Tài liệu, đề thi, câu hỏi luật tố tụng hình sự

PHẦN I: CÁC BÀI VIẾT THAM KHẢO TRÊN TẠP CHÍ – SÁCH – BÁO 1 Một số ý kiến về phạm vi giám đốc thẩm theo quy định tại điều 284 BLTTHS 1 2 Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự 4 3 Bàn về việc rút quyết định kháng nghị, quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 10 4 Một số vấn đề về chứng cứ trong tố tụng hình sự theo luật chứng cứ của úc 16 5 Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên toà hình sự 19 6 Tư pháp hình sự và yêu cầu tăng cường kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự 22 7 Giải quyết vấn đề Dân sự trong vụ án Hình sự 27 8 Về chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định tại điều 64 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 29 9 Một số vấn đề hoàn thiện biện pháp ngăn chặn bắt người trong Luật Tố tụng hình sự VN 37 10 Viễn cảnh viện kiểm sát ở Việt Nam 40 11 Pháp luật Việt Nam với việc đáp ứng các yêu cầu quốc tế về thủ tục tố tụng xét xử đối với người chưa thành niên 46 12 Một số ý kiến về thành lập toà án cho người chưa thành niên ở Việt Nam 52 13 Các loại hình tố tụng hình sự và hướng áp dụng ở Việt Nam 55 14 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 60 15 MÔ HÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 64 16 BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VIỆC BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM 72 17 BẢN CHẤT CỦA TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA 77 18 Tìm hiểu thủ tục rút gọn theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam 80 19 Tìm hiểu các kiểu (hình thức) tố tụng hình sự 82 20 SỰ THAM GIA BẮT BUỘC CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 85 21 BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 88 22 Bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra 92 23 VIỆN KIỂM SÁT HAY VIỆN CÔNG TỐ? 93 24 NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 102 25 CĂN CỨ ÁP DỤNG BIỆP PHÁP TẠM GIAM PHẠM KHẮC VỰC 106 26 Hướng tới hội thảo khoa học ” Bộ luật tố tụng hình sự – những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung” 108 27 THỰC TIỄN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ VÀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 111 28 NHỮNG BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CẢI CÁCH TƯ PHÁP 115 29 Hướng tới hội thảo khoa học ” Bộ luật tố tụng hình sự – những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung” THAM LUẬN: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA 118 30 QUYỀN CỦA LUẬT SƯ KHI CẦN GẶP GỠ BỊ CAN, BỊ CÁO ĐANG BỊ TẠM GIAM BỞI MỘT VỤ ÁN KHÁC – NHỮNG VƯỚNG MẮC VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT 121 31 Một số ý kiến sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự 2003 122 32 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 126 33 NHỮNG KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VÀ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI BỔ SUNG 129 34 HOÀN THIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN 132 35 Hủy án vì không mời người phiên dịch 135 36 Tăng cường bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân trong các giai đoạn tố tụng 136 37 Giám định pháp y tâm thần – vấn đề điều trị bắt buộc 138 38 Lựa chọn và chỉ định người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên trong các vụ án hình sự 141 39 Một số kiến nghị hạn chế việc phải chuyển từ thủ tục rút gọn sang thủ tục chung để giải quyết vụ án 143 40 Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam 147 PHẦN II: MỘT SỐ ĐỀ THI THAM KHẢO 1 Đề thi của trường Đại học Luật TPHCM 151 2 Đề thi của trường Đại học Luật Hà Nội 154 3 Một số câu hỏi ôn tập 155

doc156 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 6087 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu, đề thi, câu hỏi luật tố tụng hình sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại có thể thiếu những chứng cứ không thể bổ sung tại phiên toà. Cả hai trường hợp đều là căn cứ để trả hồ sơ để điều tra bổ sung và phải giải quyết theo thủ tục chung, vì vậy, việc quy định bổ sung điều kiện xác định căn cước, lai lịch nhanh chóng, dễ dàng là một điều kiện pháp lý cần thiết để hạn chế việc phải chuyển từ thủ tục rút gọn sang thủ tục chung để giải quyết vụ án. Trước đây, Thông tư số 12/TTLN ngày ngày 31/12/1990 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ nội vụ hướng dẫn điều tra, truy tố, xét xử đối với một số loại tội phạm cũng đã quy định việc “kẻ phạm tội có căn cước rõ ràng; không cần phải mất nhiều thời gian để xác minh về nhân thân của họ” là một điều kiện để áp dụng thủ tục rút ngắn về thời gian. Thứ ba, pháp luật hiện hành không quy định điều kiện phải có sự đồng ý lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn của bị can mà chỉ có quy định về quyền khiếu nại của họ đối với quyết định này. Có một số ý kiến cho rằng do văn hoá pháp lý, mặt bằng hiểu biết pháp luật của nhân dân còn nhiều hạn chế nên việc đưa điều kiện này vào BLTTHS là chưa thực sự phù hợp với thực tế của Việt Nam hiện nay.([2]) Ngược lại, nhiều ý kiến cho rằng cần bổ sung điều kiện người thực hiện hành vi phạm tội đồng ý lựa chọn áp dụng thủ tục thủ tục rút gọn. Lập luận cho ý kiến này là thủ tục rút gọn với việc rút ngắn thời gian và rút gọn một số thủ tục tố tụng nên phần nào ảnh hưởng đến quyền của bị can, bị cáo, đặc biệt là quyền bào chữa. Mặt khác, sẽ là không công bằng nếu một người thực hiện hành vi phạm tội ít nghiêm trọng, tính chất đơn giản, rõ ràng lại bị xử lý theo một thủ tục ít nhiều mang tính hạn chế hơn so với những trường hợp phạm tội nghiêm trọng, phức tạp. Từ đó, có thể nói rằng việc quy định bị can có quyền lựa chọn hình thức thông thường hay rút gọn đối với vụ án của mình là hoàn toàn cần thiết, bởi quyền được xét xử với một thủ tục đầy đủ theo luật tố tụng hình sự là quyền cơ bản của công dân. Đây là yêu cầu cần thiết để đảm bảo quyền con người trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.