Tác dụng hỗ trợ cải thiện chức năng vận động của bài thuốc khương hoạt nhũ hương thang trong điều trị viêm khớp dạng thấp giai đoạn II

Nghiên cứu nhằm đánh giá tác dụng cải thiện chức năng vận động của bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang trong điều trị viêm khớp dạng thấp giai đoạn II và tìm hiểu tác dụng không mong muốn trên lâm sàng. Kết quả cho thấy, nhóm nghiên cứu có tác dụng cải thiện chức năng vận động tốt hơn nhóm chứng: Sau điều trị, thời gian cứng khớp buổi sáng của nhóm nghiên cứu là 28,33 ± 15,22, thấp hơn ở nhóm chứng là 45,00 ± 29,21 (p < 0,05); chỉ số Lee của nhóm nghiên cứu là 4,83 ± 2,89, thấp hơn ở nhóm chứng là 10,53 ± 7,24 (p < 0,05). Trong quá trình nghiên cứu không thấy tác dụng phụ trên lâm sàng và cận lâm sàng ở nhóm nghiên cứu. Bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang có tác dụng hỗ trợ cải thiện chức năng vận động và an toàn trên bệnh nhân viêm khớp dạng thấp giai đoạn II.

pdf7 trang | Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 35 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác dụng hỗ trợ cải thiện chức năng vận động của bài thuốc khương hoạt nhũ hương thang trong điều trị viêm khớp dạng thấp giai đoạn II, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 82 (2) - 2013 133 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TÁC DỤNG HỖ TRỢ CẢI THIỆN CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG CỦA BÀI THUỐC KHƯƠNG HOẠT NHŨ HƯƠNG THANG TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM KHỚP DẠNG THẤP GIAI ĐOẠN II Nguyễn Thị Thu Hà1, Nguyễn Thị Vân Anh2, Lưu Thị Hạnh1 1Trường Đại học Y Hà Nội; 2Bệnh viện Y học Cổ truyền Trung ương Nghiên cứu nhằm đánh giá tác dụng cải thiện chức năng vận động của bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang trong điều trị viêm khớp dạng thấp giai đoạn II và tìm hiểu tác dụng không mong muốn trên lâm sàng. Kết quả cho thấy, nhóm nghiên cứu có tác dụng cải thiện chức năng vận động tốt hơn nhóm chứng: Sau điều trị, thời gian cứng khớp buổi sáng của nhóm nghiên cứu là 28,33 ± 15,22, thấp hơn ở nhóm chứng là 45,00 ± 29,21 (p < 0,05); chỉ số Lee của nhóm nghiên cứu là 4,83 ± 2,89, thấp hơn ở nhóm chứng là 10,53 ± 7,24 (p < 0,05). Trong quá trình nghiên cứu không thấy tác dụng phụ trên lâm sàng và cận lâm sàng ở nhóm nghiên cứu. Bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang có tác dụng hỗ trợ cải thiện chức năng vận động và an toàn trên bệnh nhân viêm khớp dạng thấp giai đoạn II. Từ khóa: Khương hoạt nhũ hương thang, viêm khớp dạng thấp, chức năng vận động  Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Thu Hà, Khoa Y học Cổ truyền, Trường Đại học Y Hà Nội. Email: hachi005@yahoo.com Ngày nhận: 29/11/2012 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm khớp dạng thấp (Rheumatoid Arthri- tis) là một bệnh đặc trưng bởi viêm nhiều khớp có đối xứng, thường kèm theo cứng khớp buổi sáng và sự có mặt của yếu tố dạng thấp trong huyết thanh. Viêm khớp dạng thấp là một bệnh mang tính xã hội vì sự phổ biến và chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh nội khoa nói riêng và các bệnh về khớp nói chung. Điều trị viêm khớp dạng thấp phải phối kết hợp nhiều phương pháp: nội khoa (y học hiện đại, y học cổ truyền), vật lý trị