Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tác dụng an thần và các tác dụng không mong muốn của
Propofol trong gây tê tủy sống bằng Bupivacain kết hợp Fentanyl để phẫu thuật vùng bụng dưới. Kết quả
cho thấy: Tuổi trung bình: 43,15 ± 13,08; tỷ lệ nam/nữ: 19/20; BMI trung bình: 21,54 ± 2,57. Hiệu quả an
thần của propofol trong gây tê tủy sống: an thần ổn định trong mổ, mức độ lo lắng ở cả hai nhóm đều giảm
đi theo thời gian mổ từ phút thứ 10 đến phút thứ 30. Thời gian cần liều giảm đau lần đầu ở nhóm dùng
propofol dài hơn và mức độ đau ở nhóm dùng propofol trong vòng 2 giờ sau mổ thấp hơn so với nhóm
chứng. Mức độ hài lòng của bệnh nhân nhóm dùng propofol cao hơn nhóm chứng. Không thấy biến chứng
nào khác liên quan dùng propofol.
7 trang |
Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 29 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác dụng an thần của propofol trong gây tê tủy sống bằng bupivacain kết hợp fentanyl cho phẫu thuật vùng bụng dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TÁC DỤNG AN THẦN CỦA PROPOFOL TRONG GÂY TÊ
TỦY SỐNG BẰNG BUPIVACAIN KẾT HỢP FENTANYL
CHO PHẪU THUẬT VÙNG BỤNG DƯỚI
Bùi Việt Lâm1, Trần Thị Kiệm2
1Trường Đại học Y Hà Nội, 2 Bệnh viện Bạch Mai
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tác dụng an thần và các tác dụng không mong muốn của
Propofol trong gây tê tủy sống bằng Bupivacain kết hợp Fentanyl để phẫu thuật vùng bụng dưới. Kết quả
cho thấy: Tuổi trung bình: 43,15 ± 13,08; tỷ lệ nam/nữ: 19/20; BMI trung bình: 21,54 ± 2,57. Hiệu quả an
thần của propofol trong gây tê tủy sống: an thần ổn định trong mổ, mức độ lo lắng ở cả hai nhóm đều giảm
đi theo thời gian mổ từ phút thứ 10 đến phút thứ 30. Thời gian cần liều giảm đau lần đầu ở nhóm dùng
propofol dài hơn và mức độ đau ở nhóm dùng propofol trong vòng 2 giờ sau mổ thấp hơn so với nhóm
chứng. Mức độ hài lòng của bệnh nhân nhóm dùng propofol cao hơn nhóm chứng. Không thấy biến chứng
nào khác liên quan dùng propofol.
Từ khoá: tác dụng an thần, Propofol
Địa chỉ liên hệ: Trần Thị Kiệm, Bệnh viện Bạch Mai.
Email: drkiembm@gmail.com
Ngày nhận: 15/03/2013
Ngày được chấp thuận: 20/6/2013
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
An thần được mô tả từ mức an thần nhẹ
(giảm lo lắng) đến mức gây mê toàn thân cần
hỗ trợ về hô hấp, tuần hoàn, nhưng nếu an
thần nhẹ trong phẫu thuật dưới gây tê tủy
sống an thần còn giúp bệnh nhân thỏa mái
hơn trước những kích thích, khó chịu từ phẫu
thuật mang lại, giúp họ bình tĩnh và hợp tác tốt
trước, trong và sau gây tê tủy sống. Gây tê
vùng có một số nhược điểm: đau tại vị trí tiêm
gây tê, sợ kim tiêm chọc vào tĩnh mạch, gây lo
lắng do tác động của các yếu tố xung quanh
và nhớ quá trình phẫu thuật [1; 2; 3]. Những
yếu tố này sẽ giảm hoặc mất nếu bệnh nhân
được dùng an thần để gây ngủ, giảm đau,
giảm lo lắng và gây quên. An thần trong gây tê
vùng làm tăng sự hài lòng của bệnh nhân. An
thần có thể làm giảm nhu cầu thuốc giảm đau
nhóm opioid được sử dụng trong gây tê vùng
góp phần làm giảm buồn nôn, nôn sau phẫu
thuật. Propofol là thuốc có tác dụng an thần và
đào thải nhanh, quá trình duy trì, phục hồi êm
dịu và thoải mái, không gây những ảnh hưởng
bất lợi cho tuần hoàn và hô hấp khi dùng liều
thấp. Với mong muốn cải thiện sự hài lòng,
chấp nhận của bệnh nhân trong mổ, góp phần
làm giảm những phiền nạn và tai biến trong
gây tê tủy sống, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu tác dụng an thần của Propofol
trong gây tê tủy sống bằng Bupivacain kết hợp
với Fentanyl để phẫu thuật vùng bụng dưới”
với mục tiêu:
1. Đánh giá tác dụng an thần của Propofol
trong gây tê tủy sống bằng Bupivacain kết hợp
Fentanyl để phẫu thuật vùng bụng dưới.
