích.
11. Các cấp Nhà nƣớc và bản thân các trƣờng ĐH phải hiểu rõ một
nguyên tắc cơ bản khi xây dựng trƣờng ĐH xuất sắc là phải bao gồm ba yếu
tố (i) cơ chế quản trị phù hợp; (ii) nguồn lực tài chính dồi dào; (iii) nơi tập
trung những tài năng (Samil, 2009)[13].
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
180
[1] Hiện nay ở Pháp đang có sự chuyển đổi dần sang mô hình giám sát nhà
nước nhưng nhìn chung Chính phủ và các trường ĐH Pháp vẫn đang đương đầu
với rất nhiều khó khăn.
[2] Ở một số nước Châu Âu, hiệu trưởng không có nhiều quyền lực. Quyền
hành nằm chủ yếu ở các giáo sư và các khoa/bộ môn
[3] Các giáo sư và các nhà học thuật vốn bảo thủ và mất nhiều thời gian để
thuyết phục họ nhằm thích ứng với sự thay đổi.
[4] Giống như quyền lập pháp của Quốc hội
[5] Ở Việt Nam, thuật ngữ này bị hiểu nhầm thành “tự chịu trách nhiệm”,
tức bản thân các trường “tự chịu trách nhiệm” trước những việc mình làm nhưng
không rõ chịu trách nhiệm trước ai. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng “tự chịu
trách nhiệm” có thể là “chịu” hoặc “không chịu trách nhiệm”. Cho nên cách tốt
nhất để gọi thuật ngữ này là trách nhiệm xã hội/ giải trình hoặc trách nhiệm thể
chế.
[6] Việc các trường ĐH thành lập công ty, bệnh viện trong trường hoặc vay
vốn ngân hàng/ thế chấp tài sản và sử dụng các nguồn lợi thu được để tái đầu tư
và phát triển nhà trường là điều không còn xa lạ ở các trường trên thế giới.
[7] Báo cáo số 760 /BC-BGDĐT của Bộ GD-ĐT ngày 29/10/2009
[8] Có người cho rằng có sự “lẫn lộn” về vai trò quản lý nhà nước đối với
các cơ sở giáo dục ĐH.
[9] Quyền lực của Bộ GD-ĐT và các bộ chủ quản khác là quá lớn.
[10] Trong tổng số 376 ĐH, CĐ hiện nay, Bộ GD-ĐT quản lý 54 trường
(14,4%); các bộ, ngành khác quản lý 116 trường (30,8%); UBND các tỉnh, TP là
cơ quan chủ quản của 125 trường (33,2%); có 81 trường dân lập, tư thục
(21,5%). Trong khi Bộ GD-ĐT là cơ quan duy nhất theo luật pháp được ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giáo dục cấp bộ thì việc kiểm tra chấp
hành các văn bản đó ở các trường ĐH, CĐ thuộc các bộ, ngành khác và do
UBND là cơ quan chủ quản còn rất hạn chế, có bộ còn ra văn bản chồng chéo lên
chức năng quản lý Nhà nước của Bộ GD-ĐT. Tuy nhiên, có nên phân cấp cho
UBND các tỉnh tham gia quản lý các trường ĐH trong giai đoạn hiện nay khi mà
bản thân các Sở GD-ĐT chưa có kinh nghiệm và chuyên môn?
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
181
[11] Hai trường ĐH Quốc gia Hà Nội và TP.HCM mặc dù trực thuộc
Chính phủ và mức độ tự chủ tương đối cao hơn các trường khác nhưng vẫn chưa
thể phát huy thế mạnh và nằm trong nhóm 500 trường ĐH hàng đầu thế giới. Lý
do tại sao?
[12] Hiện nay là 02 năm
[13] Việc xây dựng 04 trường ĐH đẳng cấp quốc tế (hiện nay là ĐH xuất
sắc) ở 4 thành phố lớn của Việt Nam sẽ khó đạt được mục đích đặt ra nếu các
trường này thiếu một cơ chế đặc biệt cũng như sự đầu tư đặc biệt từ Nhà nước.
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
182
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
183
CON ĐƢỜNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
GS. Nguyễn Thiện Nhân
Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
(Nguồn:
hoc-1923562/)
Triển khai Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Chương trình hành động của Bộ
GD&ĐT về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012, Báo Giáo dục
& Thời đại mở Diễn đàn "Vì sao phải nâng cao chất lượng đào tạo, làm gì để đảm
bảo và nâng cao chất lượng đào tạo". Mở đầu Diễn đàn, chúng tôi xin trân trọng
giới thiệu bài viết của Phó Thủ tướng CP, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thiện
Nhân.
Giáo dục đại học: Đồng hành và cung cấp nhân lực trình độ cao cho quá trình
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Từ khi thực hiện đƣờng lối đổi mới, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực của
toàn dân tộc, đất nƣớc ta đã phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên các lĩnh vực.
