MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài: 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu: 1
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: 2
4. Kết cấu nội dung phân tích: 2
Chương I: TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ USD/VND ĐỐI VỚI GIÁ BÁN SỮA TẠI VIỆT NAM 3
1. Tình hình biến động tỷ giá của Việt Nam: 3
2. Biến động tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2010: 4
3. Tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam xét trong giai đoạn 2008 – 2010: 6
Chương II: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ USD/VND ĐỐI VỚI GIÁ BÁN SỮA TẠI VIỆT NAM 9
1. Chính sách quản lý ngoại tệ và điều chỉnh tỷ giá của Việt Nam: 9
1.1 Chính sách quản lý ngoại tệ của Việt Nam: 9
1.2 Chính sách điều chỉnh tỷ giá của Việt Nam: 9
2. Phân tích tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam: 10
2.1 Tác động vào rủi ro giao dịch 11
2.2 Tác động vào rủi ro chuyển đổi: 13
2.3 Tác động vào rủi ro kinh tế: 13
3. Đánh giá tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam: 14
3.1 Tác động tích cực của biến động tỷ giá 14
3.2 Tác động tiêu cực của biến động tỷ giá: 15
3.3 Nguyên nhân các tác động: 15
Chương III: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ USD/VND ĐỐI VỚI GIÁ BÁN SỮA TẠI VIỆT NAM 17
1. Xu thế biến động của tỷ giá USD/VND trong năm 2011: 17
2. Phương hướng và mục tiêu hạn chế tác động của tỷ giá đổi với giá bán sữa tại Việt Nam trong năm 2011: 18
3. Giải pháp hạn chế tác động: 19
KẾT LUẬN 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN 24
26 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2509 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của tỷ giá USD/VNĐ đối với giá bán sữa tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
Bộ môn Kinh doanh quốc tế
* ~ * ~ * ~ *
Đề án môn học
Đề tài:
Tác động của tỷ giá đối với giá bán sữa tại Việt Nam
Hà Nội, Tháng 11 năm 2010.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Các hoạt động kinh doanh quốc tế được quan tâm nhiều hơn đặc biệt là xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài. Nhìn nhận về các hoạt động này chúng ta không thể không nhắc đến vấn đề tỷ giá hối đoái. Tỷ giá ra đời do có ngoại thương và nó đồng thời có những tác động mạnh mẽ trở ngược trở lại hoạt động này. Ở Việt Nam hiện nay, quản lý tỷ giá hối đoái vẫn là bài toán khó đối với các nhà kinh tế. Các doanh nghiệp dễ bị ảnh hưởng khi tỷ giá thay đổi trong khi tỷ giá ở Việt Nam khó dự báo và có nhiều biến động bất ngờ. Đặc biệt so sánh trong những năm gần đây, tỷ giá giữa đồng USD và VND liên tục thay đổi và không theo quy luật, kéo theo tỷ giá giữa VND và các ngoại tệ khác cũng có nhiều biến động.
Có nhiều ý kiến cho rằng ngành sữa Việt Nam là một trong những ngành bị tác động nhiều nhất khi tỷ giá thay đổi. Hiện nay, ngành sữa Việt Nam vẫn phụ thuộc khá nhiều vào nhập khẩu, trong nước chưa phát triển sản xuất sữa nguyên liệu, nguồn cung không đủ cầu. Theo thống kê năm 2009, khoảng 72% lượng sữa Việt Nam tiêu thụ phải nhập khẩu, trong đó khoảng 50% là sữa nguyên liệu và 22% sữa thành phẩm. Do đó khi tỷ giá thay đổi sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của các doanh nghiệp ngành sữa. Và tác động của tỷ giá đối với ngành sữa được thể hiện rõ nhất dưới sự biến động của giá bán sữa. Vậy tỷ giá tác động đến giá bán sữa tại Việt Nam như thế nào và làm sao để kiểm soát cũng như hạn chế những tác động xấu? Để tìm hiểu về vấn đề này, em xin chọn đề tài: “Tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam” làm đề án nghiên cứu.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu: Đề xuất giải pháp hạn chế tác động xấu của tỷ giá đối với giá bán sữa tại Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nêu rõ tình huống tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2010.
- Phân tích tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2010.
- Đề xuất giải pháp hạn chế ảnh hưởng xấu của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu tác động của tỷ giá USD/VND đến giá bán sữa tại Việt Nam trong giai đoạn 2008– 2010 và kế hoạch đến năm 2011.
Đề án gồm 3 phần: Phần mở đầu; Nội dung phân tích; Phần kết luận.
4. Kết cấu nội dung phân tích:
Chương I: Tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại
Việt Nam
Chương II: Phân tích tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam
Chương III: Giải pháp hạn chế tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam
Chương I: TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ USD/VND ĐỐI VỚI GIÁ BÁN SỮA TẠI VIỆT NAM
Tình hình biến động tỷ giá của Việt Nam:
Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là sự so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, khi nhắc đến tỷ giá người ta thường hay dùng để chỉ tỷ giá USD/VND.
Nhìn lại tình hình biến động tỷ giá của Việt Nam, ta có thể chia thành 5 giai đoạn. Thứ nhất, giai đoạn trước đổi mới năm 1986: Nền kinh tế nước ta trong tình trạng kế hoạch hóa tập trung cao độ, ngoại tệ chuyển nhượng chủ yếu là đồng Rup. Trong giai đoạn này Việt Nam áp dụng chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá gây khó khăn cho ngoại thương.
Giai đoạn hai, sau đổi mới năm 1986 đến hết năm 1991: Xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển mạnh sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế chịu tác động của chính sách thả nổi tỷ giá. Quan hệ ngoại thương với Đông Âu và Liên Xô bị gián đoạn, Việt Nam chuyển sang buôn bán với khu vực sử dụng USD. Trên thị trường ngoại tệ, USD ngày càng khan hiếm. Tỷ giá hối đoái USD/VND biến động mạnh theo xu hướng giá trị tăng liên tục kèm theo các cơn “sốt”, các đột biến với biên độ rất lớn.
Giai đoạn ba, từ năm 1992 đến trước cuộc khủng hoảng Đông Nam Á 1997: Chính phủ đã có một số cải cách trong việc điều chỉnh tỷ giá làm cho giá USD bắt đầu giảm (cuối năm 1991 tỷ giá USD/VND có lúc lên tới 14.500, đến tháng 3/1992 chỉ còn 11.550 và tiếp tục giảm cho đến cuối năm 1992). Tình hình cung cầu ngoại tệ và tỷ giá hối đoái luôn được ổn định trong suốt thời gian dài từ năm 1993 đến đầu năm 1997.