2. Đánh giá một số tác dụng không mong
muốn của phương pháp này.
II- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Gồm 60 bệnh nhân mổ phiên, mổ vùng
bụng dưới, xếp loại ASA I, II. Tuổi từ 18 đến
60 được chia 2 nhóm (nhóm dùng prpofol và
nhóm chứng). Loại trừ các bệnh nhân: dị ứng
các thuốc, có tăng triglyceride, có các bệnh
TCNCYH 83 (3) - 2013 69
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
mãn tính kèm theo như suy gan, thận hoặc
các bệnh về phổi, có rối loạn tâm thần, rối
loạn ý thức (glassgow < 15 điểm).
2. Phương pháp
Nghiên cứu tiến cứu, mù đơn, can thiệp
lâm sàng có so sánh tại phòng mổ Tiết niệu và
phòng Hồi tỉnh khoa Gây mê Hồi sức, bệnh
viện Việt Đức từ tháng 2/2012 đến tháng
8/2012.
- Can thiệp nghiên cứu: Nhóm 1 (có dùng
Propofol): sau gây tê tủy sống, khi mất cảm
giác đau mức T10, đánh giá mức độ an thần
theo thang điểm Ramsay:
+ Độ 1: tỉnh,
+ Độ 2: hợp tác có định hướng và yên tĩnh.
+ Độ 3: đáp ứng chậm theo lệnh.
+ Độ 4: ngủ, đáp ứng rõ ràng với các kích
thích mạnh.
+ Độ 5: ngủ, đáp ứng yếu với các kích
thích mạnh.
+ Độ 6: ngủ sâu, không đáp ứng với kích
thích.
Đánh giá mức độ lo lắng theo VAS (nếu
huyết áp (HA) hạ, điều chỉnh bằng một hoặc
kết hợp các biện pháp: tăng tốc độ truyền dịch
(dịch tinh thể, dịch keo), thuốc vận mạch. Khi
HA trở lại ban đầu hay < 20% HA nền của
bệnh nhân, tiêm propofol liều bolus TM 0,5mg/
kg. Đánh giá mức độ an thần ngay sau tiêm,
sau đó duy trì bằng bơm tiêm điện 1mg/kg/
giờ. Liều duy trì có thể thay đổi qua tốc độ
bơm tiêm điện để đạt mức 2 điểm Ramsay
(dừng sử dụng an thần khi kết thúc thì khâu
da). Nhóm 2 (không dùng propofol): thực hiện
gây tê tủy sống với quy trình tương tự nhóm
1. Thời điểm nghiên cứu H1: trước gây tê tủy
sống, H9: Thời điểm sau khi phẫu thuật kết
thúc được 60 phút, H10: Thời điểm phẫu thuật
kết thúc được 120 phút.
3. Xử lý số liệu nghiên cứu: sử dụng
phần mềm SPSS 16.0.
4. Đạo đức nghiên cứu
Đề cương được Hội đồng chấm đề cương
CH9 của trường Đại học Y Hà Nội, Hội đồng
Khoa học của bệnh viện Việt Đức thông
qua, đảm bảo tính khoa học, đạo đức trong
nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 1. Một số đặc điểm chung của hai nhóm nghiên cứu
Đặc điểm
Nhóm 1 (n1 = 30)
± SD Min - Max
Nhóm 2 (n2 = 30)
± SD Min - Max
p
Tuổi (năm) 41,67 ± 13,67 18 - 60
44,63 ± 12,50
18 - 60 p > 0,05
Giới (nam/nữ) 19/11 20/10 p > 0,05
Chiều cao (cm) 161,26 ± 6,74 147 - 173
161,66 ± 6,50
146 - 175 p > 0,05
Cân nặng (kg) 56,56 ± 8,85 36 - 69
56,50 ± 9,86
37 - 70 p > 0,05
BMI 21,61 ± 2,43 16 - 25,87
21,48 ± 2,75
16,13 - 27,75 p > 0,05
χ χ
70 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Tuổi trung bình: 43,15 ± 13,08; tỷ lệ nam/nữ: 19/20; BMI trung bình: 21,54 ± 2,57, không có sự
khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu (p > 0,05).