So với năm 1987, quy mô nền kinh tế (GDP) năm 2009 đã tăng 4,6 lần, giá trị
hàng hóa xuất khẩu tăng 73 lần. Từ chỗ không đủ ăn, Việt Nam đã trở thành một
nƣớc mạnh về xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp: Xuất khẩu 5 triệu tấn gạo và 1,2
triệu tấn cà-phê một năm, đứng hàng thứ hai thế giới, xuất khẩu điều, tiêu đứng
hàng thứ nhất, xuất khẩu trà đứng thứ năm, xuất khẩu thủy sản đứng thứ 12. Xuất
khẩu hàng công nghiệp cũng gia tăng mạnh: linh kiện điện tử xuất khẩu năm 2009
trị giá 2,8 tỷ USD, giày dép 4,1 tỷ USD, hàng dệt may 9,1 tỷ USD. Sản lƣợng than
đá khai thác tăng từ 12 triệu tấn năm 2000 lên 43 triệu tấn năm 2009, sản lƣợng
xi-măng tăng cùng kỳ từ 13 triệu tấn lên 48 triệu tấn. Số điện thoại trong 100
ngƣời dân tăng từ bốn máy năm 2000 lên 140 máy năm 2009.
Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động cũng thay đổi mạnh mẽ: Tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ trong nền kinh tế tăng từ 60% năm 1987 lên 80% năm 2009, tỷ trọng
nông nghiệp giảm từ 40% xuống còn 20%. Lao động phi nông nghiệp tăng 3,1 lần
từ 7,5 triệu ngƣời năm l987 lên 23,5 triệu ngƣời năm 2009. Chỉ sau chín năm, từ
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
184
2000 đến 2009, số doanh nghiệp tăng hơn 5 lần, từ 42.000 doanh nghiệp lên
220.000. Tổng vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đã thực hiện đạt hơn 80 tỷ USD.
Sự phát triển vƣợt bậc về quy mô nền kinh tế và nhiều ngành kinh tế mới, về xuất
khẩu, việc ra đời hàng trăm nghìn doanh nghiệp mới, triển khai hơn 10.000 dự án
đầu tƣ nƣớc ngoài, sự gia tăng mạnh mẽ lao động công nghiệp và dịch vụ đã đòi
hỏi nền kinh tế phải đƣợc bổ sung hàng trăm nghìn lao động có trình độ đại học và
cao đẳng, hàng vạn thạc sĩ và hàng nghìn tiến sĩ. Đây là lực lƣợng nòng cốt để làm
chủ kỹ thuật công nghệ, để quản lý các doanh nghiệp, để chăm sóc sức khỏe nhân
dân để cung cấp các dịch vụ tài chính,... du lịch và quản lý nhà nƣớc các cấp.
Giáo dục đại học Việt Nam 23 năm qua chính là nguồn đào tạo và cung cấp chủ
yếu lao động có trình độ cao cho nền kinh tế và bộ máy quản lý nhà nƣớc.
Từ năm 1987 đến 2009, số trƣờng đại học, cao đẳng đã tăng 3,7 lần, từ 101 trƣờng
lên 376 trƣờng. Quy mô sinh viên tăng 13 lần, từ 133.000 lên 1,7 triệu. Số giảng
viên các trƣờng ĐH, CĐ, số GS, PGS tăng gấp 3 lần. Số kỹ sƣ, cử nhân tốt nghiệp
năm 2009 là 220.000 ngƣời, gấp 11 lần năm 1987 là 20.000 ngƣời.
Vấn đề của giáo dục đại học Việt Nam: Chất lượng đào tạo chưa theo kịp đòi
hỏi phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Mặc dù hơn 90% sinh viên tốt nghiệp các trƣờng ĐH, CĐ có việc làm, nhƣng sự
phù hợp của năng lực các kỹ sƣ, cử nhân mới ra trƣờng với đòi hỏi ngày càng tăng
của công việc trong thực tế còn hạn chế. Nguyên nhân trực tiếp của tình trạng này
là chất lƣợng các yếu tố đầu vào của giáo dục đại học chậm đƣợc cải thiện và
phƣơng pháp quản lý chất lƣợng lạc hậu.
Từ năm 1987 đến 2009, quy mô sinh viên ĐH, CĐ tăng 13 lần, nhƣng số giảng
viên chỉ tăng 3 lần. Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ sau 23 năm vẫn không đổi
chỉ đạt 11%. Chi phí đào tạo một sinh viên một năm ở nƣớc ta từ 6 triệu đến 10
triệu đồng, tƣơng đƣơng 300 đến 500 USD, trong khi ở các nƣớc tiên tiến từ
10.000 đến 15.000 USD, gấp ta 30 lần. Tức là chi phí để họ đào tạo ra một kỹ sƣ,
cử nhân thì ở ta phải đào tạo ra 30 kỹ sƣ, cử nhân.
Phƣơng pháp quản lý chất lƣợng của chúng ta còn rất bất cập, lạc hậu. Từ năm
1975 đến nay, chúng ta không yêu cầu các trƣờng ĐH, CĐ phải xây dựng và công
bố chuẩn năng lực ngƣời tốt nghiệp - chuẩn đầu ra: sinh viên ra trƣờng phải có tri
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
185
thức gì, kỹ năng gì, có năng lực đạo đức và hành vi thế nào, có thể giải quyết đƣợc
những việc gì và làm việc ở những vị trí nào, có triển vọng phát triển nghề nghiệp
ra sao. Không có cơ chế giám sát chất lƣợng đào tạo và không có chế tài các cơ sở
đào tạo chất lƣợng kém .