Giai đoạn bốn, từ năm 1997 đến trước khi Việt Nam gia nhập WTO (2006): Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á từ tháng 7/1997 đã khiến một loạt các đồng tiền của các nước trong đó có Việt Nam bị mất giá so với USD. Để đối phó với biến động, Chính phủ đã đưa ra các biện pháp mạnh nhằm bình ổn tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đóng vai trò điều tiết và quản lý tỷ giá. Sau sự kiện khủng hoảng, tỷ giá USD/VND tương đối ổn định, tỷ giá tăng nằm trong sự kiểm soát của Ngân hàng.
Giai đoạn từ năm 2006 đến nay: Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Gia nhập WTO với những cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế. Đã có những biến lớn trong chính sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, đặc điểm của giai đoạn này là tỷ giá thường xuyên biến động mạnh, không ổn định, các chính sách điều hành tỷ giá chỉ có tác dụng trong ngắn hạn.
Biến động tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2010:
Giai đoạn 2008 -2010 là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ. Tỷ giá trở thành một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất trên các diễn đàn kinh tế. Tỷ giá USD/VND trong giai đoạn này không ổn định, nhìn chung tỷ giá năm sau tăng cao hơn năm trước.
Năm 2008 nổi bật với sự kiện 3 lần nới biên độ và cơn sốt USD vào tháng 6/2008, tỷ giá USD/VND lên tới con số 19.400 đồng. Sau đó nhờ sự can thiệp của NHNN, tỷ giá nhanh chóng giảm mạnh và ổn định trở lại. Thị trường ngoại tệ Việt Nam trong năm 2008 gồm 4 giai đoạn. Giai đoạn đầu: Từ 01/01 đến 25/03, tỷ giá USD/VND liên ngân hàng liên tục giảm, từ mức 16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD. Trên thị trường tự do, USD dao động từ mức 15.700 – 16.000 đồng/USD. Giai đoạn hai: Từ 26/03 đến16/07, tỷ giá tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do. Tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần. Giai đoạn ba: Từ 17/07 đến 15/10, tỷ giá giảm mạnh và dần đi vào bình ổn. Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng, tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình ổn. Giai đoạn 4: Từ 16/10 đến tháng 12, tỷ giá USD/VND liên ngân hàng tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998 sau đó giảm nhẹ. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 7/11/2008, tỷ giá trên thị trường tự do tăng tới mức 17.440 đồng/USD.
Năm 2009 là năm đánh dấu bởi sự căng thẳng của tỷ giá, ở thị trường tự do, tỷ giá có nhiều biến động dữ dội. Năm 2009 biến động tỷ giá cũng được chia làm 4 giai đoạn xét trên thị trường liên ngân hàng. Giai đoạn một: Tháng 1 đến tháng 3, tỷ giá USD/VND dao động trong khoảng 17.450 đồng - 17.700 đồng, lúc đó tính thanh khoản thị trường kém, nguồn cung khan hiếm. Giai đoạn hai:Từ tháng 4 đến hết tháng 9, tỷ giá liên ngân hàng sát giá trần của Ngân hàng nhà nước, tỷ giá dao động trong khoảng 17.000VND đến 17.800 VND. Giai đoạn ba: Tháng 10 đến 24/11, tỷ giá tăng mạnh và đến ngày 10/11. đạt đỉnh ở mức 19.750 vào 24/11. Chỉ đến khi Ngân hàng Nhà nước cho phép nhập vàng trở lại, tỷ giá ở thị trường này giảm trong 2 ngày. Giai đoạn bốn: Từ 25/11 đến hết năm 2009, tỷ giá giao dịch liên ngân hàng giảm từ mức cao 19.800 đồng xuống 18.500 đồng. Cùng với USD, những ngoại tệ khác cũng tăng giá mạnh mẽ mà tỷ giá tính chéo giữa VND với một số ngoại tệ khác được áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu là một ví dụ. Kết thúc năm 2009, tỷ giá USD/VND dừng lại ở mức 18.500VND.
Năm 2010, trong 8 tháng đầu năm tỷ giá tăng chậm, nhưng cuối năm tỷ giá tăng chóng mặt và bất ổn định. Ngày 11/2/2010, NHNN tăng biên độ tỷ giá USD/VND thêm 3% lên mức 18.544 VND và cố định từ thời điểm đó đến tháng 8. Nhằm góp phần kiềm chế nhập siêu, ngày 17/8/2010, NHNN thực hiện điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng USD/VND từ mức 18.544 VND lên mức 18.932 VND (tăng gần 2,1%). Trong khi đó biên độ tỷ giá giữ nguyên ở mức +/-3%. Do ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, tỷ giá từ tháng 8 tăng liên tục, đỉnh điểm lên tới 20.800VND vào đầu tháng 11. Chính phủ đã phải có những biện pháp can thiệp, đưa tỷ giá trở về ổn định dao động quanh mức 20.000VND.
3. Tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam xét trong giai đoạn 2008 – 2010:
Trong giai đoạn 2008 – 2010, tỷ giá hối đoái tương đối ổn định nhưng luôn có những cơn “sốt” đột ngột mà doanh nghiệp khó lường trước được. Tính trung bình từ đầu năm 2008 đến cuối năm 2010, tỷ giá USD/VND tại thị trường tự do đã tăng đến 22%. Biến động tỷ giá là một nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi của giá bán các sản phẩm sữa. Giá sữa bột tại Việt Nam trong vòng 3 năm qua đã tăng 16 lần, mỗi lần tăng từ 3-10%.
Giá trị một hộp sữa được cấu thành từ 30% bột sữa, 30% phí cho dây chuyền sản xuất, nhân công, 20% bao bì, vận chuyển và khoảng 20% dành cho chi phí quảng cáo, tiếp thị. Bột sữa hiện nay chủ yếu được nhập khẩu, vào khoảng 72% nguyên liệu để sản xuất cho thị trường trong nước. Như vậy nếu các yếu tố khác không đổi thì khi tỷ giá biến động, chắc chắn có ảnh hưởng đến chi phí sản xuất sữa. Tỷ giá không phải nguyên nhân duy nhất dẫn đến biến động của giá bán sữa nhưng không thể phủ nhận tác động của tỷ giá. Tỷ giá ảnh hưởng nhiều nhất đến việc nhập khẩu sữa nguyên liệu, đến giá sữa thành phẩm ngoại nhập (giá được tính theo đơn vị tiền tệ là USD). Khi tỷ giá tăng đẩy chi phí đầu vào lên rất cao, để tránh bị thiệt hại quá nhiều, các doanh nghiệp sữa buộc phải thay đổi giá sữa thành phẩm, và kết quả là tăng giá bán các sản phẩm sữa.