2. Đánh giá tác dụng an thần của propofol
2.1. Đánh giá an thần theo Ramsay: nhóm 1 sử dụng propofol với liều bolus 0,5mg/kg,
liều duy trì 1mg/kg/h; nhóm 2 không dùng propofol
Bảng 2. Điểm Ramsay tại các thời điểm
Thời gian
Nhóm 1 (n =30)
±SD
Nhóm 2 (n =30)
±SD
p
H1 1 1 p > 0,05
H2 1 1 p > 0,05
H3.3 1,26 ± 0,63 1,16 ± 0,53 p > 0,05
H4.3 2,70 ± 0,46 1,26 ± 0,63 p < 0,05
H5 2,53 ± 0,50 1,46 ± 0,77 p < 0,05
H6 2,23 ± 0,43 1,43 ± 0,56 p < 0,05
H7 2,06 ± 0,25 1,90 ± 0,30 p < 0,05
H8 2,10 ± 0,40 1,93 ± 0,25 p > 0,05
H9 2 2 p > 0,05
H10 2 2 p > 0,05
Tại các thời điểm H1, H2, H3.3 khi chưa dùng propofol cho nhóm 1, điểm an thần của cả hai
nhóm có sự khác biệt tại thời điểm H3.3, tuy nhiên tại 3 thời điểm này không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05). Sau khi dùng propofol cho nhóm 1, tại các thời điểm H4.3, H5, H6, H7 điểm an thần có
sự khác biệt ở hai nhóm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
2.2. Đánh giá mức độ lo lắng
Tại các thời điểm có sự khác biệt, tuy nhiên tại các thời điểm H4, H5, H6 sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p < 0,05 (bảng 3).
2.3. Mức độ vô cảm khi phẫu thuật kết thúc
Tại thời điểm H8 ngay khi phẫu thuật kết thúc hầu hết bệnh nhân không đau. Tại thời điểm
H9, H10 ở hai nhóm bệnh nhân, thấy đau nhiều hơn ở nhóm 2, có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Mức độ hài lòng khác biệt có ý nghĩa thống kê ở hai nhóm. Tất cả bệnh nhân đều chọn thuốc ngủ
để ngủ nếu phải phẫu thuật lần sau (bảng 4).
Khác biệt về mức độ hài lòng giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê (bảng 5).
1χ 2χ
TCNCYH 83 (3) - 2013 71
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Thời gian
Nhóm 1 (n = 30)
± SD
Nhóm 2 (n = 30)
± SD
p
H1 2,56 ± 0,50 2,80 ± 0,40 p > 0,05
H2 2,56 ± 0,50 2,76 ± 0,43 p > 0,05
H3.3 2,34 ± 0,61 2,56 ± 0,56 p > 0,05
H4.3 1,24 ± 0,95 2,46 ± 0,74 p < 0,05
H5 0,13 ± 0,34 1,25 ± 0,75 p< 0,05
H6 0,10 ± 0,30 0,90 ± 0,80 p < 0,05
H7 0,06 ± 0,25 0,16 ± 0,46 p > 0,05
H8 0,03 ± 0,18 0,03 ± 0,18 p > 0,05
H9 0,03 ± 0,18 0 p > 0,05
H10 0,03 ± 0,18 0 p > 0,05
Bảng 3. Mức độ lo lắng tại các thời điểm
Bảng 4. Mức độ vô cảm theo VAS (visual analog scale) khi phẫu thuật kết thúc
Bảng 5. Mức độ hài lòng của hai nhóm (thang điểm VAS (tính theo chiều lại)
Thời gian
Nhóm 1 (n = 30)
± SD
Nhóm 1 (n = 30)
± SD
p
H8 1,20 ± 0,61 1,03 ± 0,18 p > 0,05
H9 1,80 ± 0,99 3,03 ± 0,49
p < 0,05
H10 3,33 ± 0,66 3,96 ± 0,18
Nhóm 1 (n = 30)
± SD
Nhóm 2 (n = 30)
±SD
p
Mức độ hài lòng 1,96 ± 0,18 1,06 ± 0,25 p < 0,05
2.4. Đánh giá tác dụng không mong muốn khác trong và sau mổ
Các tác dụng không mong muốn khác: run, rét run ở nhóm 1 có 9 BN (30%) và nhóm 2 có 5
bệnh nhân (16,7%); chóng mặt nhóm 1 có 2 bệnh nhân; ngứa xuất hiện ở nhóm 1 có 2 bệnh
nhân; nhóm 1 có 1 bệnh nhân đau trong khi mổ. Sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05).