Trong năm năm gần đây ngành giáo dục và các trƣờng ĐH, CĐ đã triển khai một
số biện pháp để nâng cao chất lƣợng đào tạo. Năm 2004 Bộ GD-ĐT đã thành lập
Cục khảo thí và kiểm định chất lƣợng giáo dục, hƣớng dẫn các trƣờng tự đánh giá
chất lƣợng đào tạo.
Bộ GD-ĐT đã khuyến khích, hỗ trợ các trƣờng liên kết với các trƣờng đại học
nƣớc ngoài đào tạo theo phƣơng pháp tiên tiến, kể cả giảng dạy bằng tiếng Anh
theo chƣơng trình đào tạo của các trƣờng đối tác nƣớc ngoài, tăng quy mô đào tạo
giảng viên các trƣờng đạt trình độ thạc sĩ, tiến sĩ.
Triển khai chủ trƣơng đào tạo theo nhu cầu xã hội bằng các hội thảo quốc gia đào
tạo nhân lực cho các ngành kinh tế chủ lực nhƣ công nghệ thông tin, đóng tàu, tài
chính - ngân hàng, du lịch, chế biến nông sản, y tế, qua đó có hơn 600 hợp đồng,
thỏa thuận đào tạo đã đƣợc ký kết giữa các trƣờng ĐH, CĐ và các doanh nghiệp,
cơ quan quản lý nhà nƣớc. Năm 2009, học phí ĐH đã tăng từ 180.000 đồng/tháng
lên 240.000 đồng/tháng. Mặc dù các giải pháp nói trên là đúng đắn, song thực tế
chƣa tạo đƣợc chuyển biến đáng kể trên diện rộng trong việc nâng cao chất lƣợng
đào tạo.
Giải pháp đột phá để phát triển giáo dục đại học Việt Nam: Đổi mới quản lý
giáo dục đại học
Những hạn chế, yếu kém của hệ thống giáo dục đại học có thể nhận ra tƣơng đối
dễ dàng, song việc xác định nguyên nhân và giải pháp có hiệu quả không phải dễ,
vì hệ thống giáo dục đại học nói riêng và hệ thống giáo dục quốc dân nói chung
hoạt động không chỉ theo các quy luật, quy tắc của sƣ phạm mà chịu sự phối hợp
của nhiều loại quy luật, quy tắc khác: Các nguyên tắc quản lý hệ thống xã hội, các
quy luật kinh tế, nguyên tắc hài hòa lợi ích và khuyến khích sáng tạo, các nguyên
tắc quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học.
Năm 2009, lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cùng các trƣờng ĐH, CĐ phân
tích nghiêm túc tình hình của hệ thống giáo dục đại học và đã nhất trí đánh giá:
Nguyên nhân căn bản, sâu xa của các yếu kém của hệ thống giáo dục đại học
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
186
chính là sự yếu kém trong quản lý nhà nƣớc về giáo dục đại học và yếu kém trong
quản lý của bản thân các trƣờng ĐH, CĐ. Đổi mới quản lý giáo dục đại học là
khâu đột phá để phát triển toàn diện hệ thống giáo dục đại học trong mƣời năm
tới.
Ngày 6-1-2010, Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Nghị quyết về
Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012. Ngày 11 - 1-2010, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chƣơng trình hành động đổi mới quản lý giáo
dục đại học giai đoạn 2010 - 2012. Và ngày 27-2-2010, Thủ tƣớng Chính phủ đã
ra chỉ thị về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012. Thủ tƣớng
Chính phủ đã yêu cầu:
- Cần quán triệt nhận thức: Phát triển quy mô giáo dục đại học phải đi đôi
với bảo đảm và nâng cao chất lƣợng đào tạo. Kiên quyết chấm dứt tình trạng
không kiểm soát đƣợc chất lƣợng đào tạo. Cần tạo ra cơ chế và động lực trong
quản lý nhà nƣớc và quản lý của các cơ sở đào tạo để thực hiện mục tiêu bảo đảm
và nâng cao chất lƣợng đào tạo.
- Coi việc đổi mới quản lý giáo dục đại học, bao gồm quản lý nhà nƣớc về
giáo dục đại học và quản lý của các cơ sở đào tạo là khâu đột phá để tạo ra sự đổi
mới toàn diện của giáo dục đại học, từ đó bảo đảm và nâng cao chất lƣợng đào
tạo, nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học một cách bền vững.
Chỉ thị của Thủ tƣớng Chính phủ đã xác định 15 giải pháp phải đƣợc triển khai
trong ba năm tới, trong đó Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm thực hiện các
nhiệm vụ nhƣ:
- Tổ chức thảo luận trong tất cả các trường ĐH, CĐ về: Vì sao phải nâng
cao chất lượng đào tạo, làm gì để bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo
trong giai đoạn hiện nay.
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới về thành lập trường,
tuyển sinh tổ chức đào tạo, quản lý tài chính, quản lý chất lượng... tạo cơ sở để
các trường ĐH, CĐ thực hiện quyền tự chủ và nghĩa vụ tự chịu trách nhiệm
trước xã hội và nhà nước theo quy định của Luật Giáo dục.
- Triển khai Nghị quyết 35 của Quốc hội về đổi mới cơ chế tài chính
trong giáo dục và đào tạo, trong đó việc tăng học phí phải đi đôi với các giải
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
187
pháp nâng cao chất lượng đào tạo, thực hiện tốt các chính sách tín dụng cho
sinh viên, chính sách miễn giảm học phí.