Biến động tỷ giá và các đợt tăng giá sữa giai đoạn 2008 – 2010
Năm 2008, trung bình giá nhập khẩu nguyên liệu sữa dao động trong khoảng 4.400 – 5000USD/tấn và theo xu hướng giảm dần từ đầu năm. Tuy nhiên cơn sốt giá USD tháng 6/2008 đã khiến nhiều doanh nghiệp sữa bị đẩy cao chi phí đầu vào. Tháng 7/2008, các sản phẩm sữa đã đồng loạt tăng giá từ 7 đến 15%. Các loại sữa Friso tăng giá 5-15%. Tương tự, Mead Johnson tăng bình quân 10%, giá mới các loại sữa hộp thiếc EnfaMama A+ loại 900g từ 225.000 đồng lên 259.000 đồng/hộp. Similac Mom 700g của Abbott từ 191.500 đồng/hộp lên 207.500 đồng/hộp; Đây là mức giá các hãng thông báo cho đại lý, trên thực tế giá bán lẻ còn tăng cao hơn mức các công ty công bố trên 10%.Sau cơn sốt, tỷ giá giảm dần nhưng so với đầu năm 2008, tỷ giá vẫn tăng 8%, chi phí nhập khẩu của các doanh nghiệp sữa so với đầu năm đã tăng lên rất nhiều, các doanh nghiệp sữa vẫn giữ nguyên giá bán.
Bước sang năm 2009, như đã thống kê ở trên, trong 10 tháng đầu năm, tỷ giá có nhiều biến động nhưng không đột ngột và dự báo được, các doanh nghiệp sữa chủ động hơn trong quản lý nhập khẩu, tăng cường phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, giá nguyên liệu sữa và sữa thành phẩm nhập khẩu cũng giảm mạnh, giảm áp lực tỷ giá. Giá bán sữa tương đối ổn định. Nhưng thời điểm từ tháng 10, áp lực tỷ giá tăng cao, tỷ giá USD có thời điểm tăng hơn 13,2% so với đầu năm. Nguồn cung ngoại tệ khan hiếm. Theo đánh giá của công ty sữa Vinamilk, tỷ giá USD bình quân đã tăng hơn 6%. Chênh lệch tỷ giá làm giá trị nhập khẩu sữa nguyên liệu và sữa thành phẩm đội lên rất nhiều. Giá nguyên liệu sữa tuy ở mức 3750 USD/tấn nhưng tăng 50% so với tháng 9/2009.Chi phí tăng thêm khoảng 900.000USD/tháng, theo Vinamilk, giá bán sữa mặc dù có tăng 6% nhưng mức tăng này không đủ bù đắp chi phí. Theo tính toán của công ty, để bù lại sự tăng chi phí do tỷ giá, giá bán sữa sẽ phải tăng đến 35%.
Đầu năm 2010, NHNN tiếp tục nới biên độ, tỷ giá tăng nhẹ và giữ nguyên không giảm. Các doanh nghiệp sữa không đủ khả năng tiếp tục bù đắp chi phí. Lý do được đưa ra là do ảnh hưởng tăng chi phí từ cuối năm 2009 trong khi đến năm 2010 tỷ giá không giảm mà tiếp tục tăng nhẹ. Tháng 1/2010 hàng loạt các công ty sữa như: Công ty Cổ phần Thực phẩm Dinh dưỡng Đồng Tâm Nutifood, Dutch Lady Việt Nam (tên mới là Công ty FrieslandCampina Việt Nam) cũng có mức điều chỉnh tăng từ 5-8% đối với các sản phẩm sữa. Các loại sữa nhập khẩu của Abott Hoa Kỳ cũng có mức tăng khoảng 7,4%. Đại diện nhà phân phối của Abbott Hoa Kỳ giải thích tuy giá nhập khẩu vẫn giữ nguyên, nhưng tỷ giá giữa USD và VND có sự thay đổi nên phải thay đổi giá bán sữa.
Tám tháng đầu năm 2010, tỷ giá được giữ ổn định, tuy nhiên trong tháng 7, sữa lại bước vào đợt tăng giá mới. Một số hãng sữa giải thích rằng do tỷ giá biến động từ cuối năm 2009 nhưng doanh nghiệp giữ nguyên giá bán, đến thời điểm này do không thể bù đắp chi phí nên mới đưa ra quyết định tăng giá. Theo trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại (bộ Công thương), từ đầu năm 2010, giá sữa đều đặn tăng, tập trung vào hai đợt là tháng 1, tháng 3. Những ngày cuối tháng 7, đầu tháng 8/2010 các hãng sữa ngoại lại tiếp tục tăng giá thêm gần 7%, đây là lần tăng thứ 3 trong năm nay. Từ cuối tháng 8, NHNN quyết định tăng mạnh tỷ giá USD/VND và nới rộng biên độ, sau đó giá USD tăng nhanh và khó kiểm soát. Giá bán sữa lại tăng trong tháng 9 từ 8 – 10%. Một số loại sữa tăng giá như Similac IQ hộp 400g tăng 0,66% (từ 178.300 lên 191.000 đồng/hộp); Gain Plus IQ 400g tăng 0,66% (từ 160.600 lên 172.000 đồng/hộp); hãng Dream XO (Hàn Quốc) tăng 5% đối với các loại sữa. Mặc dù từ tháng 10, tỷ giá USD/VND tăng chóng mặt nhưng Thông tư 122 quy định niêm yết giá sữa có hiệu lực từ 1/10/2010 do đó giá sữa không có thay đổi.
Như vậy, nhìn lại các đợt tăng giá bán sữa qua 3 năm, ta có thể thấy được mỗi khi tỷ giá tăng thì sau đó giá bán sữa cũng tăng theo. Lý do chủ yếu được đưa ra là vấn đề chi phí đầu vào quá cao, các doanh nghiệp sữa phải tăng giá bán để bù đắp chi phí. Khi tỷ giá ổn định, tăng hoặc giảm nhẹ thì giá bán sữa cũng được giữ ổn định và không thay đổi. Tuy nhiên có trường hợp giá sữa vẫn tăng do ảnh hưởng của nhân tố khác, trong giới hạn bài nghiên cứu chỉ dừng lại nhìn nhận ở góc độ ảnh hưởng của tỷ giá.