liệu, phục hồi chức năng, ngoại khoa [1]. Bệnh tiến triển nhiều đợt làm ảnh hưởng đến chức năng vận động của bệnh nhân lâu ngày thành tàn phế. Trong y học cổ truyền, viêm khớp dạng thấp là thuộc chứng Tý [2]. Ngoại tà gây bế tắc kinh lạc làm cân cơ không được nuôi dưỡng, lâu ngày sinh ra chân tay co quắp. Y học cổ truyền đã dùng nhiều bài thuốc cổ phương để điều trị như: Quế chi thược dược tri mẫu thang (Kim quỹ yếu lược), Quyên tý thang (Y học tâm ngộ), Độc hoạt ký sinh thang (Thiên kim phương). Bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang có nguồn gốc trong Y tông kim giám [3] gồm các vị thuốc trừ phong thấp, hành khí hoạt huyết, bổ can thận đã được dùng từ rất lâu đời và cho hiệu quả giảm sưng giảm đau, bổ thận, mạnh gân cốt rất tốt nhưng chưa có nghiên cứu đánh giá có hệ thống kết quả mà nó đem lại. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu: 1. Đánh giá tác dụng cải thiện chức năng vận động của bài thuốc “Khương hoạt nhũ hương thang” trong điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp giai đoạn II (Thể nhiệt tý). 2. Theo dõi tác dụng không mong muốn của bài thuốc. II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP 1. Chất liệu nghiên cứu Các vị thuốc được bào chế theo tiêu chuẩn cơ sở dựa vào dược điển Việt Nam IV tại khoa Dược của bệnh viện Y học Cổ truyền Trung ương. 134 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 1.1. Bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang gồm Khương hoạt 12g Nhũ hương 4g Độc hoạt 12g Phòng phong 8g Kinh giới 12g Tục đoạn 12g Đương quy 12g Xích thược 12g Xuyên khung 12g Trần bì 8g Đào nhân 8g Hồng hoa 12g Đan bì 12g Thuốc được dùng dưới dạng thuốc sắc tại khoa Dược, bệnh viện Y học Cổ truyền Trung ương. Thuốc được sắc theo quy trình bằng thiết bị Kyung Seo Machine của Hàn Quốc. Thời gian sắc 1 lần cho 10 thang là 2 giờ, được đổ 5,1 đến 5,3 lít nước, ở nhiệt độ 1200C, được đóng thành 20 túi, uống trong 10 ngày, mỗi ngày 2 túi, chia 2 lần (sáng – chiều). 1.2. Mobic (Meloxicam) Viên nén 7,5 mg của hãng sản xuất Boehringer Ingelheim pharma GmbH & Co., KG – Đức. Liều dùng: Mobic 7,5mg x 2 viên/ ngày, uống sáng 1 viên, chiều 1 viên, uống lúc no. 1.3. Barole (Rabeprazole) Viên nang 20mg của nhà sản xuất Mega Lifescienes (Australia) PTY LTD – Australia. Liều dùng: Barole 20mg x 1 viên/ngày, uống lúc 20h. 2. Đối tượng Gồm 60 bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm khớp dạng thấp giai đoạn II, thể nhiệt tý tại khoa Nội, bệnh viên Y học Cổ truyền Trung ương từ tháng 11/2011 đến tháng 07/2012. 2.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân theo y học hiện đại - Bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm khớp dạng thấp theo tiêu chuẩn ACR 1987 [4] và chẩn đoán giai đoạn II theo Stein- broker. - Bệnh nhân tham gia đủ thời gian nghiên cứu và tuân thủ đúng liệu trình điều trị. 2.2. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân theo y học cổ truyền: Chứng Tý thể nhiệt tý [2]. 