([3]) Chúng tôi đồng ý với quan điểm và những lập luận này và bổ sung thêm một số ý kiến để làm rõ sự cần thiết phải quy định thêm điều kiện này. Theo quy định tại khoản 3 Điều 320 BLTTHS, bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến Viện kiểm sát đã ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và phải được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quy định này đã phần nào đảm bảo quyền của bị can và đại diện hợp pháp của họ có quyền của mình đối với việc áp dụng thủ tục rút gọn, tuy nhiên đó là quyền có tính chất thụ động trước quyết đinh của cơ quan tiến hành tố tụng mà không phải quyền lựa chọn một cách chủ động. Vì vậy quy định này dẫn đến hậu quả pháp lý khó giải quyết thoả đáng khi có khiếu nại của bị can và đại diện hợp pháp của họ. Điều luật không quy định rõ là Viện kiểm sát phải giải quyết như thế nào nên có thể hiểu là nội dung khiếu nại của bị can hoặc đại diện hợp pháp của họ có thể được chấp nhận hoặc không chấp nhận. Trong trường hợp chấp nhận khiếu nại, Viện kiểm sát huỷ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được chuyển sang giải quyết theo thủ tục chung. Trong trường hợp không chấp nhận khiếu nại, vụ án vẫn được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì khả năng bị can hoặc đại diện hợp pháp của họ kháng cáo bản án sơ thẩm là rất cao. Khi bị can và đại diện hợp pháp của họ đã không chấp nhận thủ tục rút gọn thì thông thường họ cũng sẽ không tin tưởng vào kết quả của việc xét xử nên họ sẽ tận dụng quyền kháng cáo của mình để phản đối kết quả xét xử nói riêng cũng như kết quả của quá trình tố tụng theo thủ tục rút gọn nói chung. Hậu quả pháp lý của việc kháng cáo dẫn đến việc phải xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung, nếu Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra xét xử lại thì việc điều tra xét xử lại cũng được tiến hành theo thủ tục chung. Như vậy, trong cả hai trường hợp chấp nhận hoặc không chấp nhận khiếu nại về quyết định áp dụng thủ tục rút gọn cũng đều có thể dẫn đến hậu quả vụ án phải chuyển sang giải quyết theo thủ tục chung, làm cho thủ tục giải quyết vụ án trở nên phức tạp và kéo dài hơn nếu chỉ áp dụng thủ tục chung. Sẽ là hợp lý hơn nếu như thay vì quy định cho bị can và đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn bằng quy định chỉ áp dụng thủ tục rút gọn khi bị can và đại diện hợp pháp của họ đồng ý lựa chọn giải quyết vụ án bằng thủ tục rút gọn. Trước khi quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, cơ quan điều tra thông báo cho bị can và đại diện hợp pháp của họ việc vụ án thuộc trường hợp có thể áp dụng thủ tục rút gọn, giải thích rõ cho họ về thủ tục này và quyền của họ trong việc lựa chọn việc áp dụng thủ tục chung hay thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án mà trong đó mình là bị can. Luật tố tụng hình sự của nhiều nước có áp dụng những thủ tục có tính chất rút gọn thủ tục và rút ngắn thời gian (với những tên gọi khác nhau và những quy định cụ thể cũng khác nhau) cũng coi việc bị can, bị cáo đồng ý lựa chọn thủ tục đặc biệt đó là một điều kiện không thể thiếu để áp dụng. Ví dụ, Điều 462 BLTTHS Nhật Bản quy định yêu cầu của công tố viên yêu cầu toà giản lược ra lệnh xử phạt theo thủ tục giản lược phải kèm theo văn bản đồng ý của người bị tình nghi;([4]) Điều 314 BLTTHS Liên bang Nga quy định bị can có quyền tuyên bố đồng ý với nội dung buộc tội họ và yêu cầu ra bản án mà không cần tiến hành xét xử và việc đưa ra yêu cầu là tự nguyện;([5]) thủ tục mặc cả thú tội ở Mỹ và một số nước (thực chất cũng là thủ tục đặc biệt có tính chất rút gọn theo trình tự tố tụng không đầy đủ) đòi hỏi phải có sự dàn xếp giữa bị cáo, người bào chữa với cơ quan tiến hành tố tụng; theo BLTTHS Đức quy định về quyết định xử phạt (không qua phiên toà xét xử), công tố viên có thể xoá bỏ tố tụng nếu như bị cáo đồng ý trả một khoản tiền cho một tổ chức từ thiện hay nhà nước; theo luật TTHS Italia, bị cáo có thể yêu cầu xét xử rút gọn (còn gọi là biện pháp thay thế xét xử), thẩm phán phải quyết định có xét xử theo thủ tục này hay không; theo luật tố tụng hình sự Tây Ban Nha, chỉ áp dụng thủ tục rút gọn nếu cả bị cáo và công tố viên đồng ý với thủ tục này([6])… Từ những phân tích trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 319 BLTTHS như sau: “Điều 319. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn: Thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau: 1.    Bị can bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang; … 4. Bị can có căn cước, lai lịch rõ ràng, có thể xác định nhanh chóng, dễ dàng. 5.    Bị can và đại diện hợp pháp của bị can đồng ý lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn. 2. Cần bổ sung quy định về việc cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án áp dụng thủ tục rút gọn nếu họ và gia đình họ không mời người bào chữa. Khi áp dụng thủ tục rút gọn, một trong những vấn đề cần đặc biệt quan tâm, đó là việc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Khi thời hạn điều tra, truy tố, xét xử rút ngắn như vậy, việc bị can, bị cáo chuẩn bị cho việc tự bào chữa hay liên hệ và mời người bào chữa cho mình là rất khó khăn và khó có thể cẩn thận, kỹ lưỡng. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo không được đảm bảo sẽ có ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án, đồng thời làm cho bị can, bị cáo không yên tâm, không thoả mãn với kết quả giải quyết của Toà án, dễ dẫn đến việc kháng cáo phúc thẩm. Vì vậy, việc đảm bảo quyền bào chữa trong thủ tục rút gọn cần phải được quy định hợp lý. Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng, “cần coi đây (trường hợp bị can, bị cáo bị áp dụng thủ tục rút gọn) là trường hợp bắt buộc có người bào chữa tham gia vụ án”.([7]) Đây có thể coi là một trong những trường hợp mà bị can, bị cáo không có đầy đủ điều kiện để có thể thực hiện đầy đủ quyền bào chữa của mình, nếu như bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần không đầy đủ điều kiện về mặt chủ quan để thực hiện quyền bào chữa thì bị can, bị cáo bị áp dụng thủ tục rút gọn không đầy đủ diều kiện khách quan để thực hiện quyền này. Vì vậy, theo chúng tôi, cần bổ sung quy định về việc cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án áp dụng thủ tục rút gọn nếu họ và gia đình họ không mời người bào chữa. Về kỹ thuật lập pháp, cần bổ sung một điều riêng trong Chương XXXIV “Điều 320b. Bào chữa Người bào chữa do bị can, bị cáo lựa chọn. Trong trường hợp bị can, bị cáo không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình”. Đồng thời quy định bổ sung thêm trường hợp này thành điểm c khoản 2 Điều 57 BLTTHS: Điều 57. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa 1. … 2. … c. Bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng có áp dụng thủ tục rút gọn. 3. Cần nâng cao tính chuyên môn trong hoạt động xét xử, quy định chỉ cần một thẩm phán xét xử sơ thẩm, không có sự tham gia của Hội thẩm. Theo luật tố tụng hình sự một số nước thì việc xét xử theo thủ tục rút ngắn thường do một thẩm phán tiến hành và việc xét xử rất đơn giản và nhanh chóng. Có ý kiến cho rằng phương án này là lý tưởng và rất tốt nhưng chưa thể áp dụng trong điều kiện của chúng ta hiện nay vì vi phạm nguyên tắc xét xử tập thể và điều kiện còn nhiều hạn chế, tiêu cực trong xét xử còn nhiều.