Chương II: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ USD/VND ĐỐI VỚI GIÁ BÁN SỮA TẠI VIỆT NAM
Chính sách quản lý ngoại tệ và điều chỉnh tỷ giá của Việt Nam:
Chính sách quản lý ngoại tệ của Việt Nam:
Thực tế cho thấy, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam chủ yếu là USD, và đây cũng là ngoại tệ chính được dùng để thanh toán trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Về chính sách quản lý ngoại tệ của Việt Nam, hiện nay Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là cơ quan duy nhất có nhiệm vụ xây dựng và thực thi các chính sách quản lý ngoại tệ, lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế theo các chính sách của Chính Phủ. NHNN chỉ tham gia vào mua bán ngoại tệ với vai trò quản lý, giám sát, điều tiết và là người mua bán cuối cùng. Tỷ giá do NHNN công bố kèm theo biên độ tỷ giá, NHNN không trực tiếp bán ngoại tệ cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp mà bán cho các NHTM.
NHNN quản lý ngoại tệ thông qua các chính sách điều chỉnh tỷ giá; quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc; điều chỉnh lãi suất ngoại tệ; chính sách kết nối đối với các tổ chức kinh tế; chính sách kiều hối; quy định trạng thái ngoại tệ…
Chính sách điều chỉnh tỷ giá của Việt Nam:
Chính sách tỷ giá là những định hướng và giải pháp của Nhà nước nhằm đảm bảo sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại hối, thực hiện chính sách ổn định tiền tệ nhằm đạt mục tiêu kinh tế xã hội.
Bước vào thời kì đổi mới sau năm 1986, Việt Nam bắt đầu có quan hệ ngoại thương với đồng tiền thanh toán là USD, nền kinh tế chịu tác động của chính sách thả nổi tỷ giá, sau đó từ năm 1992 chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái cố định, NHNN chính thức công bố quy định biên độ giao động của tỷ giá, đẩy mạnh hoạt động của các trung tâm giao dịch ngoại tệ sau đó tiến tới thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Sau biến động tỷ giá do khủng hoảng tài chính Đông Nam Á năm 1997, đến năm 1999 NHNN chấm dứt tỷ giá chính thức và giảm biên độ giao động tỷ giá. NHNN thực hiện bước đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá, từ quản lý có tính chất hành chính sang điều hành theo hướng thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ đó, tỷ giá được ngân hàng nhà nước công bố theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng của VND so với USD.
Từ khi Việt Nam gia nhập WTO (2006), đã có những biến động lớn trong chính sách điều hành tỷ giá. NHNN nhiều lần nới biên độ tỷ giá qua các thời kỳ và can thiệp mạnh vào hoạt động điều tiết tỷ giá. Ví dụ trong năm 2007, NHNN đã mua USD từ các NHTM nhằm hạn chế hiện tượng “thừa” USD trên thị trường. NHNN cũng điều tiết tỷ giá nhằm thực hiện chính sách tiền tệ. Trong 3 năm trở lại đây, Chỉnh phủ và NHNN đưa ra nhiều chính sách để quản lý tỷ giá: Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt; Gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn; Điều chỉnh linh hoạt biên độ tỷ giá; Tăng cung ngoại tệ… Các chính sách chủ yếu điều chỉnh trong ngắn hạn khi có biến động tỷ giá, chưa có chính sách điều chỉnh lâu dài.
Phân tích tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam:
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp ngành sữa tập trung vào chất lượng và giá bán sữa. Năm 2010, sản xuất sữa nguyên liệu trong nước vẫn không đáp ứng được nhu cầu. Thống kê sơ bộ 7 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa tăng đến 60% so với cùng kì năm 2009, đạt 432 triệu USD.
Với mức độ nhập khẩu sữa nguyên liệu và sữa thành phầm như hiện nay, rủi ro tỷ giá khiến các doanh nghiệp luôn phải đối phó với tổn thất ngoại hối. Mỗi khi có rủi ro tỷ giá, các doanh nghiệp sữa lại phải tăng giá bán bù đắp chi phí. Ba loại tổn thất chính do tỷ giá tác động gồm có: Rủi ro giao dịch; Rủi ro chuyển đổi; Rủi ro kinh tế.
Thống kê nhập khẩu sữa và sản phẩm từ sữa trong 4 năm gần đây:
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Số liệu Thương mại và Giá cả
Website Tổng cục thống kê
Biểu đồ số 1: Giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm từ sữa
giai đoạn 2006 -2009
Tác động vào rủi ro giao dịch
Đối với các doanh nghiệp sữa, tác động của tỷ giá ở đây là tác động vào các khoản phải trả bằng ngoại tệ. Giá nhập khẩu sữa nguyên liệu và sữa thành phẩm bằng USD trong khi doanh nghiệp sữa chủ yếu kinh doanh tại thị trường trong nước do đó không có nguồn thu ngoại tệ. Để thanh toán cho các giao dịch nhập khẩu, doanh nghiệp phải mua USD từ các ngân hàng thương mại. Chi phí nguyên liệu đầu vào tính theo đơn vị USD, giá bán sữa trong nước được niêm yết giá theo đơn vị VND vì vậy dẫn đến chênh lệch giá trị do ảnh hưởng của tỷ giá. Khi tỷ giá USD/VND tăng, nếu không có các biện pháp hạn chế rủi ro tỷ giá từ trước, doanh nghiệp phải bỏ ra nhiều VND hơn để mua USD thanh toán cho các hợp đồng nhập khẩu và kéo theo tăng chi phí đầu vào.
Nguyên liệu sữa có đặc điểm phải được bảo quản trong kho lạnh, hạn sử dụng thường ít hơn 1 năm khi chưa được chế biến. Vì vậy nếu doanh nghiệp mua nguyên liệu dự trữ để tránh rủi ro tỷ giá thì phải chịu nhiều chi phí bảo quản, rủi ro do sản xuất thừa, không sử dụng hết nguyên liệu; rủi ro tỷ giá do tỷ giá giảm so với thời điểm mua nguyên liệu. Như vậy, rất khó để các doanh nghiệp sữa có thể quản lý được rủi ro giao dịch do biến động tỷ giá.
Riêng trường hợp năm 2008, tỷ giá tăng trong điều kiện giá nguyên liệu sữa, giá sữa thành phẩm nhập khẩu giảm mạnh. Đầu năm 2008 giá nguyên liệu sữa dao động trong khoảng 5.000 xuống 4.400USD/tấn, nhưng đến cuối năm do ảnh hưởng của sự kiện Melamine trong sữa, giá nguyên liệu sữa giảm xuống có lúc chỉ còn 1.700USD/tấn. Mặc dù giá nguyên liệu giảm mạnh nhưng cũng do ảnh hưởng của sự kiện Melamine, các doanh nghiệp sữa phải tốn nhiều chi phí để khắc phục, bù đắp thiệt hại cũng như cắt giảm sản lượng. Do vậy khi tỷ giá tăng, doanh nghiệp sữa lại chịu thêm một gánh nặng chi phí đầu vào. Thời điểm tháng 6/2008, khi giá USD đỉnh điểm lên đến 19.400VND, nếu tính giá nguyên liệu sữa là 4.400USD/tấn thì so với đầu năm 2008, các doanh nghiệp sữa phải bỏ thêm chi phí là 14.520.000VND tương đương với thêm khoảng 700USD/tấn sữa nguyên liệu. Mặc dù sữa tiêu thụ chậm nhưng do áp lực chi phí, các doanh nghiệp sữa vẫn phải tăng giá bán các sản phẩm.