1χ 2χ
1χ 2χ
2χ1χ
72 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 6. Tác dụng không mong muốn khác của hai nhóm trong và sau mổ
Tác dụng không mong
muốn khác
Nhóm 1 (n1 =30) Nhóm 2 (n2 = 30)
p
n1 % n2 %
Mất định hướng 0 0 0 0
p > 0,05
Nôn, buồn nôn 2 6,7 2 6,7
Run, rét run 9 30 5 16,7
Đau đầu 0 0 0 0
Chóng mặt 0 0 2 6,7
Ngứa 2 6,7 0 0
Nấc 0 0 0 0
Bí tiểu 0 0 0 0
IV. BÀN LUẬN
Đặc điểm của hai nhóm nghiên cứu: Đặc
điểm phân bố về tuổi, giới, BMI: tuổi trung
bình của hai nhóm là 43,14 ± 13,23, tương
đồng giữa hai nhóm, thấp nhất là 18 tuổi, cao
nhất là 60 tuổi. Nam nhiều hơn nữ. Bệnh nhân
có chỉ số BMI trung bình là 21,54 ± 2,59,
tương đồng với cả hai nhóm nghiên cứu.
Tác dụng an thần của propofol
An thần theo Ramsay: Tại các thời điểm
trước, trong gây tê tủy sống và theo dõi sau
khi gây tê tủy sống (bảng 2) thấy hầu hết bệnh
nhân ở mức an thần tỉnh (Ramsay 1), cùng
với những kích thích đau của thủ thuật tiêm
truyền và gây tê tủy sống, môi trường phòng
mổ, tiếng động, tiếp xúc với những người,
tiếng động lạ. Tại các thời điểm H1, H2 ở hai
nhóm không có sự khác biệt. Tại H3 có sự
khác biệt nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Sau khi dùng an thần cho nhóm 1 liều bolus,
có một số bệnh nhân ở trạng thái Ramsay 3,
hầu hết bệnh nhân ở trạng thái Ramsay 2; tại
các thời điểm H4.3, H5, H6, H7 khi so sánh
với nhóm 2 có sự khác biệt giữa 2 nhóm có ý
nghĩa thống kê (p < 0,05); thời điểm H8 khác
biệt không có ý nghĩa. Sau mổ tại thời điểm
H9, H10 mức độ an thần tương đương. Mức
độ an thần ổn định trong suốt thời gian duy trì
truyền tĩnh mạch. Lan Smith và cs thấy nồng
độ propofol huyết tương tăng khi tăng tốc độ
truyền propofol và có sự thay đổi có ý nghĩa
về điểm an thần và nồng độ propofol huyết
tương giữa các bệnh nhân [2]. Nhóm 2 không
sử dụng propofol, mức độ an thần tăng dần
qua từng thời điểm sau gây tê tủy sống và cao
nhất là 2 ( theo Ramsay).
Mức độ lo lắng: Hầu hết bệnh nhân đều rất
lo lắng khi vào phòng mổ, nằm trên bàn mổ, khi
thực hiện thủ thuật tiêm truyền, gây tê tủy sống.
Mức độ lo lắng được giảm dần do thích nghi, sự
động viên của bác sĩ, kỹ thuật viên phòng mổ.
Khi sử dụng an thần từ cho nhóm 1, mức lo lắng
của bệnh nhân giảm rõ rệt tại các thời điểm H4,
H5, H6, sự khác biệt giữa 2 nhóm có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05). Nghiên cứu của Ian Smith
và cộng sự [2] cho thấy điểm lo lắng giảm ở cả 4
nhóm bệnh nhân truyền propofol trong khi dùng
liều duy trì, nhớ lại cuộc phẫu thuật thường gặp
ở bệnh nhân liều thấp.