3. Phương pháp 3.1. Thiết kế nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng, ghép cặp tương đồng (về tuổi, giới, mức độ hoạt động bệnh), so sánh trước và sau điều trị, có đối chứng. - Nhóm nghiên cứu: Dùng Mobic 7,5mg x 2 viên/ngày; Barole 20mg x 1 viên/ngày và bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang x 1 thang/ngày, trong 30 ngày. - Nhóm chứng: Chỉ dùng đơn thuần thuốc y học hiện đại như trên. 3.2. Chỉ tiêu theo dõi - Thời gian cứng khớp buổi sáng. - Chỉ số Lee. - Các tác dụng không mong muốn trên lâm sàng: Đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, sẩn ngứa, rối loạn tiêu hóa. - Các tác dụng không mong muốn trên cận lâm sáng: sự thay đổi các chỉ số huyết học, sinh hóa máu, sinh hóa nước tiểu. 3.3. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả điều trị - Đánh giá hiệu quả cải thiện chức năng vận động thông qua sự giảm thời gian cứng khớp buổi sáng, sự giảm chỉ số Lee. - Đánh giá tác dụng không mong muốn của bài thuốc trên lâm sàng dựa trên sự xuất hiện TCNCYH 82 (2) - 2013 135 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC các triệu chứng: đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, sẩn ngứa, rối loạn tiêu hóa. Tác dụng không mong muốn trên cận lâm sàng dựa vào dự thay đổi các chỉ số: số lượng hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, urê, creatinin, AST, ALT, protein niệu, tế bào niệu. 3.4. Xử lý số liệu Sử dụng chương trình xử lý số liệu theo phần mềm SPSS 16.0. III. KẾT QUẢ 1. Hiệu quả cải thiện chức năng vận động 1.1. Hiệu quả cải thiện thời gian cứng khớp buổi sáng Bảng 1. Thay đổi thời gian cứng khớp buổi sáng tại các thời điểm nghiên cứu Thời điểm đánh giá Thời gian cứng khớp buổi sang (phút) p Nhóm nghiên cứu  (n1 = 30) Nhóm chứng  (n2 = 30) T0 74,30 ± 29,20 68,00 ± 28,88 > 0,05 T1 65,00 ± 28,01 63,33 ± 27,11 > 0,05 p (T1 - T0) < 0,05 < 0,05 T2 49,83 ± 24,41 50,33 ± 26,72 > 0,05 p (T4 - T0) < 0,05 < 0,05 T3 40,17 ± 21,56 48,00 ± 28,85 > 0,05 p (T3 - T0) < 0,05 < 0,05 T4 28,33 ± 15,22 45,00 ± 29,21 < 0,05 p (T4 - T0) < 0,05 < 0,05 Tại thời điểm trước khi điều trị, thời gian cứng khớp buổi sáng trung bình giữa 2 nhóm là như nhau với p > 0,05. Sau điều trị đều có sự giảm thời gian cứng khớp buổi sáng ở cả 2 nhóm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tại các thời điểm T1, T2 và T3, thời gian cứng khớp buổi sáng trung bình của 2 nhóm là như nhau với p > 0,05. Tại thời điểm T4, thời gian cứng khớp buổi sáng trung bình của nhóm nghiên cứu nhỏ hơn ở nhóm chứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 1.2. Hiệu quả cải thiện chức năng vận động theo chỉ số Lee   Tại thời điểm bắt đầu điều trị, chỉ số Lee trung bình giữa 2 nhóm là tương đương nhau với p > 0,05. Sau khi điều trị, cả 2 nhóm đều cải thiện chức năng vận động, mức độ cải thiện chức năng vận động giữa các thời điểm theo dõi có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tại các thời điểm nghiên cứu T1 và T2, chỉ số trung bình Lee của cả 2 nhóm không có sự khác biệt với p > 0,05. Tại thời điểm T3 và T4, chỉ số trung bình Lee của 2 nhóm có sự khác biệt, giảm nhiều ở nhóm nghiên cứu có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 (bảng 2). 