Đánh giá chung 3 năm trở lại đây, tỷ giá năm sau đều tăng so với năm trước. Mỗi năm doanh nghiệp lại phải mua USD với giá cao hơn để thanh toán. Chưa kể đến trường hợp rủi ro giao dịch vào thời điểm “sốt” giá USD. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp sữa là lựa chọn vốn vay ngắn hạn là VND hay USD để tránh được tối đa rủi ro. Nếu vay vốn bằng USD, tỷ giá tăng thì khi thanh toán hợp đồng nhập khẩu sẽ không bị ảnh hưởng bởi tỷ giá, đồng thời vào thời điểm “sốt” giá USD như cuối năm 2009 và mới đây là cuối tháng 10/2010, việc mua vài chục ngàn USD cũng không phải chuyện dễ dàng. Tuy nhiên lãi suất vay USD cao hơn và khi đến hạn trả, tỷ giá tăng so với thời điểm vay vốn thì chi phí cho 1 đồng nợ của doanh nghiệp sẽ tăng lên do chênh lệch tỷ giá. Lúc đó doanh nghiệp sữa lại phải cân nhắc liệu vay USD có giúp doanh nghiệp giảm được rủi ro biến động tỷ giá. Nếu vay bằng VND, lãi suất vay thấp hơn, vốn vay của doanh nghiệp có thể sử dụng cho nhiều hoạt động khác nhau. Nhưng theo tình hình biến động của tỷ giá trong thời gian vừa qua, doanh nghiệp sữa thường xuyên phải chi nhiều tiền hơn để mua USD, do vậy vay bằng VND doanh nghiệp cũng chưa chắc có lợi hơn khi gặp rủi ro tỷ giá.
Tác động vào rủi ro chuyển đổi:
Tỷ giá tác động đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp sữa do ảnh hưởng của việc chuyển đổi đơn vị tiền tệ khi sáp nhập các khoản nợ, tài sản, lợi nhuận. Đơn vị tính trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp sữa là VND trong khi một khoản chi phí nguyên liệu không nhỏ lại tính theo đơn vị USD. Khi tỷ giá tăng đồng nghĩa với việc giá trị của các khoản được thanh toán bằng USD tăng lên, kéo theo tăng chi phí và làm giảm lợi nhuận. Ngoài ra tỷ giá tăng còn có thể làm ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ và chi phí vay của công ty. Đối với doanh nghiệp sữa, tác động của tỷ giá vào rủi ro chuyển đổi thường không ảnh hưởng đến luồng tiền mặt (do rủi ro giao dịch) mà chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp khi cần thực hiện đầu tư ròng, khi thống kê tài sản, nguồn vốn.
Tác động vào rủi ro kinh tế:
Không giống như rủi ro giao dịch chỉ tác động đến khoản phải trả bằng USD theo hợp đồng rõ ràng, tác động của tỷ giá vào rủi ro kinh tế ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp sữa trong dài hạn.
Theo thống kê, hiện mức độ tiêu thụ sữa bình quân đầu người của Việt Nam chỉ đạt khoảng 12kg/người/năm trong khi con số này tính cả châu Á là 65kg/người/năm. Và ở Việt Nam thói quen tiêu dùng sữa đang ngày càng tăng lên. Ngành sữa có triển vọng phát triển rất lớn. Nhưng nếu trong dài hạn, các doanh nghiệp sữa vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu, khi đó tỷ giá sẽ tác động tới dòng ngân lưu quy ra VND (ngân lưu được hiểu đơn giản là những khoản thu chi bằng tiền mặt của doanh nghiệp). Đây là yếu tố rất khó xác định.
Tổn thất kinh tế cũng xảy ra tương tự như tổn thất giao dịch ở chỗ: Tỷ giá tăng làm tăng chi tiền mặt để thanh toán, nếu không tăng giá bán sữa lấy doanh thu bù đắp chi phí, doanh nghiệp sẽ chịu một khoản tổn thất. Điểm khác là tổn thất kinh tế phụ thuộc vào cả hai yếu tố là mức độ thay đổi tỷ giá và ngân lưu của doanh nghiệp tại thời điểm đó. Tổn thất kinh tế thường mang tính ước lượng. Tỷ giá USD/VND từ trước đến nay đều năm sau cao hơn năm trước, nếu doanh nghiệp sữa không kiểm soát được tổn thất kinh tế, việc hàng năm phải tăng giá bán sữa là khó tránh khỏi. Giá bán sữa cao sẽ làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đánh giá tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam:
Những biến động bất thường của tỷ giá thường mang lại rủi ro cho các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế. Đánh giá chung toàn ngành sữa, các doanh nghiệp bất lợi khi tỷ giá tăng. Tuy nhiên, biến động tăng của tỷ giá là không tốt với doanh nghiệp này nhưng chưa chắc đã là xấu với doanh nghiệp khác. Xét ở một góc độ nào đó, biến động của tỷ giá vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp ngành sữa.
3.1 Tác động tích cực của biến động tỷ giá
Khi tỷ giá tăng, nhiều doanh nghiệp sữa lại thu được lợi nhuận cao. Với doanh nghiệp phân phối các sản phẩm sữa ngoại, vì giá nhập là giá theo đơn vị USD, giá bán theo đơn vị VND nên tỷ giá tăng thì giá bán sữa cũng tăng theo. Nhưng rõ ràng giá bán sữa tăng không chỉ áp dụng với đơn hàng nhập trong giai đoạn tỷ giá biến động mà còn áp dụng với cả sản phẩm chưa tiêu thụ của các hợp đồng nhập trước đó. Ngẫu nhiên, lợi nhuận tính trên một hộp sữa tăng lên rất nhiều.