([8]) Có ý kiến lại cho rằng nên quy định việc xét xử phúc thẩm chỉ do một thẩm phán xét xử với lập luận để giản lược bớt thủ tục và cho rằng quy định này cũng không vi phạm nguyên tắc xét xử có hội thẩm tham gia vì nguyên tắc này vẫn có những ngoại lệ, không quy định bắt buộc phải có Hội thẩm trong Hội đồng xét xử phúc thẩm, khi việc xét xử đòi hỏi chất lượng cao. Tuy nhiên cũng cần có những điều chỉnh hợp lý nguyên tắc này và nguyên tắc xét xử tập thể.([9]) Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm này và đồng thời xem xét vấn đề ở khía cạnh khác, đó là việc không có Hội thẩm tham gia xét xử theo thủ tục rút gọn sẽ nâng cao chất lượng xét xử và hạn chế bản án bị kháng cáo, kháng nghị dẫn đến việc phải chuyển sang thủ tục chung để giải quyết. Mục đích của việc quy định và áp dụng thủ tục rút gọn là nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn phải đảm bảo việc xử lý đúng đắn vụ án. Nếu không đảm bảo chất lượng, hiệu quả công tác xét xử thì việc bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hoặc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là điều khó tránh khỏi. Để đảm bảo việc xét xử đúng, một trong những điều kiện cơ bản là những người tiến hành xét xử phải hiểu rõ pháp luật và tinh thông những kỹ năng xét xử – điều này không thể đòi hỏi ở Hội thẩm. Nếu Hội đồng xét xử sơ thẩm vẫn gồm một thẩm phán, hai Hội thẩm như thủ tục chung và biểu quyết theo đa số thì ý kiến của những người không có chuyên môn và nghiệp vụ xét xử lại chiếm đa số, khó đảm bảo chất lượng xét xử. Vì vậy, theo chúng tôI, việc quy định việc xét xử theo thủ tục rút gọn không có Hội thẩm tham gia là hợp lý, không chỉ đảm bảo xét xử nhanh chóng mà còn đảm bảo chất lượng của hoạt động xét xử. ([1]). Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 23 và tr. 114. ([2]). Nguyễn Văn Hiền, Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng hình sự Việ Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, tr.45. ([3]). Chương trình KHXH cấp nhà nước, đề tài Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, Hà Nội, 2006, tr.304. ([4]). Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản, bản dịch tiếng Việt của VKSNDTC, Hà Nội, 1993, tr. 75. ([5]). Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2002, bản dịch tiếng Việt của VKSNDTC, Hà Nội, 2002, tr. 131. ([6]). Truyền thống luật dân sự Châu Âu, Mỹ La tinh và Châu Á, dịch từ nguyên bản tiếng Anh “the civil law tradition: europe, latin america and east asia”, bản dịch của Viện khoa học kiểm sát VKSNDTC. Hà Nội 1998, tr. 26;29;58,62. ([7]). Viện khoa học kiểm sát, VKSNDTC, Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, (Nguyễn Văn Hoàn, Mấy ý kiến về thủ tục rút ngắn), Hà Nội, 1995, tr. 55. ([8]). Sđd, tr. 53. ([9]). VKSNDTC, chuyên đề hội thảo luật tố tụng hình sự , Nguyễn Đức Mai, Thủ tục rút ngắn trong tố tụng hình sự, Hà Nội, 1997; Chương trình KHXH cấp nhà nước, đề tài Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, Hà Nội, 2006, tr.305. Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam 1. Khái niệm chung Xuất phát từ đặc trưng của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật TTHS. Đó là những quan hệ luôn có 1 bên là quyền lực cơ quan Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn giải quyết các vụ án hình sự, mặt khác tội phạm là hành vi nguy hiểm không chỉ cho riêng một cá nhân nào mà hành vi nguy hiểm cho xã hội, nguy hiểm cho lợi ích chung của cộng đồng, do vậy trong tố tụng hình sự các cơ quan có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp cưởng chế để tác động tới đối tựợng. Đặc điểm chung của các biện pháp cưởng chế là sự tác động một chiều không phụ thuộc vào ý trí của bên bị tác động xuất phát từ những căn cứ điều kiện do pháp luật quy định. Tùy thuộc vào mục đích áp dụng, đối tượng áp dụng hoặc những tiêu chuẩn khác mà các nhà làm luật phân chia các biện pháp cưỡng chế thành những nhóm khác nhau và trong mỗi nhóm lại có những biệm pháp khác nhau, vói những trình tự thủ tục khác nhau : bao gồm 2 nhóm chính. Nhóm các biện pháp ngăn chặn và nhóm các biện pháp điều tra. Những biện pháp cưỡng chế điều tra có mục đích nhằm thu thập chứng cứ của vụ án làm căn cứ xem xét việc truy cứu THHS đối với người phạm tội, ví dụ như biện pháp khám xét có thể áp dụng đối với khám người, khám đồ vật, thư tín, khám chổ ở, địa điểm hoặc như biện pháp kê biên tài sản, tạm giữ đồ vật, tài liệu… theo Điều 79 BLTTHS 2003 bao gồm các biện pháp sau: Bắt ( bao gồ bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, bắt người bị truy nã và bắt bị can bị cáo để tạm giữ, tạm giam cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm, như vậy tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS hiện hành. Vấn đề đặt ra là biện pháp tạm giữ được áp dụng với những trường hợp nào. a. Đối tượng tạm giữ Điều 86 BLTTHS 2000 quy định về đối tượng, căn cứ và thẩm quyền áp dụng Biện pháp ngặn chặn tạm giữ. Theo quy định của điều luật này thì tạm giữ là việc cơ quan và người có thẩm quyền ra quyết định tạm thời hạn chế tự do trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc trường hợp khẩn cấp. Mục đích của BPNC tạm giữ là nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc hành vi cản trở việc điều tra khám phá tội phạm của người bi nghi là thực hiện hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền đủ thời gian để xác định tính chất, mức độ của hành vi, nhân thân của người thực hiện hảnh vi nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc các quyết định quản lý cần thiết khác như, tạm giữ áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hay trả tự do cho người bị bắt. Nhìn chung đối tượng bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, tuy nhiên điều luật cũng không quy định bắt buộc trong tất cả mọi trường hợp bắt đó đều phải tạm giữ, mà trong một số trường hợp bắt người phạm tội quả tạng, nếy xét thấy hành vi phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng lại có nơi cư trú rõ ràng không có cơ sở để ch từng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra trong các trường hợp đó không cần thiết phải tạm giữ họ. Điều 86 BLTTHS 2003 cũng không quy định cụ thể các căn cứ áp dụng BPNC tạm giữ, mà căn cứ để tạm giữ được hiểu là nếu việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang khi có đủ căn cứ quy định tại Điều 81 và 82 BLTTHS năm 2003 thì đó cũng chính là căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giữ. Điều luật cũng quy định những người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ là những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp theo quy định tại Điều 81 BLTTHS 2003. Khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “ tạm giữ có thể áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu tú hoắc đối với người bị bắt theo quyết đinh truy nã”. Như vậy, việc tạm giữ có thể áp dụng với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang quy định  tại các Điều 81 và 82 của BLTTHS, tức là các điều luật quy định về bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy nã cũng như đối với phạm tội tự thú hoặc đầu thú. Nhận thức về quy định này cho thấy biện pháp tạm giữ có thể được áp dụng với các đối tượng bị bắt khẩn cấp, bắt quả tang, bắt truy nã, người đầu thú, tự thú chứ không bắt buộc, nói cách khác, sau khi bị bắt trong các trường hợp nêu trên, người bị bắt có thể bị tạm giữ hoặc không bị tạm giữ. Tinh thần này đã được quy định tại Điều 83 của BLTTHS. Khoản 1 Điều 83 quy định “ Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, hoặc phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”. Như vậy, biện pháp tạm giữ là một BPNC độc lập, việc quy áp dụng biện pháp này phải có những căn cứ  nhất định chứ không phụ thuộc vào biện pháp bắt, nói cách khác, biện pháp tạm giữ không phải là biện pháp ngăn chặn bắt buộc phải áp dụng sau khi bắt người. Vấn đề đặt ra là khi nào cơ quan có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ? Còn khi nào không cần thiết tạm giữ? Do vậy nên chăng cần quán triêt mục đích của tạm giữ trong TTHS. Mặc dù trong BLTTHS không quy định rõ mục đích của việc tạm giữ nhưng qua các điều luật về tạm giữ cho thấy việc tạm giữ người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người tự thú, đầu thú là nhằm có điều kiện để tiếp tục xác minh thêm về hành vi phạm tội của người bị bắt, người ra tự thú, đầu thú để làm rõ thêm căn cứ của việc khởi tố vụ án cũng như khởi tố bị can đối với người họ. Tinh thần này cũng đã được thể hiện qua các quy phạm tại các Điều như Điều 83 Điều 87 của BLTTHS. Khoản 3 Điều 87 quy định: “ Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ”. Như vậy sau khi bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quà tang , hoặc khi người phạm tội ra đầu thú, tự thú thì họ không thể không bị tạm giữ trong các trường hợp sau đây: - Các cơ quan có thẩm quyền xác đinh được ngay việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ. - Ngay sau khi bắt người khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú các cơ quan có thẩm quyền đã xác định được đầy đủ căn cứ để có thể khởi tố đối với người bị bắt, người tự thú, đầu thú nên đã ra các quyết định khởi tố cần thiết và cũng đã xác định được ngay căn cứ để có thể tạm giam đối với họ nên đã gia lện tạm giam với bị can mà không cần tạm giữ. Hoặc ngay sau khi bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú đã xác định đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án và khởi tố bị can nên cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định tạm giữ, rồi sau khi đã ra quyết định khởi tố cần thiết nhưng xét thấy không cần thiết phải tạm giam bị can nên cơ quan điều có thẩm quyền để cho bị được tại ngoại mà không cần thiết phải tạm giam bị can. Ngoài các trường hợp nêu trên, nếu sau khi bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang, cơ quan có thẩm quyền đã gửi lệnh bắt cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát kiểm sát việc bắt và Viện kiểm sát đã không phê chuẩn việc đó thì cũng không được đưa ra quyết định tạm giữ đối với người bị bắt. Một vấn đề đặt ra về đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ, đó là những trường hợp một người đang bị truy nã, bị bắt lại nhưng địa điểm bắt ở xa nơi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền giải quyết vụ này. Trong thời gian thông báo cho cơ quan có thẩm quyền đến để nhận lại bi can, bị cáo mà họ truy nã thì cơ quan đã bắt được bị can, bị cáo có quyền ra quyết định tạm giữ hay tạm giam hay không? Về nguyên tắc thì không một ai có thể bị bắt, giữ mà không có quyết định các cơ quan có thẩm quyền. Theo hướng dẫn của Thông tư số 03 ngày 7/1/1995  giữa Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ nội vụ (nay là Bộ công an ) có những hướng dẫn điều chỉnh như sau: Theo quyết định tại điều 64, 65 BLTTHS năm 1988 thì cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân bắt được hoặc nhận được người bị truy nã thì phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt tới cơ quan điều tra có thẩm quyền ở địa bàn đó. Sau khi lấy lời khai, cơ quan điều tra phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết và giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất. Ngay sau khi nhận được thông báo về việc đã bắt được người bị truy nã, cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã phải báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã có yêu cầu truy nã biết. Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã có trách nhiệm thực hiện theo đúng hướng dẫn tại điểm 1 hoặc điểm 2 của Thông tư này. ( Điểm 1 và Điểm 2 của Thông tư số 03 có tinh thần chung là quy định Cơ quan điều tra nơi bắt người bị truy nã phải tiến hành lấy lời khai của người bị bắt và sau đó ra lệnh tạm giữ đối với bj can và giải ngay người đó đến trại giam nơi gần nhất. Trại giam có trách nhiệm  tiếp  nhận và tạm giữ bị can. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được thông báo của cơ quan điều tra về kết quả truy nã là đã bắt được bị can thì viện kiểm sát hoặc Tòa án đã yêu cầu truy nã phải ra quyết định tạm giam đối với bị can và tiếp tục tiến hành những công việc theo thủ tục chung nhằm bảo đảm việc quy định của pháp luật ). Trong trường hợp trước ngày hết thời hạn tạm giữ ( tối đa là 9 ngày ) mà trại tạm giam vẫn không nhận được quyết định tam giam của Viện kiểm sát hoặc của Tòa án đã có yêu cầu truy nã đối với người bị bắt thì trại tạm giam cần báo ngay cho cơ quan điều tra nơi đã bắt được người bị truy nã. Ngay sau khi nhận được thông báo của trại tạm giam, cơ quan điều tra nơi đã bắt được người bị truy nã có trách nhiệm yêu cầu cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đến nhận ngay người bị bắt hoặc tự mình áp giải người bị bắt đến cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã. Theo tinh thần của Thông tư số 03 nói trên thị việc tạm giữ có thể áp dụng đối người bị bắt truy nã, tức là người có áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị thi hành án mà trốn tránh, nói cách khác, đối tượng có thể áp dụng biện pháp tạm giữ không chi là những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang mà có thể áp dụng cả đối với người bị bắt theo lệnh truy