136 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 2. Thay đổi chỉ số Lee tại các thời điểm nghiên cứu Thời điểm đánh giá Chỉ số Lee p Nhóm nghiên cứu  (n1 = 30) Nhóm chứng  (n2 = 30) T0 17,50 ± 7,11 16,30 ± 7,43 > 0,05 T1 14,80 ± 5,83 15,30 ± 7,92 > 0,05 p (T1 - T0) < 0,05 < 0,05 T2 11,53 ± 4,63 13,93 ± 7,08 > 0,05 p (T4 - T0) < 0,05 < 0,05 T3 8,07 ± 3,75 12,47 ± 6,98 < 0,05 p (T3 - T0) < 0,05 < 0,05 T4 4,83 ± 2,89 10,53 ± 7,24 < 0,05 p (T4 - T0) < 0,05 < 0,05 2. Kết quả theo dõi tác dụng không mong muốn 2.1. Trên lâm sàng Trong quá trình theo dõi, ở nhóm nghiên cứu không có trường hợp nào xuất hiện tác dụng không mong muốn trên lâm sàng như đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, sẩn ngứa, rối loạn tiêu hóa. Ở nhóm chứng thấy xuất hiện 01 trường hợp buồn nôn, chiếm 3,33%. 2.2. Trên cận lâm sàng Bảng 3. Sự thay đổi các chỉ số huyết học Chỉ số Nhóm nghiên cứu (n1 = 30) Nhóm chứng (n2 = 30) p(NC-C) T0 T4 p(T4-T0) T0 T4 p(T4-T0) Hội chứng (T/l) 4,21 ± 0,51 4,26 ± 0,45 > 0,05 4,20 ± 0,43 4,19 ± 0,43 > 0,05 > 0,05 BC (G/l) 6,69 ± 1,99 6,15 ± 1,37 > 0,05 6,63 ± 1,46 6,61 ± 1,11 > 0,05 > 0,05 Hb (g/dl) 12,12 ± 1,32 12,21 ± 1,29 > 0,05 12,26 ± 1,28 12,20 ± 1,26 > 0,05 > 0,05 TC (G/l) 345,69 ± 155,02 364,43 ± 115,11 > 0,05 368,40 ± 77,74 379,20 ± 54,52 > 0,05 > 0,05 TCNCYH 82 (2) - 2013 137 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Các chỉ số hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và hemoglobin giữa 2 nhóm trước và sau điều trị không có sự khác biệt với p > 0,05. Bảng 4. Sự thay đổi các chỉ số sinh hoá máu Chỉ số Nhóm nghiên cứu (n1 = 30) Nhóm chứng (n2 = 30) p(NC-C) T0 T4 p(T4-T0) T0 T4 p(T4-T0) AST  (u/l -370) 19,07 ± 7,55 18,17 ± 6,37 > 0,05 21,27 ± 6,72 21,43 ± 6,22 > 0,05 > 0,05 ALT  (u/l -370) 23,13 ± 13,57 21,20 ± 9,87 > 0,05 24,53 ± 8,81 22,80 ± 7,28 > 0,05 > 0,05 Ure (mmol/l) 4,24 ± 1,34 4,52 ± 1,12 > 0,05 4,72 ± 1,07 4,73 ± 0,97 > 0,05 > 0,05 Creatinin (µmol/l) 72,50 ± 16,20 72,00 ± 13,51 > 0,05 71,86 ± 20,08 77,97 ± 15,32 > 0,05 > 0,05 Các chỉ số sinh hóa bao gồm urê, creatinin, AST, ALT của 2 nhóm không có sự khác biệt trước và sau điều trị với p > 0,05. Thành phần bất thường trong nước tiểu: không thấy có sự xuất hiện của protein và tế bào niệu trước và sau điều trị ở cả 2 nhóm. IV. BÀN LUẬN Hiệu quả cải thiện chức năng vận động Cứng khớp buổi sáng là cảm giác khó cử động sau một khoảng thời gian không hoạt động. Thời gian cứng khớp buổi sáng được tính từ khi bắt đầu ngủ dậy đến khi hết cảm giác khó vận động. Cứng khớp buổi sáng trên 1 giờ là một trong những tiêu chuẩn để chẩn đoán bệnh viêm khớp dạng thấp theo ACR 1987. Kết quả của chúng tôi theo bảng 1 cho thấy tại thời điểm T0, trung bình thời gian cứng khớp buổi sáng của 2 nhóm là tương đương, trong đó nhóm nghiên cứu là 74,50 ± 29,20 (phút) và của nhóm chứng là 68,00 ± 28,88 (phút). Qua các thời điểm đánh giá nhận thấy, trung bình thời gian cứng khớp buổi sáng giảm dần có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 ở cả 2 nhóm. Đến thời điểm T4, trung bình thời gian cứng khớp buổi sáng của nhóm nghiên cứu là 28,33 ± 15,22 (phút), nhóm chứng là 45,00 ± 29,21 (phút), sự khác biệt giữa thời gian cứng khớp của 2 nhóm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Theo Nguyễn Thị Lan Trang (2004), nhóm nghiên cứu trước điều trị có thời gian cứng khớp buổi sáng trung bình là 81,0 ± 11,2 (phút), sau dùng viên nang thấp khớp trong 30 ngày thời gian cứng khớp buổi sáng trung bình còn 22,5 ± 10,5 (phút), giảm có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị là 81,0 ± 11,2 (phút) [5]. Như vậy, nhóm nghiên cứu có dùng thêm bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang làm giảm thời gian cứng khớp buổi sáng hơn so với nhóm chứng chỉ dùng đơn thuần thuốc y học hiện đại. 138 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Tác dụng làm giảm thời gian cứng khớp buổi sáng của bài thuốc giúp bệnh nhân hoạt động tốt hơn, tránh được bất động khớp kéo dài dẫn đến cứng khớp. Tác dụng này còn có ý nghĩa lớn đối với hoạt động của người bệnh trong sinh hoạt hằng ngày của bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang có vai trò quan trọng trong cải thiện chức năng vận động của bệnh nhân viêm khớp dạng thấp giai đoạn II. Bảng 2 chỉ ra có sự giảm đáng kể chỉ số trung bình Lee qua các thời điểm: Tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu, nhóm nghiên cứu có chỉ số trung bình Lee là 17,50 ± 7,11 (điểm), nhóm chứng là 16,30 ± 7,43 (điểm), tại thời điểm T3 và T4 trung bình chỉ số Lee của 2 nhóm đã có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, trong đó, nhóm nghiên cứu là 4,83 ± 3,21 (điểm) và nhóm chứng là 10,53 ± 7,24 (điểm), giảm nhiều hơn ở nhóm nghiên cứu. Theo Nguyễn Thị Lan Trang (2004), việc sử dụng viên nang Thấp khớp với thành phần gồm các vị thuốc khu phong trừ thấp, thông kinh hoạt lạc cũng làm giảm chỉ số Lee trung bình trước điều trị từ 13,30 ± 1,90 (điểm) xuống còn 3,6 ± 1,7 (điểm) [5]. Bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang có các vị thuốc Đương quy giúp bổ huyết, Tục đoạn có tác dụng bổ can thận tăng cường bồi bổ cho các khớp trong cơ thể; có các vị thuốc hoạt huyết mạnh Nhũ hương, Đào nhân, Hồng hoa, Xích thược, Xuyên khung, Đan bì để khứ ứ tiêu sưng, Trần bì có tác dụng hành khí, khí hành thì huyết hành, giúp khí huyết lưu thông giảm đau. Lại có Khương hoạt, Độc hoạt, Phòng phong có tác dụng phát tán phong thấp, giảm đau. Do đó, bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang có tác dụng cải thiện chức năng vận động các khớp cho bệnh nhân [6]. Chỉ số Lee để đánh giá khả năng thực hiện một số động tác trong sinh hoạt hằng ngày qua bộ câu hỏi được xây dựng chung cho việc đánh giá chức năng vận động của bệnh nhân. Chức năng vận động của bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi yếu tố đau và các tổn thương tại khớp và phần mềm quanh khớp. Tác dụng giảm đau chống viêm của thuốc làm cải thiện chức năng vận động, khẳng định vai trò của bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang trong cải thiện chức năng vận động ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Về tác dụng không mong muốn của bài thuốc: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trong thời gian điều trị 1 tháng, ở nhóm nghiên cứu là nhóm sử dụng phác đồ điều trị y học hiện đại và bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang không thấy xuất hiện trường hợp nào có biểu hiện tác dụng không mong muốn trên lâm sàng như đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, sẩn ngứa, rối loạn tiêu hóa. Do vậy bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang được kết luận là bài thuốc an toàn. Theo nghiên cứu của chúng tôi, nhóm chứng xuất hiện 1 trường hợp (3,33%) có biểu hiện buồn nôn, đây có thể là tác dụng phụ của thuốc Mobic. Bảng 3 và 4 trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, số lượng