Đối với một số doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm sữa, biến động tỷ giá lại là cơ hội kinh doanh lớn. Một là trường hợp doanh nghiệp có nguyên liệu dự trữ đảm bảo cho sản xuất trong cả giai đoạn tỷ giá tăng do đó chưa phải nhập thêm. Hai là nhiều doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu sữa được sản xuất trong nước (đặc biệt với sản phẩm sữa nước). Khi đó, nếu doanh nghiệp cũng tăng giá bán thì sẽ thu được lợi nhuận cao. Nếu doanh nghiệp giữ nguyên giá bán: Sức cạnh tranh cao, tạo niềm tin với khách hàng.
Khi tỷ giá giảm có một đặc điểm là các doanh nghiệp vẫn giữ nguyên giá bán sữa như thời điểm có biến động tăng tỷ giá. Thêm vào đó, các giao dịch tiếp sau chi phí đã giảm đi nhiều. Như vậy, doanh thu thì ứng với thời điểm tỷ giá tăng, nhưng chi phí thực tế lại giảm, tất yếu doanh nghiệp sữa thu được nhiều lợi nhuận hơn.
3.2 Tác động tiêu cực của biến động tỷ giá:
Tác động xấu rõ nhất khi tỷ giá tăng là các doanh nghiệp sữa bị đẩy chi phí đầu vào lên cao, thậm chí nhiều doanh nghiệp bị lỗ do thiệt hại quá lớn từ các hợp đồng nhập khẩu. Điều đó gây áp lực tài chính cho doanh nghiệp. Nếu không tăng giá bán sữa, doanh nghiệp phải chịu hoàn toàn tổn thất. Nhưng nếu giá bán sữa tăng thì lại khiến cho lượng tiêu thụ giảm, nhiều gia đình cân nhắc khi mua sữa. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm sữa cùng loại có giá bán thấp hơn.
Một điểm quan trọng nữa, tỷ giá tăng tạo ra làn sóng tăng giá bất hợp lý của các sản phẩm sữa khác nhau. Thứ nhất, bất hợp lý ở phần trăm tăng của giá bán sữa. Mặc dù tác động của tỷ giá là có thật nhưng các doanh nghiệp sữa không đưa ra được cụ thể vì sao giá sữa lại tăng lên cao như vậy. Thứ hai, theo đánh giá ở trên, không phải doanh nghiệp nào cũng bị tổn thất, nhưng hầu hết các doanh nghiệp sữa đều điều chỉnh giá bán sản phẩm tăng lên theo xu hướng chung. Lúc này chịu thiệt nhất lại là người tiêu dùng.
3.3 Nguyên nhân các tác động:
Nguyên nhân đầu tiên khiến biến động tỷ giá tác động tới giá bán sữa là hiện nay ngành sữa Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu, không phát triển được vùng nguyên liệu trong nước. Do đó mỗi lần tỷ giá tăng, để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh, sẽ có nhiều doanh nghiệp sữa gặp phải rủi ro. Thứ hai là các doanh nghiệp sữa chưa linh hoạt trong đối phó với rủi ro tỷ giá, công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro còn yếu kém. Khi tỷ giá biến động nhiều doanh nghiệp sữa bị bất ngờ, không có phương án dự phòng, dẫn đến tổn thất tài chính.
Tiếp đến là ảnh hưởng do chính sách tiền tệ và điều chỉnh tỷ giá hiện nay của Việt Nam đã gây ra biến động tỷ giá. Các chính sách hầu hết chỉ có tác dụng trong ngắn hạn và được đưa ra khi tỷ giá có biến động. Lúc đó, doanh nghiệp đã bị thiệt hại. Ngoài ra việc NHNN không cung cấp đúng thông tin về dự trữ ngoại tệ, về dự báo biến động tỷ giá cho các doanh nghiệp cũng đẩy doanh nghiệp rơi vào thế bị động khi đối phó với tỷ giá. Việc trên thị trường tồn tại 2 tỷ giá, tỷ giá chính thức do NHNN quy định và tỷ giá trên thị trường tự do tạo ra sự chênh lệch bất hợp lý giữa 2 tỷ giá khi NHNN nới biên độ, người chịu thiệt là các doanh nghiệp nhập khẩu. Trên thị trường ngoại hối cũng thiếu sự cần bằng khi nguồn cung USD thì khan hiếm mà nhu cầu lại cao. Những điều này làm cho tỷ giá không ổn định và khó dự báo.
Nguyên nhân khác phải kể đến khiến việc tỷ giá biến động lại có ảnh hưởng đến giá bán sữa là tâm lý tăng giá chung để thu lợi của các doanh nghiệp. Hiện chưa có quy định các doanh nghiệp sữa phải báo cáo giá các thành phần sản xuất nên không thể xác định việc một doanh nghiệp sữa cho tăng giá bán sản phẩm của mình là hợp lý hay không.
Chương III: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ USD/VND ĐỐI VỚI GIÁ BÁN SỮA TẠI VIỆT NAM
Xu thế biến động của tỷ giá USD/VND trong năm 2011:
Hai năm trở lại đây, tỷ giá cứ mỗi năm lại ít nhất một lần biến động mạnh. Và sau mỗi lần biến động, tỷ giá lại tăng lên so với trước lúc biến động. Kết thúc năm 2009, tỷ giá USD/VND tăng 6.2% so với năm 2008. Và tại thời điểm hết tháng 10/2010, tỷ giá tăng 14.7% so với năm 2008. Việc tỷ giá biến động rất khó dự báo, như năm 2008, cơn sốt giá USD vào tháng 6, nhưng năm 2009 - 2010 lại vào những tháng cuối năm, khi nhiều doanh nghiệp có nhu cầu mua USD để thanh toán.
Nếu theo như biến đống tỷ giá của 2 năm vừa qua, có lẽ năm 2011 cũng không tránh khỏi việc tỷ giá tăng lên. Theo số liệu được Tổng cục Thống kê công bố hôm 24/9/2010, sau 5 tháng liên tiếp chỉ dao động với biên độ tăng dưới 0,3%, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 tăng tới 1,31% so với tháng 8, cho thấy sự đột biến của giá cả thị trường, đồng thời cũng khiến nỗ lực kiềm chế lạm phát các tháng cuối năm trở nên khó khăn hơn. So với tháng 12/2009, CPI tháng 9 đã tăng 6,46%. Như vậy đầu năm 2011 có khả năng xảy ra lạm phát cao và tất yếu ảnh hưởng đến tỷ giá. Hơn nữa, theo nghiên cứu ngày 11/10 của nhà phân tích Dariusz Kowalczyk thuộc ngân hàng Credit Agricole tại Hồng Kông, lần giảm giá tiền đồng 2% gần nhất diễn ra hôm 18/8 “chưa đủ để cân bằng thị trường”. Báo cáo này cho rằng đồng Việt Nam có thể sẽ giảm giá thêm hai lần trong năm 2011, nâng tỷ giá chính thức lên khoảng 20.500 đồng/USD. Nguyên nhân là do giá trị đồng Việt Nam đang bị ảnh hưởng từ tình trạng thâm hụt thương mại và lạm phát kéo dài, dẫn đến sức ép lên cán cân thanh toán của Việt Nam.