- Tham mưu cho chính phủ phân công, phân cấp quản lý các trường ĐH,
CĐ giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ, ngành và ủy ban nhân dân các tỉnh.
- Kiểm tra, xử lý nghiêm khắc với các trường sau ba năm thành lập vẫn
không đáp ứng đủ các tiêu chí, điều kiện thành lập trường ĐH, CĐ như đã cam
kết.
Chương trình hành động của Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện đổi mới
quản lý giáo dục đại học 2010 – 2012 còn xác định:
- Các trường ĐH, CĐ phải xây dựng và công bố chuẩn đầu ra cho tất cả
các ngành đào tạo trước 12-2010, thực hiện ba công khai, gắn với chỉ tiêu
tuyển sinh từ năm 2010.
- Tại cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai quy trình “một cửa, một
dấu” mới đối với việc thành lập trường ĐH, CĐ, mở ngành đào tạo.
- Thực hiện việc các Sở Giáo dục và Đào tạo và các trường ĐH, CĐ tham
gia đánh giá sự lãnh đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo và hoạt động của các Vụ,
Cục ở Bộ Giáo dục và Đào tạo từ năm 2010.
Giáo dục đại học đã có sự đóng góp quan trọng cho sự phát triển đất nƣớc trong
23 năm đổi mới, bảo đảm cơ bản nhân lực trình độ cao cho quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Tuy nhiên, giáo dục đại học đang đứng trƣớc đòi hỏi
cấp bách của cuộc sống, không thể tiếp tục phát triển quy mô đào tạo mà lại buông
lỏng quản lý chất lƣợng nhƣ thời gian qua. Bảo đảm và nâng cao chất lƣợng đào
tạo là vì lợi ích quốc gia, lợi ích của ngƣời học, lợi ích của các doanh nghiệp, đơn
vị sử dụng lao động và vì lợi ích của các trƣờng ĐH, CĐ. Mỗi ngƣời chúng ta đều
có trách nhiệm: Các bộ, ngành và ủy ban nhân dân các tỉnh, lãnh đạo các trƣờng,
giảng viên và sinh viên, ngƣời sử dụng lao động và xã hội. Với Chỉ thị của Thủ
tƣớng Chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục đại học 2010 - 2012, bám sát thực
tiễn, vận dụng đồng thời năm loại quy luật, quy tắc chi phối hoạt động của hệ
thống giáo dục đại học, chúng tôi tin rằng, quản lý giáo dục đại học sẽ có đổi mới
căn bản sau ba năm, tạo tiền đề quan trọng nhất để giáo dục đại học đổi mới cơ
bản, toàn diện trong giai đoạn 2010 - 2020.
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
188
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC:
NHÀ TRƢỜNG TỰ CHỦ, NHÀ NƢỚC QUẢN LÝ
Kim Thoa
(Nguồn:
moi-quan-ly-giao-duc-dai-hoc-nha-truong-tu-chu-nha-nuoc-quan-ly.htm)
LỜI TÒA SOẠN: Ban Cán sự đảng Bộ GD-ĐT đã ban hành Nghị quyết về đổi mới
quản lý giáo dục đại học (GD ĐH) giai đoạn 2010-2012, trong đó "phát huy cao
độ tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự kiểm soát bên trong của các trường, trên cơ
sở các quy định của Nhà nước..." được coi là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm. Trao quyền tự chủ, nhưng làm thế nào, lộ trình ra sao và giải quyết mối quan
hệ giữa tự chủ của cơ sở đào tạo với công tác quản lý nhà nước là những câu hỏi
cần được trả lời thấu đáo.
Để phát triển, trƣờng đại học cần gì?
Câu trả lời là quyền tự chủ cao. Quyền tự chủ đƣợc cố Giáo sƣ, Viện sĩ Nguyễn
Văn Đạo, ví nhƣ khoán 10 trong GDĐH. Bộ trƣởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện
Nhân cũng cho rằng, cần phải giao quyền tự chủ cho các trƣờng. Dẫu có sự đồng
thuận nhƣng mức độ tự chủ của trƣờng ĐH hiện nay mới qua "thời bao cấp". Vì
sao ?
"Cơ thể" lớn trong "manh áo" nhỏ
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, tính đến tháng 9-2009, toàn quốc có 376 trƣờng
ĐH, CĐ, tăng gấp 3,7 lần so với 12 năm trƣớc; phân bố ở 40 tỉnh thành. Trong số
này có 295 trƣờng công lập, đào tạo 87,3% tổng số sinh viên và giữ vai trò nòng
cốt trong đào tạo nguồn nhân lực. Quy mô đào tạo từ CĐ lên đến tiến sĩ tăng hằng
năm; đến năm 2009 là 1.719.499 sinh viên (SV), tăng 2,4 lần so với năm 1997,
trong đó số tuyển mới tăng 4 lần; tỷ lệ SV/vạn dân là 195, có thể đạt 200 vào năm
2010. Từ năm 2000 đến nay, mỗi năm 159 cơ sở đƣợc giao nhiệm vụ đào tạo sau
đại học đã đào tạo đƣợc 650 tiến sĩ; số lƣợng nghiên cứu sinh trong nƣớc năm
2009 cao gấp 3,57 lần số đào tạo ở nƣớc ngoài, học viên cao học cao gấp 15,3 lần.