TCNCYH 83 (3) - 2013 73
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Mức độ vô cảm tại các thời điểm khi phẫu
thuật kết thúc: Tại thời điểm H8, hầu hết các
bệnh nhân chưa đau, điều này thể hiện rõ khi
hỏi, quan sát đánh giá bệnh nhân tại phòng và
trong quá trình vận chuyển bệnh nhân. Tại
thời điểm H9, H10 điểm đau VAS có sự khác
biệt, ở nhóm 2 đau xuất hiện nhiều hơn nhóm
1 và có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Bệnh
nhân ở nhóm 1 không đau nhiều như nhóm 2,
ở đây chúng tôi đưa ra 2 khả năng: một là do
tác dụng của gây tê tủy sống, hai là sự có mặt
của an thần propofol kéo dài tác dụng giảm
đau do gây tê tủy sống. Vì cả hai nhóm nghiên
cứu đều tương đồng về tiêu chuẩn lựa chọn,
kỹ thuật và thuốc trong gây tê tủy sống cũng
như về phẫu thuật ngoại khoa, do vậy có khả
năng propofol làm tăng thời gian giảm đau
trong gây tê tủy sống.
Mức độ hài lòng, lựa chọn thuốc mê cho
lần mổ tiếp theo: Đánh giá hài lòng bằng
thước VAS phản ánh tỷ lệ giữa những mong
muốn và sự xuất hiện mong muốn đó. Kết
quả bảng 5 cho thấy, mức hài lòng của
nhóm 1: 1,96 ± 0,18 và ở nhóm 2 là 1,06 ±
0,25, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p < 0,05. Nghiên cứu của D.Hohener và cộng
sự, kết luận phần lớn bệnh nhân được dùng
an thần trong gây tê vùng đều hài lòng và họ
sẽ lựa chọn nó cho lần phẫu thuật sau [5].
Các tác dụng không mong muốn khác
trong và sau mổ:
- Nôn, buồn nôn: Có 2 trường hợp ở mỗi
nhóm (6,7%). Kết quả trong nghiên cứu này
thấp hơn của Đỗ Văn Lợi [7], Bùi Quốc Công
[8], Chong JL [9] là 10%, tuy nhiên so với kết
quả của FS.Servin [2] tỷ lệ này là 2%. Chúng
tôi thực hiện việc theo dõi sau mổ trong 2 giờ,
sau đó chuyển về khoa điều trị, vì vậy có thể
chưa đánh giá được hết so với các tác giả
trên, bệnh nhân được theo dõi sau mổ 48 giờ.
- Bí tiểu, đau đầu: Sau mổ bệnh nhân đang
lưu sonde bàng quang nên chúng tôi không
đánh giá được bí tiểu; không gặp bệnh nhân
nào đau đầu.
- Run, rét run: Nhóm 1 có 9 ca (30%),
nhóm 2 có 5 ca (16,7%). Kết quả trong nghiên
cứu này cao hơn so với nghiên cứu của Bùi
Quốc Công [8] là 10% đối với nhóm 1, nhưng
ở nhóm 2 thì kết quả tương tự. Pha loãng
Dolargan tiêm tĩnh mạch chậm làm mất triệu
chứng run.
- Ngứa: Có 2 trường hợp ở nhóm 1 (6,7%),
ở nhóm 2 không có. Ngứa chủ yếu ở mặt,
mũi, cổ và không phải điều trị bằng thuốc. Có
thể bệnh nhân dị ứng trong môi trường phòng
mổ (cồn, latex...) hoặc tiết histamin của
morphin. Kết quả của chúng tôi thấp hơn của
Đỗ Văn Lợi [7] là 16,7% và Chong JL [9] là
27,8%.
- Chóng mặt và các tác dụng không mong
muốn khác: Ở nhóm 1 thấy 2 trường hợp
chóng mặt (6,7%), không cần xử lý thuốc,
bệnh nhân hết cảm giác chóng mặt khi
chuyển ra phòng hồi tỉnh. Đau tại chỗ tiêm có
gặp 5 trường hợp (16,7%) ở nhóm 1. Ngoài
ra, chúng tôi không gặp những tai biến, phiền
nạn khác.