Tỷ giá biến động còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lạm phát, cán cân thanh toán, kỳ vọng về tỷ giá, chính sách điều chỉnh tỷ giá, sự can thiệp của Chính phủ. Bất kì ảnh hưởng của yếu tố nào cũng có thể tạo ra sự biến động bất thường của tỷ giá vì vậy không có gì đảm bảo năm 2011 lại không có một cơn “sốt” giá USD.
Phương hướng và mục tiêu hạn chế tác động của tỷ giá đổi với giá bán sữa tại Việt Nam trong năm 2011:
Nhằm hạn chế tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam trong năm 2011, mỗi doanh nghiệp ngành sữa cần xác định hướng đi cả trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, cần tập trung xây dựng phương án dự phòng và hạn chế tác động của tỷ giá đối với các giao dịch nhập khẩu. Nghiên cứu kỹ tình hình doanh nghiệp cũng như biến động thị trường nhằm lựa chọn vốn vay ngắn hạn phù hợp nhất. Tỷ giá USD/VND từ trước đến nay nhìn chung vẫn có xu hướng tăng và theo dự báo năm 2011 tỷ giá có thể lên đến 20.500đ, trong khi hiện nay đã có Thông tư 122 quy định về niêm yết giá bán sữa,vì vậy doanh nghiệp sữa nên tính đến việc cân đối giữa các khoản chi phí để không làm tăng chi phí chung khi có tổn thất giao dịch xảy ra, tránh tối đa phương án phải tăng giá bán. Bên cạnh đó, trong dài hạn ngành sữa cần giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu sữa và các sản phẩm từ sữa. Đồng thời phân tích các chỉ tiêu kinh tế, tài chính, ước lượng rủi ro kinh tế có thể có để chuẩn bị biện pháp cân đối hợp lý. Mục tiêu năm 2011, ngành sữa kiểm soát được chi phí, các doanh nghiệp đều chủ động đối phó với biến động tỷ giá tăng mạnh, không giải quyết áp lực chi phí bằng cách tăng giá bán sữa liên tục.
Từ phía Chính phủ và NHNN, giữ ổn định tỷ giá cũng như có thông tin kịp thời về các hiện tượng kinh tế có thể gây ra biến động tỷ giá. Ngoài ra, Chính phủ và NHNN cũng cần chủ động điều chỉnh và quản lý tỷ giá thay vì chỉ đưa ra chính sách ngắn hạn nhằm giải quyết khi biến động tỷ giá đã xảy ra. Tỷ giá do NHNN quy định không nên tạo ra sự chênh lệch quá lớn với tỷ giá trên thị trường tự do, các lần nới biên độ tỷ giá phải hợp lý và được thông báo kịp thời để doanh nghiệp tránh bị rủi ro. Cần đảm bảo cung cầu ngoại tệ hợp lý. Mục tiêu năm 2011 không để xảy ra hiện tượng sốt giá USD và tăng giá USD. Chính phủ cũng cần thực hiện chặt chẽ quy định về giá bán sữa, hạn chế tối đa hiện tượng tăng giá bán sữa bất hợp lý trong năm 2011.
Giải pháp hạn chế tác động:
Trong ngắn hạn (năm 2011):
Sử dụng các phương pháp dự báo tỷ giá:
Phân tích cơ bản: Tập trung vào nguyên nhân khiến cho tỷ giá tăng hoặc giảm. Phương pháp này chú ý đến các lực lượng tác động đến cung cầu tiền tệ trên thị trường: Lãi suất, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, xuất nhập khẩu, đầu tư… Các lý thuyết chính của phân tích cơ bản là: Lý thuyết đồng giá sức mua (PPP), lý thuyết ngang giá lãi suất (IRP), mô hình cán cân thanh toán quốc tế, mô hình thị trường vốn,…Phương pháp giúp doanh nghiệp đưa ra một giá trị dự đoán về giá trị tỷ giá và xu hướng biến động của tỷ giá trong giai đoạn sắp tới. Phương pháp này phù hợp với các doanh nghiệp tham gia vào thị trường ngoại hối nhằm phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Phân tích kỹ thuật: Dựa vào nghiên cứu biến động tỷ giá trong quá khứ, các quy luật và xu hướng. Phương pháp này chủ yếu là dựa vào đồ thị tỷ giá và số lượng mua bán của quá khứ đã được tập hợp lại để dự đoán khuynh hướng của tỷ giá trong tương lai. Các lý thuyết chính của phân tích kỹ thuật là: lý thuyết Dow, lý thuyết Fibonacci, lý thuyết Elliott Wave… Trong phân tích kỹ thuật có các giả định: thị trường phản ứng trước mọi sự kiện xảy ra, giá cả biến động theo một khuynh hướng nhất định, sự biến động giá cả thường lập lại theo chu kỳ và có sự lập lại của giá cả trong quá khứ vào tương lai. Phương pháp phân tích kỹ thuật hiện nay chưa được sử dụng phổ biến tại Việt Nam nhưng đây là phương pháp được đánh giá cao trên thế giới. Nó giúp cho các doanh nghiệp dự báo tỷ giá tăng hay giảm trong khoảng thời gian xác định, do đó làm cơ sở để doanh nghiệp đưa ra các chiến lược kinh doanh trong ngắn hạn.
Lựa chọn các công cụ phái sinh do ngân hàng cung cấp:
Giao dịch giao ngay (Spot): Là giao dịch mà hai bên thực hiện mua, bán một lượng ngoại tệ theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong vòng 2 ngày làm việc tiếp theo. Giao dịch này phù hợp với các doanh nghiệp có nguồn thu chi ngoại tệ nhỏ, không có kế hoạch ổn định.
Giao dịch kỳ hạn (Forwward): Là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua, bán với nhau một lượng ngoại tệ theo một tỷ giá xác định và việc thanh toán sẽ được thực hiện vào thời điểm xác định trong tương lai. Khách hàng có thể xác định tỷ giá ngay tại thời điểm ký hợp đồng và hạn chế một phần rủi ro biến động tỷ giá. Loại hình này thích hợp với các doanh nghiệp có kế hoạch thu chi ngoại tệ ổn định, ít có kinh nghiệm về sự biến động tỷ giá hàng ngày.