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
189
Một vài con số phát triển về quy mô trên cho thấy, GDĐH đã đáp ứng tốt hơn nhu
cầu học tập của nhân dân và nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế-xã hội. Tuy
nhiên, thực tiễn cũng cho thấy một điều các yếu tố đầu vào để bảo đảm cho chất
lƣợng đào tạo chƣa đƣợc kiểm soát triệt để. Sự phát triển về quy mô đào tạo
nhanh, sau 22 năm tăng 13 lần, nhƣng số lƣợng giảng viên lại không tăng nhanh
tƣơng ứng, chỉ có 3 lần, nên năm 1987, một giảng viên đào tạo bình quân 6,6 SV
thì năm 2009 con số này đã là 28. Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ cũng tăng
không đáng kể, sau 22 năm chỉ tăng 0,07% từ 10,09% năm 1987 lên 10,16% năm
2009. Nhƣng quan trọng hơn cả là cơ chế quản lý vẫn chƣa thoát khỏi tƣ duy bao
cấp, nhƣ Bộ GD-ĐT từng nhận định. Có thể nói, "cơ thể" GDĐH đã lớn hơn rất
nhiều nhƣng "chiếc áo" mặc cho nó quá chật.
"Thợ may" tồi hay "thiếu vải"?
Trong báo cáo "Sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học, các giải pháp bảo
đảm và nâng cao chất lƣợng đào tạo" mới đây của Bộ GD-ĐT, cơ quan đƣợc giao
nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về lĩnh vực này đã tự đánh giá: "Để việc nâng cao chất
lƣợng đào tạo đƣợc thƣờng xuyên, thiết thực thì các trƣờng ĐH, CĐ phải vừa có
quyền tự chủ cao, vừa có nghĩa vụ chịu trách nhiệm rõ ràng trƣớc xã hội và Nhà
nƣớc. Việc tự chủ gắn với tự chịu trách nhiệm chỉ có thể làm đƣợc khi Chính phủ
và Bộ GD-ĐT ban hành đầy đủ các quy chế, quy định chung liên quan đến các
mặt hoạt động của nhà trƣờng. Tuy nhiên các quy định, quy chế này chƣa đầy đủ
nên việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở còn hạn chế. Các quy định về
tài chính chậm đổi mới, còn nhiều bất hợp lý, hạn chế sự năng động, sáng tạo của
nhà trƣờng. Việc quy hoạch, đánh giá đội ngũ hiệu trƣởng chƣa bảo đảm cho việc
có đội ngũ giảng viên giỏi, có năng lực quản lý, sẵn sàng tham gia lãnh đạo nhà
trƣờng ngày càng cao".
Xây dựng một "hành lang pháp lý" đủ rộng và hợp lý, gồm các quy định, quy chế
nhƣ điều kiện thành lập trƣờng, mở ngành đào tạo; điều lệ trƣờng ĐH, CĐ; quy
chế đào tạo, tuyển sinh, tuyển dụng; quy định về giáo trình; quy chế quản lý chất
lƣợng; quy chế quản lý khoa học; quyền hạn và trách nhiệm của giảng viên; quy
chế quản lý tài chính... chủ yếu thuộc trách nhiệm của Bộ GD-ĐT. Trong khi Bộ
là cơ quan duy nhất theo luật pháp đƣợc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
về quản lý giáo dục cấp bộ, thì việc kiểm tra chấp hành các văn bản đó ở 30,8%
tổng số cơ sở đào tạo do các bộ khác là cơ quan chủ quản, 33,2% cơ sở thuộc
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
190
UBND các tỉnh quản lý còn hạn chế. Thậm chí có bộ còn ban hành các văn bản
chồng chéo lên chức năng quản lý nhà nƣớc của Bộ GD-ĐT. Thêm nữa, có rất
nhiều quy định Bộ GD-ĐT muốn đặt ra để tạo thuận lợi cho các nhà trƣờng nhƣng
phải chịu sự chi phối của các quy định của các ngành khác, nhất là về tài chính và
nội vụ. Trong khi đó, khi có những vụ việc xảy ra thì trách nhiệm đều quy về
ngành giáo dục.
Thực tiễn đó dƣờng nhƣ đã tác động không nhỏ đến việc xây dựng các quy định,
quy chế liên quan đến các hoạt động của cơ sở đào tạo theo hƣớng "trói chặt",
thậm chí trong nhiều việc Bộ đã đóng vai trò nhƣ một trƣờng ĐH, để dễ quản hơn.