HC, BC, TC, Hb, AST, ALT, urê, creatinin máu của nhóm nghiên cứu sau điều trị so với trước điều trị và so với nhóm chứng không có sự khác biệt (p> 0,05) và không thấy xuất hiện thành phần bất thường trong nước tiểu sau điều trị. Mặt khác, khi xem xét sự thay đổi các chỉ số huyết học và sinh hóa trên từng bệnh nhân cho thấy các trường hợp có sự biến đổi đều nằm trong giới hạn cho phép. Bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang không làm ảnh hưởng đến các chỉ số này trên bệnh nhân viêm khớp dạng thấp giai đoạn II. Như vậy, bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang là bài thuốc có tính an toàn cao. TCNCYH 82 (2) - 2013 139 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC V. KẾT LUẬN Bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang có tác dụng cải thiện chức năng vận động tốt: Thời gian cứng khớp buổi sáng và chỉ số Lee của nhóm nghiên cứu đều cải thiện hơn so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 sau 4 tuần điều trị. Bài thuốc Khương hoạt nhũ hương thang là bài thuốc có tính an toàn cao, trong quá trình nghiên cứu không thấy tác dụng không mong muốn trên lâm sàng và cận lâm sàng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2011). Viêm khớp dạng thấp, Bệnh học cơ xương khớp nội khoa, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 9 - 35. 2. Trường đại học Y Hà Nội (2012). Bệnh học nội khoa Y học cổ truyền, Nhà xuất bản Y học, 152 - 160. 3. 吴谦 (2008). 医宗金鉴. 人民军医出版社. 卷七十. 4. Arnett FC, Edworthy SM, Bloch DA et al (1988). The American Rheumatism Asso- ciation 1987 revised criteria for the classifica- tion of rheumatoid arthritis. Arthritis Rheum; 31, 315 - 324. 5. Nguyễn Thị Lan Trang (2004). Đánh giá tác dụng điều trị của viên nang Thấp khớp trong bệnh viêm khớp dạng thấp, Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ y học. 6. Trương Thụ Sinh, Vương Chí Lan (dịch giả Dương Trọng Hiếu) (1992). Trung dược lâm sàng, Nhà xuất bản Y học, 113 - 233. Summary THE EFFECTS OF “KHUONG HOAT NHU HUONG DECOCTION” ON RECOVERING MOTOR FUNCTIONS IN RHEUMATOID ARTHRITIS PATIENTS The Objective of the study was to evaluate the effects of “Khuong hoat nhu huong decoction” on motor functions and its side effects in treating type II rheumatoid arthritis patients. Results: Patients treated with the “Khuong hoat nhu huong decoction” responded much better in term of reducing pain and inflammation than the control groups. After treatment, morning stiffness time in treated patients (28.33 ± 15.22 second or minutes or hours?) was significantly (p < 0.05) lower than patients in the control group (45.00 ± 29.21- please put time here). Measurements of the Lee index was also significantly lower (p < 0.05) in the treated patient group (4.83 ± 2.89) than in control group (10.53 ± 7.24). The side effects were reported during and after treatment. Conclu- sions: These data suggested that “Khuong hoat nhu huong decoction” treatment provided signifi- cant comfort to stage II for rheumatoid arthritis patients with little or no side effects. Keywords: Khuong hoat nhu huong decoction, rheumatoid arthritis, motor function

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftac_dung_ho_tro_cai_thien_chuc_nang_van_dong_cua_bai_thuoc_k.pdf
Tài liệu liên quan