Giao dịch hoán đổi (Swap): Là giao dịch đồng thời mua và bán cùng một lượng ngoại tệ (chỉ có 2 ngoại tệ được sử dụng trong giao dịch), trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch là khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký hợp đồng. Giao dịch này cho phép doanh nghiệp tận dụng lợi thế lãi suất của các đồng tiền và quản lý hiệu quả nguồn vốn ngoại tệ của mình.
Giao dịch quyền chọn (Option): Là giao dịch giữa bên mua quyền và bên bán quyền, trong đó bên mua quyền có quyền nhưng không có nghĩa vụ mua hoặc bán một lượng ngoại tệ xác định ở một mức tỷ giá xác định trong một khoảng thời gian thỏa thuận trước. Nếu bên mua quyền lựa chọn thực hiện quyền của mình, bên bán quyền có nghĩa vụ bán hoặc mua lượng ngoại tệ trong hợp đồng theo tỷ giá thỏa thuận trước. Loại giao dịch này tối ưu hóa việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá, phù hợp với doanh nghiệp có kế hoạch thu chi ngoại tệ ổn định, có kinh nghiệm theo dõi biến động tỷ giá ngoại tệ hàng ngày.
Lập quỹ dự phòng biến động tỷ giá.
Rất nhiều doanh nghiệp sữa có lợi từ biến động tỷ giá, khi đó, doanh nghiệp sẽ trích phần lợi nhuận này lập ra quỹ dự phòng bù đắp rủi ro tỷ giá. Khi nào tỷ giá biến động bất lợi khiến doanh nghiệp bị tổn thất thì sử dụng quỹ này để bù đắp, trên cơ sở đó hạn chế tác động tiêu cực đến kết quả hoạt động kinh doanh. Phương pháp này đơn giản và dễ thực hiện. Vấn đề là thủ tục kế toán và công tác quản lý quỹ dự phòng sao cho quỹ này không bi lạm dụng vào việc khác.
Ngoài ra, các doanh nghiệp ngành sữa cần thường xuyên cập nhật thông tin điều chỉnh và quản lý tỷ giá từ phía Chính phủ và NHNN để có những thay đổi kịp thời. Từ phía Chính phủ, tiếp tục quản lý chặt chẽ việc thực hiện Thông tu 122 để tránh tình trạng giá sữa tăng bất hợp lý.
Trong dài hạn:
Tập trung phát triển nguyên liệu sữa: Hiện nay Việt Nam đang đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến sữa nhằm giải quyết nhu cầu nguyên liệu của các doanh nghiệp trong nước. Cần xây dựng vùng nguyên liệu sữa tập trung để đảm bảo cho hoạt động của nhà máy và giảm thiểu các chi phí thu gom, bảo quản, vận chuyển. Một số doanh nghiệp lớn có khả năng tài chính đã và đang đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến sữa phục vụ cho nhu cầu của chính doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể chủ động nguồn nguyên liệu bằng cách đầu tư vào các nhà máy chế biến sữa tại nước ngoài. Ví dụ: Vinamilk đầu tư vào nhà máy chế biến sữa tại New Zealand. Tuy nhiên, nhằm hướng tới sự phát triển cho toàn ngành sữa, Chính phủ cần khuyến khích các dự án đầu tư xây dựng nhà máy chế biến sữa; Quy hoạch vùng sữa nguyên liệu; Hỗ trợ phát triển đàn bò sữa.
Từ phía Chính phủ: Hỗ trợ phát triển vùng sữa nguyên liệu trong nước, đặc biệt là trong phát triển đàn bò sữa về nguồn vốn đầu tư, các phương pháp kỹ thuật cả trong chăn nuôi và sản xuất cũng như giải quyết nguyên liệu đầu ra. Thu hút các dự án đầu tư xây dựng nhà máy chế biến nguyên liệu sữa với công nghệ hiện đại, công suất lớn. Bên cạnh đó, Chính phủ và NHNN cần sử dụng linh hoạt các công cụ điều chỉnh tỷ giá nhằm giữ bình ổn tỷ giá USD/VND, giảm lạm phát và mất cân bằng cán cân thanh toán.
KẾT LUẬN
Như vậy, nhìn nhận tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 -2010, biến động tỷ giá không chỉ có tác động tiêu cực mà có cả tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sữa. Mỗi doanh nghiệp khác nhau thì chịu tác động của tỷ giá khác nhau. Bài nghiên cứu chỉ dừng lại ở góc độ đánh giá chung về giá bán sữa tại Việt Nam khi tỷ giá thay đổi, bản thân mỗi doanh nghiệp sẽ có những chiến lược ngắn hạn cũng như dài hạn phù hợp với nguồn lực sẵn có để tránh tối đa tổn thất do tỷ giá gây nên. Ngoài việc phân tích đánh giá tác động của tỷ giá, trong bài cũng đưa ra dự báo về biến động tỷ giá trong năm 2011 và phương hướng cũng như một số giải pháp hạn chế tác động xấu của tỷ giá, phần nào giúp doanh nghiệp sữa có thể lựa chọn để bảo hiểm, phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
Với đề tài nghiên cứu: “Tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam”, em chỉ dừng lại đánh giá nhìn nhận vấn đề chủ quan, do chưa có điều kiện về thời gian cũng như điều kiện để tìm hiểu thực tế hoạt động của doanh nghiệp sữa. Do đó bài nghiên cứu không tránh khỏi còn nhiều sai sót, em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô để có thể làm tốt hơn trong những bài nghiên cứu sau. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn TS. Tạ Lợi đã hướng dẫn phương pháp và giúp em hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh doanh quốc tế - tập II. Bộ môn Kinh doanh quốc tế, Trường đại học Kinh tế Quốc dân. NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội năm 2003.
Quản trị rủi ro, Ngô Quang Huân, Võ Thị Quý, Nguyễn Quang Thu, Trần Quang Trung. NXB Giáo dục, Hà Nội.
Các bài viết về thay đổi giá bán sữa giai đoạn 2008 – 2010. Website www.vnmedia.vn
Số kiệu thống kê thương mại và giá cả. Website Tổng cục Thống kê www.gso.gov.vn
Tỷ giá USD, một năm nhìn lại và dự báo năm 2009, Ban vốn và Kinh doanh vốn BIDV.
Đi tìm nguyên nhân thực căng thảng tỷ giá. Thời báo kinh tế, số ra ngày 11/02/2010.
Một số biện pháp hạn chế rủi ro tỷ giá hối đoái trong cơ chế thị trường mở, TS. Phạm Thị Lan Anh, Trường đại học Giao thông vận tải.
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
Hà Nội, Tháng 11 năm 2010.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động của tỷ giá USD-VNĐ đối với giá bán sữa tại Việt Nam.doc