Lo lắng cho quyền lợi của ngƣời học, trách nhiệm với chất lƣợng nguồn nhân lực
của đất nƣớc, cho nên thay vì xây dựng hành lang pháp lý thì Bộ lại cầm tay chỉ
việc; hệ thống quản lý nặng chiều chỉ đạo từ trên xuống, xin từ dƣới lên. Còn một
nguyên nhân khiến cho việc phân cấp triệt để cho các cơ sở giáo dục chậm trễ,
nhƣ cố Giáo sƣ, Viện sĩ Nguyễn Văn Đạo từng "bắt bệnh": "có thể vì gắn với lợi
ích cục bộ nào đó". Và ông cho rằng "đây mới là cái khó, bởi ngƣời ta không
thẳng thắn nói ra điều đó, nhƣng thực tế là nhƣ vậy". Dẫu trong một vài năm vừa
qua, Bộ GD-ĐT cũng đã nỗ lực để giao quyền tự chủ cho các trƣờng, đặc biệt là
số trƣờng tham gia thí điểm, nhƣng nhận xét trên dƣờng nhƣ vẫn chƣa lỗi thời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
191
ĐỔI MỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM:
ĐÕI HỎI CẤP BÁCH
Đinh Lê Yên (thực hiện)
(Nguồn:
Doi-hoi-cap-bach-1920202/)
(GD&TĐ) - Đó là nhận định chung của hơn 50 đại biểu tại “Hội thảo những vấn
đề đặt ra đối với giáo dục đại học ở Việt Nam” do Văn phòng Quốc hội và Ủy ban
Văn hóa – Giáo dục – Thanh niên – Thiếu niên & Nhi đồng của Quốc hội tổ chức
tại TP. HCM ngày 22-23/12/2009. Báo GD & TĐ xin lược ghi những tham luận
đáng chú ý tại Hội thảo.
1. Bức tranh đa dạng
Theo TS Trần Thị Hà – Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT): Đến
tháng 8/2009 cả nƣớc có 226 trƣờng Cao đẳng (CĐ); 150 trƣờng Đại học (ĐH) và
71 Viện Nghiên cứu có đào tạo sau ĐH. Chƣa kể còn có 120 trƣờng CĐ nghề –
Trung cấp (TC) nghề thuộc Bộ Lao động – Thƣơng binh & Xã hội quản lý. Quy
mô đào tạo hiện nay của các cơ sở GDĐH khoảng 1.719.499 sinh viên (SV) ĐH,
CĐ và hơn 60.000 học viên cao học; gần 10.000 nghiên cứu sinh. Dự báo năm
2020, cả nƣớc có khoảng 8,5 - 9 triệu thanh niên (18-22 tuổi) trong độ tuổi ĐH.
Với nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức mà nƣớc ta đang bắt đầu xây
dựng, cần có ít nhất trên 15% - hoặc trung bình 25-30% và cao hơn là 50% thanh
niên VN trong độ tuổi học ĐH. Bên cạnh đó, nhu cầu học ĐH của ngƣời lao động
vì nhiều mục đích khác nhau cũng tăng lên.
Chiến lược phát triển GDVN 2001-2010 xác định: đến năm 2010 đạt
200 SV /10.000 dân (hiện nay là 189 SV/10.000 dân). Mục tiêu đến năm
2020 đạt 4,5 triệu SV với 600 trƣờng ĐH, CĐ trên cả nƣớc. Từ năm 1998
– tháng 5/2009, toàn quốc có 31 trƣờng ĐH thành lập mới (1 trƣờng công
lập; 30 trƣờng ngoài công lập) phân bố đều các vùng miền. Chỉ tiêu tuyển
sinh các trƣờng mới thành lập những năm đầu khoảng 500 SV/1 trƣờng,
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
192
theo lộ trình sẽ cho phép tăng chỉ tiêu 10%/1 năm (nếu đội ngũ giảng viên
đƣợc chuẩn bị tốt). Cũng từ 1998 - tháng 8/2009 có 54 trƣờng CĐ đƣợc
nâng cấp lên ĐH (51 trƣờng công lập; 3 trƣờng ngoài công lập) chủ yếu là
CĐSP.
Ở các trƣờng ĐH mới thành lập và mới nâng cấp, ngành nghề đào tạo đƣợc từng
bƣớc điều chỉnh theo hƣớng : tăng tỷ lệ đào tạo các ngành kỹ thuật – công nghệ;
Nông - Lâm - Ngƣ; Y - Dƣợc; Văn hóa - Nghệ thuật – Thể dục Thể thao. Ƣu tiên
đào tạo nguồn nhân lực cho: Công nghệ Thông tin; Sinh học; Vật liệu mới; các
ngành phục vụ công nghiệp hóa & Phát triển Nông thôn; đào tạo đội ngũ chuyên
gia, công chức cao cấp và cán bộ quản lý… Vì nhiều lý do, đa số các trƣờng này
chƣa thực hiện đúng các cam kết trong đề án khả thi thành lập trƣờng. Công tác
hậu kiểm sau khi thành lập trƣờng chƣa tốt, chƣa có chế tài xử lý đối với các
trƣờng không thực hiện đúng cam kết. Hạn chế lớn nhất là đội ngũ GV cơ hữu còn
thiếu (nhất là những GV có trình độ GS; PGS; TS)….