nã. Tất nhiên trong trường hợp này thì mục đích của biện pháp tạm giữ là nhằm tạo điều kiện về thời gian để cơ quan nơi đã ra lệnh truy nã đến nhận lại người bị bắt theo lệnh hoặc theo yêu cầu truy nã của họ. Rõ ràng việc tạm giữ người trong trường hợp này là cần thiết và vấn đề này đã được bổ sung vào trong quy định của BLTTHS 2003. b. Về thẩm quyền ra quyết định tạm giữ. Khoản 2 Điều 86 BLTTHS quy định “ Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”. Theo khoản 2 Điều 86 quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì có bốn nhóm người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm nhóm người sau đây: - Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp ( cơ quan điều tra trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao… ) - Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương ; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới. - Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng. - Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển. Như vậy theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện trở lên có quyền ra quyết định tạm giữ. Thực hiện quyết định này, khi nhận người bị bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì UBND phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan thẩm quyền. Như vậy, những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang. c. Về thời hạn tạm giữ Theo Điều 87 BLTTHS, thời hạn tạm giữ không được qúa ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ nhưng không được quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng cũng không được quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người đã bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ được tính vào thời hạn tạm giam. Việc tạm giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không có quy định khác về thời hạn tạm giữ. Theo các quy định nêu trên, cách tính thời hạn trong TTHS đã quy định khi tính thời hạn theo ngày tháng thì thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ, do vậy trong cách tính thời han tạm giữ, thời điểm ra lệnh tạm giữ chỉ có ý nghĩa để tính ngày bị tạm giữ chứ không có ý nghĩa tính giờ bị tạm giữ, nói cách khác mặc dù các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ vào lúc mấy giờ nhưng thời hạn tạm giữ chỉ hết vào lúc 24 giờ của ngày hết hạn. Việc BLTTHS quy định hai lần có thể gia hạn tạm giữ nhằm bảo đảm tính có căn cứ và cần thiết của việc tạm giữ, hạn chế hiện tượng tạm giữ tràn làn, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, do vậy đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải nhận thức rõ vấn đề này để bảo đảm áp dụng pháp luật được tốt. Trong quy định cũng như nhận thức về thời hạn tạm giữ cũng phát sinh một số vấn đề đòi hỏi cần có nhận thức thống nhất. Một số vấn đề cần giải thích kịp thời. Thứ nhất: Theo quy định của Điều 87, thời hạn tạm giữ được tính từ thời điểm cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Về khái niệm chúng ta thấy rằng, trong BLTTHS chỉ dung khái niệm Cơ quan điều tra để chỉ các cơ quan điều tra sau: Cơ quan điều tra của lực lượng cảnh sát, Cơ quan điều tra của lực lượng công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát. Nếu thời hạn tạm giữ chỉ được tính từ khi “cơ quan điều tra” nhận người bị bắt thì sẽ phát sinh hiện tượng có những cơ quan và người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ  ( như chỉ huy đơn vi quân đội độc lập cấp trung đoàn, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giói, người chỉ huy máy bay, tàu bay trên biển khi máy bay tàu biển đã rời khỏi sân bay bến cảng ) nhưng quyết định tạm giữ của những cơ quan và những người đó lại không được tính thời hạn, quyết định tạm giữ của họ chỉ bắt đầu khi họ được giao người bị bắt và và bị tạm giữ đó cho “Cơ quan điều tra” có thẩm quyền. Như vậy ở đây phát sinh hiện tượng có cơ quan ra quyết định tạm giữ, có người bị tạm giữ nhưng quyết định tạm giữ của họ không được pháp luật điều chỉnh về mặt thời hạn. Quy định như Điều 87 BLTTHS 1988 rõ ràng mới chỉ điều chỉnh thời hạn tạm giữ của một trong bốn nhóm người có thẩm quyền ra quyểt định tạm giữ chứ chưa bao quát hết cả bốn nhóm người ra quyết định tạm giữ. Thứ hai: Khoản 4 Điều 87 quy định thời hạn tạm giữ được tính vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Quy định này có mục đích nhân đạo, do vậy cho phép nếu sau đó người bị tạm giữ bị khởi tố bị can và họ tạm giam thì được trừ đi thời hạn họ đã bị tạm giữ vào thời hạn tam giam. Tuy nhiên sau này, nếu như người phạm tội bị Tòa án kết án tù có thời hạn thì pháp luật Việt Nam vẫn cho phép trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam vào thời hạn họ phải chấp hành hình phạt tù. Điều 33 BLHS 1999 quy định “Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù”. Đây là quy định mới rõ ràng hơn của so với BLHS năm 1985. Do vậy việc áp dụng luật cần được quán triệt để áp dụng đúng luật. d. Về thủ tục tạm giữ BLTTHS quy định muốn tạm giữ người phải có quyết định của người có thẩm quyền. Quyết định này không đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của VKS trước khi thi hành. Trong thời hạn 12 giờ, quyết định này phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một bản. Căn cứ những quy định tại Điều 86 BLTTHS và xuất phát từ thực tiễn áp dụng BPNC tạm giữ, đó là trên thực tế đã phát sinh thêm một số đối tượng như: những người đang bị truy nã khi bị bắt, người phạm tội ttự thú, đầu thú cũng cần phải tạm giữ để chờ xử lý, và cũng phát sinh thêm một loại chủ thể cần có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ, đó là chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển, cũng như nghiên cứu về thẩm quyền, thủ tục, mục đích tạm giữ thì có thể đưa ra khái niệm về BPNC này như sau: “Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, do cơ quan và người có thẩm quyền theo pháp luật áp dụng đối với những người bị bắt  trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã, người phạm tội tự thú, đầu thú nhằm ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện cho việc xử lý tội phạm được chính xác cao kịp thời” Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây: - Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt quả tang trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú. - Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhỉệm hình sự: - Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở công việc điều tra. Vậy khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 đã bổ sung quy định chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ. 