V. KẾT LUẬN
Hiệu quả an thần của propofol trong gây tê
tủy sống:
- An thần ổn định trong mổ, khác biệt so
với nhóm chứng từ phút thứ 10 cho đến phút
60 sau khi bắt đầu mổ. Mức độ lo lắng ở cả
hai nhóm đều giảm đi theo thời gian mổ từ
phút thứ 10 đến phút thứ 30. Thời gian cần
giảm đau lần đầu ở nhóm dùng propofol dài
hơn so với nhóm chứng, mức độ đau ở nhóm
dùng propofol trong vòng 2 giờ sau mổ thấp
hơn so với nhóm chứng. Mức độ hài lòng
của bệnh nhân nhóm dùng propofol cao hơn
nhóm chứng.
74 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Tác dụng không mong muốn khi dùng
propofol trong gây tê tủy sống: Không thấy
biến chứng nào khác liên quan đến dùng
propofol.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cám ơn GS.
Nguyễn Thụ, PGS.TS. Nguyễn Hữu Tú trường
Đại học Y Hà Nội, Ban Giám đốc bệnh viện Việt
Đức đã cho phép thực hiện đề tài nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. FS Servin, JC Raeder (2002).
Remifentanyl Sedation Compared With Propofol
During Rgional Anesthesia, Acta
Anaesthesiologica Scandinavica. 46, 309 - 315e.
2. Ian Smith, Terri G. Monk, Paul F. White
et al (1994). Propofol Infusion during Regional
Anesthesia: Sedative, Amnestic, and Anxiolytic
Properties. Anesth Analg, 79, 313 - 319.
3. N.Mackenzie, I S Grant (1987). Propofol
for intravenous sedation. Anaesthesia. 42, 3 - 6.
4. Tào Ngọc Sơn (2006). Đánh giá tác
dụng an thần bằng Propofol do bệnh nhân tự
điều khiển trong thủ thuật soi đại tràng, Luận
văn thạc sĩ y học,.trường Đại học Y Hà Nội.
5. D hohener, S. Blumenthal and A. Bro-
geat (2008). Sedation and Regional anaesthe-
sia in the Adult Patient, Anaesthesia. 8 - 16.
6. Hoàng Văn Bách (2001). Đánh giá tác
dụng gây tê tủy sống của Buoivacain và Fen-
tanyl liều thấp trong nội soi u phì đại lành tính
tuyến tiền liệt. Luận văn thạc sĩ y học, trường
Đại học Y Hà Nội.
7. Đỗ Văn Lợi (2007). Nghiên cứu phối
hợp Bupivacain với Morphin hoặc Fentanyl
trong gây tê tủy sống để mổ lấy thai và giảm
đau sau mổ, Luận văn thạc sĩ y học. Trường
Đại học Y Hà Nội.
8. Bùi Quốc Công (2003). Đánh giá tác
dụng gây tê tủy sống bằng hỗn hợp
Bupivacain liều thấp và Fentanyl trong mổ lấy
thai, Luận văn chuyên khoa cấp II, Trường Đại
học Y Hà Nội.
9. Chong JL (1998). The addition of in-
trathecal sufentanyl and Fentanyl to Bupiva-
cain for caerean section, Sing Med J, 39(6),
236 - 240.
Summary
SEDATIVE EFFECT OF PROPOFOL DURING SPINAL
ANESTHESIA WITH BUPIVACAIN- FENTANYL COMBINATION
TO LOWER ABDOMINAL SURGERY
A reseach has been done to evaluate the sedative effect and other unexpected effects of
Propofol during spinal anesthetization by using the combination of bupivacain - fentanyl in lower
abdominal surgery. The sedative effects of propofol on patients in spinal anesthesia with a ratio
of 19/20 of male and female at an average age of 43.15 ± 13.08 and an average BMI of 21,54 ±
2,57 was stable during operations; the anxiety levels of both groups has been decreased at the
10th minutes to the thirtieth minutes of operating time. The effectiveness of the first analgesic
dose on the propofol group was longer, and lasted for 2 hours with less pain when compared to
the non - Propofol group. The satisfaction level in patients with propofol was higher and there
was no complication in using propofol.
Keywords: sedative effect, propofol
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tac_dung_an_than_cua_propofol_trong_gay_te_tuy_song_bang_bup.pdf