Vụ trưởng Vụ Khoa học – Công nghệ (Bộ GD&ĐT) TS. Tạ Đức Thịnh cho
biết: Hiện có 61.190 GV đang giảng dạy ở các trƣờng ĐH, CĐ trong nƣớc, chỉ có
gần 10% trong số này đạt trình độ TS – TSKH (6.127 ngƣời); số GS – PGS chiếm
chƣa tới 3% (2.286 ngƣời). Độ tuổi trung bình của các GS là 58; PGS và TS là
47… Nói chung ta đang thiếu hụt rất lớn cán bộ khoa học đầu tàu. Nhiều trƣờng
CĐ không có TS, một số trƣờng ĐH số TS đếm trên đầu ngón tay; nhiều trƣờng
ĐH không tìm ra GS; PGS… Hiện nay, các cơ sở GDĐH nƣớc ta có trên 2.600
phòng thí nghiệm; gần 1.500 thƣ viện – trung tâm thông tin – xƣởng thực hành –
trạm trại thực nghiệm, với kinh phí đầu tƣ khoảng 1.500 tỷ đồng (ngân sách chiếm
độ 30%). Hầu hết trang thiết bị phòng thí nghiệm – xƣởng thực hành đã cũ kỹ lạc
hậu…
2. Còn nhiều thách thức
PGS. TS. Lê Quang Minh – P. Giám đốc ĐH Quốc gia TP. HCM cho rằng:
Chƣơng trình đào tạo trong các trƣờng ĐH hiện quá cứng nhắc, khó liên thông,
khó chuyển ngành, trong khi thị trƣờng lao động lại đòi hỏi rất cao ở SV khi ra
trƣờng là phải có các kỹ năng “mềm”, mà đây lại là điểm yếu rõ nhất ở ĐH nƣớc
ta. với SV VN, lâu nay ta đào tạo ngƣợc lại; quá nặng về kiến thức chuyên môn và
viết lách (sao chép bài giảng nặng nề máy móc)… Các trƣờng ĐH của ta vận hành
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
193
kiểu cũ, hiệu suất sử dụng nguồn nhân lực thấp, cần minh bạch và công bố chuẩn
chất lƣợng đào tạo thật rõ ràng….
Là chuyên gia hàng đầu VN về GDĐH, GS.TS. Phạm Phụ (ĐH Bách khoa TP.
HCM) – Ủy viên Hội đồng Giáo dục quốc gia) nhận định: GDĐH VN đang
đứng trƣớc 7 bài toán nan giải và đan xen. Đó là: 1/ Bài toán đa dạng hóa mô hình
đào tạo mâu thuẫn với việc rất khó để đảm bảo chất lƣợng đào tạo. 2/ Bài toán nan
giải giữa mục tiêu trƣờng ĐH vì lợi nhuận hay không vì lợi nhuận? Không làm rõ
cơ chế này, các trƣờng ĐH sẽ không phát triển đƣợc. 3/ Bài toán đảm bảo tài
chính cho GDĐH đang gặp khó khăn lớn. Trong khi chi phí đơn vị cho 1 SV ở
Mỹ là 22.000 USD/1 năm; Đài Loan 7.000 USD/1 năm thì ở ta chỉ có 500 USD/1
năm là quá thấp. 4/ Bài toán phát triển ĐH ngoài công lập đang gặp ách tắc. Từ
năm 2005 – 2006, Chính phủ đã chỉ đạo phải chuyển đổi mô hình dân lập thành tƣ
thục (xong trƣớc 2006); thí điểm cổ phần hóa – hoàn trả vốn cho Nhà nƣớc; tăng
tỷ lệ SV ngoài công lập từ 12% (năm 2005) lên 30 – 40% (năm 2010). Đến nay,
những chủ trƣơng trên vẫn chƣa thực hiện đƣợc. Riêng SV ngoài công lập mới chỉ
đạt 15% (cuối năm 2009). 5/ Bài toán làm sao giữ đƣợc sự cân bằng nhất định
giữa “mất chất xám” và “thu hút chất xám”. Ta đang báo động về tình trạng “chảy
máu chất xám”. 6/ Bài toán về quản trị ĐH và tự chủ ĐH đã đƣợc xem xét triển
khai thực hiện, nhƣng chƣa tìm đƣợc lời giải thỏa đáng. 7/ Bài toán về chính sách
học phí và công bằng xã hội trong GDĐH còn ẩn chứa nhiều bất cập….
Theo GS Phạm Phụ, để giải quyết 7 bài toán nan giải, cần có những triết lý mới –
nguyên lý mới và chính sách mới tổng thể đồng bộ về phát triển GDĐH theo
hƣớng hội nhập toàn cầu – nhƣng vẫn giữ đƣợc bản sắc dân tộc VN. Cần chuẩn bị
cho một cuộc cải cách GDĐH thực sự, nhƣng tiến hành phải thận trọng, có lộ
trình thích hợp.
Liên quan đến vấn đề làm sao để nâng cao chất lượng đào tạo? PGS TS
Nguyễn Phƣơng Nga – giám đốc Trung tâm đảm bảo đào tạo và nghiên cứu
phát triển GD (ĐH Quốc gia Hà Nội) cho rằng: phải đặt các trƣờng ĐHVN trong
bức tranh chung của các trƣờng ĐH trên thế giới để biết ta đang ở đâu ? Cần bổ
sung quy định về chu trình và chu kỳ kiểm định chất lƣợng các trƣờng ĐH. Nên
có tổ chức độc lập, có tƣ cách pháp nhân và chuyên môn sâu về đo lƣờng, đánh
giá kiểm định chất lƣợng các trƣờng ĐH, để đảm bảo tính khách quan, trung thực,
tin cậy. Cần có những thay đổi căn bản về cơ chế quản lý GDĐH. Các kết quả
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
194
kiểm định cần đƣợc công khai kịp thời. Kiểm định chất lƣợng gắn liền với việc
phải xếp hạng các trƣờng ĐH theo từng lĩnh vực, để tạo ra sự cạnh tranh lành
mạnh về chất lƣợng đầu ra của các trƣờng ĐH. Hiện nay công tác này ta làm còn
yếu, hiệu quả thấp.