2. Những bất cập còn tồn tại trong việc quy định về biện pháp tạm giữ trong BLTTHS 2003 Tuy BLTTHS 2003 đã có sửa đổi bổ sung rất nhiều so với BLTTHS 1988, và đã có sự chặt chẽ hơn. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp tạm giữ vẫn còn nhỉều bất cập, đã gây không ít khó khăn cho những hoạt động áp dụng các quy định trên. a. Về đối tượng bị áp dụng đối với biện pháp tạm giữ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Mà như chúng ta đã biết, người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội vì bị bắt mà họ tự nguyện trình diện khai báo hành vi phạm tội. Họ không phải là người bị bắt. Chính vì vậy, việc khoản 1 Điều 86 quy định “Tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã”. Vô hình chung đã coi người phạm tội tự thú, đầu thú là người bị bắt, điều này là không hợp lý. b. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ: Theo khoản 2, Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2, Điều 81 của bộ luật này. Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ” Việc điều luật quy đinh bổ sung thêm thẩm quyền ra lệnh tạm giữ cho Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển . Điều này là hoàn toàn hợp lý. Xuất phát từ đặc thù công việc và địa bàn hoạt động vì thế lực lượng cảnh sát biển trong một số trường hợp được giao thẩm quyền điều tra thì Thủ trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật chưa có quy định cụ thể về việc Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có thẩm quyền quyết định tạm giữ trong những trường hợp nào? Với những đối tượng nào? Chính vì vậy, về lý luận cũng như trong thực tế áp dụng còn vướng mắc, cần sự quy định rõ ràng. c. Về thời hạn tạm giữ Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định “ thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt” Để đạt được mục tiêu của tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thì thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ khi ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì việc quy định như trên vẫn còn nhiều vướng mắc Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Và như chúng ta đã biết người phạm tội tự thú đầu thú không phải là người bị bắt mà họ tự nguyện trình diện, khai báo hành vi phạm tội. Họ không phải là người bị bắt. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là : thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào? Điều này chưa được pháp luật quy định. Thứ hai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày. Vậy câu hỏi đặt ra là từ “ngày” trong cụm từ “ba ngày” được hiểu như thế nào? Có bao gồm cả ngày và đêm là 24 giờ hay chỉ là 12 giờ? Điều luật này chưa có quy định rõ , cần có sự quy định rõ ràng hơn. Thứ ba: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày kể từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Điều này có nghĩa là thời điểm tạm giữ được tính từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại điểm C, Điều 81 BLTTHS thì; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng mới có quyền ra lệnh bắt trong trường hợp khần cấp, và có quyền ra quyết định tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 BLTTHS. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là : Trong trường hợp tàu bay thì có thể kịp thời hạn để giao hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra, nhưng trong một số trường hợp tàu biển thì khó có thể về kịp thời hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra. Vậy trong trường hợp này thời hạn tạm giữ sẽ được tính như thế nào? Điều này chưa được luật quy định. d. Về gia hạn tạm giữ Theo khoản 2 Điều 87 BLTTHS quy định: “ trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không được quá 3 ngày; trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lấn nhưn không được quá 3 ngày…” Quy định này sẽ giúp cho người hoạt động điều tra có hiệu quả hơn. Tuy nhiên luật cần nêu rõ: Trong trường hợp cần thiết đề ra quyết định tạm giữ là những trường hợp nào? Mức độ cụ thể ra sao? Do luật chưa có quy định rõ điều này nên trong thực tiễn áp dụng có thể dẫn tới sự áp dụng không thống nhất quy đinh nảy trong việc gia hạn tạm giữ. Mặt khác cần quy định rõ hơn “ trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lần nhưng không được quá ba ngày” . Nếu quy định như trên thì nên hiểu “ hai lần” mỗi lần không được quá ba ngày hay nên hiều “ hai lần” nhưng tổng thời gian hai lần đó là không quá ba ngày? Trong thực tế sẽ có nhỉều người hiểu sai lệch quy định của luật. Do vậy chúng ta cần có quy định rõ hơn. e. Việc trả tự do cho người bị tạm giữ Theo khoản 3 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định: “ trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ.” Việc luật quy định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ nếu không có đủ căn cứ khởi tố bị can là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên luật lại không quy định về thẩm quyền trả tự do và thủ tục trả tự do cho người bị tạm giữ. Do đó đặt ra câu hỏi là: trong trường hợp người phải trả tự do cho người bị tạm giam thì ai có thẩm quyền trả tự do cho họ?  Phải chăng là những người có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 thì cũng là người có thẩm quyền ra lệnh trả tự do cho người  tạm giữ hay là một chủ thể khác. Và thủ tục trả tự do luật cần có quy định rõ. PHẦN II: MỘT SỐ ĐỀ THI THAM KHẢO MỤC 1: ĐỀ THI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TPHCM Đề thi môn TTHS1 Lớp QT31B Thời gian 60' Được sử dụng tài liệu Câu I (4 điểm) Suy đoán vô tội là gì? Cho biết thực trạng đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội cho người bị buộc tội trong TTHS ở VN. Câu 2 (6 điểm) Nhận định 1. QHPL TTHS phát sinh từ khi phát hiện dấu hiệu tội phạm. 2. Người bị tạm giữ, bị can và bị cáo là những người ó quyền khai báo. 3. Lời khai báo của người làm chứng là nguồn chứng cứ. 4. Tòa án có quyền hủy biện pháp tạm giam do VKS áp dụng. Đề thi môn TTHS1 Lớp QT31B Thời gian 60' Được sử dụng tài liệu Câu I (4 điểm): Nhận định 1. Trong một số TH luật định người bị hại có quyền yêu cầu khởi tố VAHS. 2. Chỉ có CQĐT mới có quyền khởi tố bị can. 3. Các hoạt động điều tra chỉ được tiến hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án. 4. Tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo, kháng nghị không có quyền bổ sung kháng cáo, kháng nghị theo hướng bất lợi cho bị cáo. Câu II (3 điểm) - Nêu hướng giải quyết và quyết định tố tụng đưa ra của VKS trong các tình huống: 1. Xác định được bị can còn phạm một tội khác. 2. Bị can bị bệnh tâm thần. Câu III (3 điểm) - Nêu hướng giải quyết và quyết định tố tụng đưa ra của HĐXXPT trong các tình huống: 1. Có đầy đủ chứng cứ xác định bị cáo phạm tội khác nặng hơn tội đã bị tòa án sơ thẩm kết án. 2. Có đầy đủ chứng cứ xác định bị cáo còn phạm một tội khác. Đề thi Luật Tố tụng hình sự 1. Thời gian: 75' Được sử dụng tài liệu Câu I: Với những kiến thức của mình về chế định bào chữa chỉ định, anh chị hãy đánh giá thực trạng áp dụng chế định này trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam. (3 đ) Câu II: Nhận định sau đây đúng hay sai, tại sao? 1. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ. (1 đ) 2. Chỉ Viện kiểm sát mới có quyền thay thế hoặc hủy bỏ những biện pháp ngăn chặn do họ áp dụng. 3. Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Cơ quan điều tra phải có sự phê chuẩn của VKS trước khi thi hành. 4. Người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất không được tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. 5. Biên bản phạm pháp quả tang do Trưởng công an phường lập là nguồn của chứng cứ. 6. Người thân thích của bị can, bị cáo được tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa. 7. Vật chứng có thể được trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp trong quá trình giải quyết vụ án Đề thi môn Tố tụng hình sự II Thời gian: 75' Được sử dụng tài liệu Câu 1: Hãy xác định nhận định sau đây đúng hay sai, tại sao? a. Trong một số trường hợp luật định người bị hại có quyền khởi tố vụ án hình sự. b. Tại phiên tòa phúc thẩm nếu toàn bộ kháng cáo, kháng nghị bị rút thì vụ án được đình chỉ. c. VKS có quyền hủy các quyết định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ của các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. d. Thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án hình sự phát sinh khi có kháng cáo, kháng nghị. Câu 2: Hãy nêu hướng giải quyết và chỉ rõ căn cứ pháp lý để áp dụng của VKS sau khi nhận hồ sơ và đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra mà phát hiện: a. Quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cảnh sát biển không có căn cứ. b. Có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong cùng vụ án chưa bị khởi tố. c. Điều tra viên là người thân thích của bị can. Câu 3: Hãy nêu hướng giải quyết và chỉ rõ căn cứ pháp lý để áp dụng của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong các trường hợp: a. Xác định được căn cứ giảm mức bồi thường đối với bị cáo đã bị kháng cáo tăng nặng hình phạt. b. Bị cáo bị bệnh tâm thần C. Xác định được căn cứ giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị Đề thi môn : Tố tụng Hình sự (học phần 1) Lớp Công đoàn 2A (lần 1) Thời gian : 75 phút Được sử dụng tài liệu Câu I - (3 đ). Tại sao không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó? Câu II - Nhận định đúng sai. Tại sao? a) bảo lĩnh có thể được áp dụng đ/v bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng (1đ). b) Người bị hại, bị can, bị cáo có quyền nhờ người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho mình (1đ). c) lời nhận tội của bị can, bị cáo là chứng cứ (1đ). d) biện pháp "cấm đi khỏi nơi cư trú" không được áp dụng đ/v bị can, bị cáo là người nước ngoài phạm tội tại VN (1đ). e) trong TTHS chỉ có VKS mới có quyền thực hiện chức năng buộc tội (1đ). f) Thư ký tòa án phải tiến hành từ chối tố tụng hoặc bị đề nghị thay đổi nếu là người thân thích của kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong cùng vụ án (1đ). g) mọi tình tiết, sự kiện có thật được phản ánh trong nguồn của chứng cứ đều được coi là chứng cứ (1đ). ĐỀ THI LUẬT TTHS (Học phần 1 - Phần chung) Lớp Q5D - Lần 1 ---oOo--- Câu I: A thực hiện hành vi cướp giật, ngay sau đó đã bị quần chúng nhân dân đuổi theo và bắt được. A bị dẫn giải đến trụ sở Công an quận vào lúc 10 giờ sáng. Hỏi: 1. Theo quy định hiện hành của Luật TTHS Việt Nam, thủ tục tạm giữ A được thực hiện như thế nào? (0,5 điểm) 2. Thời hạn tạm giữ A được tính từ thời điểm nào? A có thể bị tạm giữ tối đa là bao lâu? (0,5 điểm). Tình tiết bổ sung thứ nhất: 3. CQĐT ra quyết định khởi tố bị can đối với A theo khoản 1 điều 136 BLHS, thì CQĐT có thể ra lệnh tạm giam A được không? (1 điểm). Tình tiết bổ sung thứ hai: 4. Giả sử trong quá trình tạm giam, phát hiện A là người bị bệnh nặng và có người đủ điều kiện bảo lĩnh thì Thủ trưởng CQĐT có thể ra quyết định thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh không? Tại sao? (1 điểm) Câu II: Những nhận định sau đây là đúng hay sai? Tại sao? 1) Người thân thích của bị can, bị cáo có thể tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. (1 điểm) 2) Cơ quan có quyền ra quyết định trưng cầu giám định là cơ quan tiến hành tố tụng. (1 điểm) 3) Tạm giam không áp dụng đối với bị can, bị cáo chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng. (1 điểm) 4) Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh khi cơ quan có thẩm quyền ra quyeết định khởi tố VAHS. (1 điểm) 5) Trong mọi trường hợp việc thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đã áp dụng đều phải do VKS quyết định. (1 điểm) 6) Thẩm quyền xử lý vật chứng chỉ thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. (1 điểm) 7) Trong VAHS có thể không có người tham gia với tư cách là người bị hại. (1 điểm) ĐỀ THI MÔN: LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ KHOA KINH TẾ – ĐẠI HỌC QUỐC GIA ---&--- Câu 1: Hãy xác định những nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao? a. Trường hợp bào chữa bắt buộc không áp dụng đối với người bị tạm giữ. b. Quan hệ giữa bị can và người bị hại thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật TTHS c. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ sửa án sơ thẩm theo hướng tăng nặng khi có căn cứ và có kháng cáo, kháng nghị theo hướng đó. d. Dân thường phạm tội do tòa án nhân dân xét xử. Câu 2: Viện kiểm sát giải quyết như thế nào trong trường hợp sau: a. Cơ quan điều tra không đảm bảo có người bào chữa cho bị can là người chưa thành niên. b. Có căn cứ cho rằng bị can phạm tội khác. Câu 3: Tòa án giải quyết như thế nào trong các trường hợp sau đây: a. Phát hiện tội phạm, người phạm tội mới trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. b. Phát hiện tội phạm, người phạm tội mới trong khi xét xử. ĐỀ THI MÔN: LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ KHOA KINH TẾ – ĐẠI HỌC QUỐC GIA ---&--- Câu 1: Hãy xác định những nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao? a. Trong TTHS, nghĩa vụ chứng minh chỉ thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. b. Trong cùng một vụ án, người tiến hành tố tụng chỉ có thể tham gia với một tư cách tố tụng. c. Lời khai của người làm chứng là chứng cứ. d. Trong mọi trường hợp lệnh bắy người của cơ quan điều tra phải được VKS