PGS Văn Như Cương (Hiệu trưởng trường THPT dân lập Lương Thế Vinh –
Hà Nội) băn khoăn: chúng ta đang tích cực xây dựng một số trƣờng ĐH đạt
chuẩn quốc tế, nhƣng mục tiêu của những trƣờng này là gì? Ta đầu tƣ nhiều tiền
cho trƣờng đạt chuẩn quốc tế, nhƣng hầu nhƣ chỉ có con em nhà giàu vào học.
Nếu xét về lợi ích quốc gia thì kiểu trƣờng quốc tế nhƣ thế không hiệu quả, không
nên phát triển rầm rộ. GD trƣớc hết phải vị nhân sinh chứ không vị giáo dục.
Nói về mục tiêu đến năm 2020 nƣớc ta có 4,5 triệu SV, GS Trần Hồng Quân
(nguyên Bộ trƣởng Bộ GD & ĐT) cho rằng : lấy đâu GV cho đủ để tăng GV lên
gấp 5 lần so với hiện nay (từ 61.190 GV lên 305.950 GV)? Trong khi 10 năm qua
số lƣợng GVĐH cả nƣớc chỉ tăng gấp đôi. Đáng quan tâm hơn là chất lƣợng GV
sẽ nhƣ thế nào? Nếu không bài toán nâng cao chất lƣợng GDĐH sẽ không giải
quyết đƣợc…
TS Phạm Thị Ly (Dự án ĐH Tân Tạo – TP. HCM) nhận định: GD ĐH trƣớc
hết là hàng hóa công và phục vụ cho lợi ích công. Nhà nƣớc không nên kiểm soát
(control) mà là xác lập các nguyên tắc đúng đắn và giám sát (oversee) và thực
hiện những nguyên tắc ấy. Các trƣờng ĐH phải đƣợc tự chủ ở mức độ cần thiết;
nếu không họ sẽ rất khó phát triển. Vì sự sống còn, các trƣờng ĐH phải gắn chặt
với các tổ chức sản xuất – kinh doanh, các tổ chức sử dụng lao động nói chung.
Những tổ chức này biết rõ nhất họ cần những gì ở SV tốt nghiệp. Cần có cơ chế
thích hợp để họ tham gia quyết định nội dung chƣơng trình đào tạo, chứ không
phải là những công chức giàu trí tƣởng tƣợng. Sự tự chủ – tự chịu trách nhiệm
trong các trƣờng ĐH phải gắn liền với “3 công khai”, mà Bộ GD & ĐT đang yêu
cầu các trƣờng phải thực hiện. Đây là những giải pháp rất quan trọng giúp các
trƣờng ĐHVN sớm thoát khỏi tình trạng tụt hậu để vƣơn lên ngang tầm thời đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO HỘI THẢO: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM”
195
Các trƣờng phải kiểm định và thực hiện nghiêm túc “3 công khai”
Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD & ĐT) TS Trần Thị Hà nhấn
mạnh: Nếu các trường ĐH không thực hiện nghiêm túc quy chế “3 công
khai” theo chỉ đạo của Bộ GD & ĐT, thì Bộ sẽ không giao chỉ tiêu tuyển
sinh ĐH năm 2010. Bên cạnh đó, Bộ cũng yêu cầu buộc các trường ĐH
phải thực hiện kiểm định chất lượng trường và kiểm định chương trình đào
tạo. Các trường ĐH mới nâng cấp cũng phải tự đánh giá. Sẽ có đánh giá
trong và đăng ký đánh giá ngoài. Trường nào làm tốt việc đánh giá ngoài
mới có quyền lợi trong chỉ tiêu tuyển sinh, đào tạo chất lượng cao. Bộ GD
& ĐT sẽ thẩm định năng lực thực tế của các trường khi mở mã ngành đào
tạo. Hàng năm, Bộ sẽ giao chỉ tiêu tuyển sinh dựa trên cơ sở các điều kiện
đảm bảo chất lượng và năng lực thực tế của từng trường ĐH.
Theo khảo sát của các doanh nghiệp ở Singapore (có 9 điều cần nhất ở các
SV tốt nghiệp ĐH, CĐ), thì thứ tự ưu tiên là: 1/ Kỹ năng trình bày vấn đề;
2/ Kỹ năng giao tiếp; 3/ Kỹ năng làm việc theo nhóm; 4/ Khả năng giải
quyết vấn đề; 5/ Xử lý công việc mềm dẻo linh hoạt; 6/ Khả năng quản lý
lãnh đạo; 7/ Kỹ năng viết; 8/ Kiến thức chuyên môn; 9/ Khả năng vi tính…
BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM
196
CHỊU TRÁCH NHIỆM NỘI DUNG
&
THIẾT KẾ BÌA VÀ TRÌNH BÀY
BAN TỔ CHỨC HỘI THẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tài liệu tham khảo hội thảo- giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và cao đẳng việt nam.pdf