cùng cấp phê chuẩn. e. Thủ tục xét xử phúc thẩm phát sinh khi có kháng cáo, kháng nghị f. Tòa án chỉ xét xử bị cáo theo tội danh mà VKS truy tố. Câu 2: Hãy nêu cách giải quyết vụ án của tòa án cấp sơ thẩm trong trường hợp: a. VKS rút quyết định truy tố. b. Hội thẩm vắng mặt tại phiên tòa MỤC 2: ĐỀ THI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI ĐỀ THI MÔN LUẬT TTHS - ĐH LUẬT HÀ NỘI Đề 05: ( đề xanh) 1. Phân tích địa vị pháp lý của người bị hại. 2. Phân tích quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Hỏi thêm: a. Giai đoạn chuẩn bị xét xử hồ sơ vụ án nằm ở đâu? b. đọc thuộc ( nguyên luật ) điều 107. Đề 3 (xanh): Câu 1: Phân tích nguyên tắc "Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật"? Câu 2: Phân tích các căn cứ đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử? Hỏi thêm: - Nguyên tắc ở câu 1 dc quy định ở đâu (Hiến pháp, BLTTHS)? Được xây dựng dựa trên nguyên tắc nào ? - Thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thuộc về ai? - Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử mà Thẩm phán nhận thấy bị cáo ko phạm tội thì sẽ xử lý thế nào? đề số 7 so sánh người bị hại và nguyên đơn dân sự trong bltths phân tích qui định của bltths về những ngừoi cần có mặt tại phiên tòa sơ thẩm hỏi thêm: lấy ví dụ về trường hợp nguyên đơn ds là cá nhân bị thiệt hại về thể chất trường hợp nào bắt buộc phải có người bào chữa trường hợp bắt buộc có người bào chữa mà ko có người bào chữa thì thế nào phân tích thẩm quyền điều tra của cơ quan đièu tra vks nd tc phân tích các nguồn chứng cứ Đề 9 (đỏ) Câu 1: Phân tích việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Câu 2: So sánh trình tự thủ tục của phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm. Phụ: 1. Nếu sau khi tuyên bản án sơ thẩm, bị cáo kháng cáo, còn người bị hại rút đơn, thì tòa phúc thẩm giải quyết thế nào ? 2. Tại sao pháp luật lại quy định về cơ bản thủ tục của tòa sơ thẩm và phúc thẩm là giống nhau ? 1. Phân biệt điều tra lại và điều tra bổ sung 2.Ai có thẩm quyền ra quyết định điều tra lại và điều tra bổ sung 3. Quyền đặc thù của người bị hại Đề 26. Câu 1. Phân tích nguyên tắc pháp chế XHCN trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Câu 2. So sánh hoãn thi hành án phạt tù và đình chỉ thi hành án phạt tù. Câu hỏi thêm: - Ý nghĩa của nguyên tắc pháp chế XHCN. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc. _ Có hoãn thi hành án nhiều lần được không? (có). Nếu hoãn nhiều lần mà làm hết thời hạn thi hành án thì giải quyết như thế nào? Thẩm quyền đình chỉ thi hành án? MỤC 3: MỘT SỐ CÂU HỎI ÔN TẬP MỘT SỐ CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 2. Phân tích nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án 3. Phân tích nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 4. Phân tích nguyên tắc xác định sự thật vụ án 5. Phân tích khái niệm giai đoạn tố tụng hình sự và mối quan hệ giữa các giai đoạn 6. Phân tích nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN trong tố tụng hình sự 7. Bị can, bị cáo tham gia vào những giai đoạn nào của tố tụng hình sự 8. Phân tích địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự 9. So sánh khái niệm: người bị hại và nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự 10. So sánh nghĩa vụ của người làm chứng với nghĩa vụ của người bị hại. Tại sao có sự giống, khác nhau đó 11. Phân tích các quy định của luật tố tụng hình sự về thay đổi thẩm phán 12. Phân tích địa vị pháp lý của người làm chứng 13. Phân biệt khái niệm bị can, bị cáo với khái niệm ng có tội 14. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được thực hiện ở những giai oạn nào của tố tụng hình sự 15. Phân tích địa vị pháp lý của ng bào chữa trong tố tụng hình sự 16. Phân tích những quy định của Luật tố tụng hình sự về vật chứng 17. Phân tích khái niệm chứng cứ và các thuộc tính của chứng cứ 18. Nêu các loại chứng cứ. Cho ví dụ về các loại chứng cứ 19. Phân tích phương tiện chứng minh: lời khai của bị can, bị cáo 20. Phân tích những vấn đề cần phải chứng minh theo quy định tại điều 63 BLTTHS 21. Phân biệt biện fáp bắt bị can, bị cáo để tạm giam 22. PT bfáp bắt bị can, bị cáo để tạm giam 23. SS bfáp ngăn chặn, bắt ng fạm tội quả tang vs bắt ng trong trường hợp khẩn cấp. 24. PT bfáp ngăn chặn tạm giam 25. PT các quy định PL về thay đổi KST tại fiên toà 26. PT bfáp tạm giữ trong TTHS 27. CM khởi tố vụ án hình sự là 1 giai đoạn tố tụng độc lập 28. PT quy định của bộ luật TTHS về việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của ng bị hại 29. PT cơ sở khởi tố vụ án hình sự 30. PT các căn cứ k đc khởi tố vụ án hùnh sự theo quy định Đ107 31. PT quy định của bộ luật TTHS về đình chỉ điểu tra 32. PT các trường hợp bắt buộc fải trưng cầu giám định quy định tại khoản 3 Đ155 33. PT quy định của bộ luật TTHS về đình chỉ vụ án trong giai đoạn cbị xét xử sơ thẩm 34. PT hoạt động khám nghiệm hiên trường, tại sao hoạt động này diễn ra trước khi khởi tố vụ án 35. Nêu thẩm quyền điều tra vụ án của các cơ quan điều tra theo quy định bộ luật TTHS 36. Phân biệt điều tra lại vs điều tra bổ sung 37. Chứng minh điều tra vụ án là 1 giai đoạn tố tụng độc lập 38. PT các quy định PL về hỏi cung bị can 39. So sánh khởi tố vụ án vs khởi tố bị can 40. So sánh hoạt động khám ng vs hoạt động xem xét dấu vết trên thân thể 41. PT quy định PL về đình chỉ vụ án trong giai đoạn tố tụng độc lập 42. PT quy định của TTHS về điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố 43. PT quy định của PL về việc VKS rút quyết định truy tố 44. PT quy định PL về những ng có mặt tại fiên toà sơ thẩm 45. PT các quyết định của TA trong khi chuẩn bị xét xử sơ thẩm 46. PT thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc của TAND cấp huyện và TAQS khu vực 47. PT giới hạn của việc xét xử D196 48. PT thẩm quyền xét sử sơ thẩm theo đối tượng và theo lãnh thổ 49. So sánh thủ tục fiên toà sơ thẩm và phúc thẩm 50. Nêu sự khác nhau về thành fần hội đồng xét xử sơ thẩm, fúc thẩm, giám đốc thẩm. Tại sao có sự khác nhau đó 51. PT quy định về những ng tham gia fiên tòa fúc thẩm 52. PT các quy định PL TTHS về kháng nghị theo thủ tục fúc thẩm 53. PT quy định PL về kháng cáo 54. PT fạm vi xét xử fúc thẩm 55. PT thẩm quyền của TA fúc thẩm 56. PT thủ tục thi hành án ử hình 57. so sánh việc hoãn thi hành án fạt từ vs tạm đình chỉ thi hành án fạt tù 58. PT quy định của PL về kháng nghị thei thủ tục giám đốc thẩm 59. PT thẩm quyền của hội đồng tái thẩm 60. PT thẩm quyền của hội đồng giám đốc thẩm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTổng hợp tài liệu, đề thi, câu hỏi TTHS.doc
  • docMục lục.doc
Tài liệu liên quan