Tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân dễ bị tổn thương ở tỉnh An Giang

Chính quyền địa phương và các cơ quan ban ngành có liên quan có nên hướng dẫn, quản lý và kiểm soát người khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên theo hướng khai thác bền vững bằng cách sử dụng các phương tiện khai thác thích hợp. Ngoài ra, nên quy định cụ thể kích cỡ mắt lưới sử dụng để khai thác và kiểm soát chặt chẽ để hạn chế người dân khai thác cá con. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản trong cộng đồng dân cư, đồng thời thay đổi tư duy bảo tồn nguồn lợi thủy sản bằng cách phân cấp quản lý nguồn lợi thủy sản dựa vào cộng đồng. Đào tạo nghề, tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ vốn cho những hộ dân có nhu cầu chuyển đổi nghề như chăn nuôi, trồng trọt, buôn bán nhỏ, thợ hồ giúp cho họ có điều kiện làm ăn, ổn định cuộc sống

pdf7 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân dễ bị tổn thương ở tỉnh An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 1 – 7 Trường Đại học An Giang 1 TÁC ĐỘNG CỦA NGUỒN LỢI THỦY SẢN ĐẾN SINH KẾ CỦA NGƯỜI DÂN DỄ BỊ TỔN THƯƠNG Ở TỈNH AN GIANG Phạm Xuân Phú1 ABSTRACT The study was carried out in Phu Loc, Tan Chau district and Khanh An, An Phu district, An Giang province to assess impacts of aquatic resources on livelihood of vulnerable people. The study also sought solutions for sustainable livelihood of local people. The quantitative and qualitative methods were used for surveys: in- depth interview (for local authorities and local people), focus group discussions, and questionnaires. The results showed that people who lived along the river are poor, education-low, landless, and dependent on natural resources that their income resources were from natural fish exploitation and hired work; therefore, fish reduction resulted in their reduction of employment opportunity and income that caused their life unstable. About 30.35% interviewed households in Khanh An commune, and 20.25% in Phu Loc wanted to change their job. Approximately 69.65% of interviewed households in Khanh An and 79.75% in Phu Loc maintained their current jobs due to familiarity to fish exploitation, unavailable funds, no land, and no production facilities. Keywords: An Giang, Khanh An, natural aquatic resources, Phu Loc, livelihood Title: Impact of aquatic resources on livelihood of vulnerable people in An Giang province TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện ở 2 xã Phú Lộc và Khánh An, huyện Tân Châu và An Phú, tỉnh An Giang. Mục đích của nghiên cứu phân tích tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân dễ bị tổn thương ở 2 xã Phú Lộc và Khánh An, huyện Tân Châu và An Phú, tỉnh An Giang. Từ đó, đưa ra kiến nghị cho chiến lược sinh kế của người dân sống ở vùng nghiên cứu được hiệu quả và bền vững. Các thông tin được thu thập bằng cách kết hợp các phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính. Kết quả nghiên cứu cho thấy người dân sống ven sông là những người nghèo, trình độ học vấn thấp, sống phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên; vì không có đất sản xuất nên thu nhập chủ yếu dựa vào khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên và đi làm thuê. Chính vì vậy, khi nguồn lợi thủy sản giảm đã ảnh hưởng đến sinh kế của họ như giảm cơ hội việc làm, giảm thu nhập, đời sống của họ trở nên bấp bênh. Có đến 30,35% hộ gia đình được phỏng vấn ở Khánh An và 20,25% hộ gia đình được phỏng vấn ở Phú Lộc muốn thay đổi nghề nghiệp. Mặc dầu sinh kế phụ thuộc vào nguồn lợi thủy sản tự nhiên nhưng có đến 69,65% hộ được phỏng vấn ở xã Khánh An và 79,75% hộ ở xã Phú Lộc vẫn tiếp tục với nghề khai thác thủy sản tự nhiên. Nguyên nhân là do họ đã quen với việc kiếm sống từ khai thác thủy sản tự nhiên, thêm vào đó, điều kiện gia đình không có vốn, không đất đai và các phương tiện sản xuất khác làm cho họ không thể chuyển sang nghề khác. Từ khóa: An Giang, Khánh An, nguồn lợi thủy sản, Phú Lộc, sinh kế 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có vị trí và vai trò quan trọng, là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam, không chỉ đảm bảo an toàn lương thực quốc gia mà còn đảm bảo hàng xuất khẩu, nhất là lúa gạo và thủy hải sản. Đặc điểm nổi bật của ĐBSCL là một vùng được hình thành bởi tác động của môi trường sông Mê Công và biển Đông, do đó là vùng sinh thái ngập nước có khí hậu nhiệt đới, gió mùa. Do đó, nơi đây hầu như năm nào cũng xảy ra lũ lụt, có những trận lũ với cường suất lớn, gây thiệt hại nặng nề về người và của (Nguyễn Đình Huấn, 2003). Lũ lụt ở ĐBSCL đã trải qua hàng 1 ThS. Khoa Nông nghiệp và Tài nguyên Thiên nhiên, Trường Đại Học An Giang Email: pxphu@agu.edu.vn Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 1 – 7 Trường Đại học An Giang 2 ngàn năm, trở thành hiện tượng tự nhiên. Bên cạnh những thiệt hại về người và của, lũ lụt là lợi thế tự nhiên để tháo chua, rửa phèn, và bồi đắp phù sa, tạo ra sự màu mỡ cho vùng đất này (Đào Công Tiến, 2002). Vì vậy, “sống chung với lũ” vừa là đặc điểm riêng, vừa là nhu cầu tất yếu khách quan của người dân ĐBSCL (Oxfam, 2008). Khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ khá cao và ổn định; trung bình năm khoảng 27 0C, biên độ trung bình hằng năm 300C (Lê Văn Hạnh, 2013). Do địa hình của khu vực thấp và nằm ở vùng hạ nguồn sông Mê Công nên chịu ảnh hưởng trực tiếp của lũ, xâm nhập mặn, hạn hán hàng năm do tác động của biến đổi khí hậu và việc xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn đã làm thay đổi lưu lượng dòng chảy và lượng nước lũ đổ về khu vực này ảnh hưởng đến tính quy luật của lũ, xâm nhập mặn, hạn hán hàng năm (Ủy ban liên minh chính phủ về biến đổi khí hậu, 2007). Tuy nhiên, từ sau năm 2000 trở lại đây, mực nước lũ đo được ở hai nhánh của sông Mê Công đổ vào Việt Nam là sông Tiền và sông Hậu thấp dần. Dù vậy, chưa năm nào mực nước lũ thấp ở mức kỷ lục như năm 2010, dưới 1m so với mức lũ trung bình hằng năm. Ảnh hưởng đầu tiên từ tình trạng lũ thấp là ngư dân vùng Đồng Tháp, An Giang đã không thể khai thác thuỷ sản vào mùa lũ để có tích luỹ cho các tháng khác trong năm. Tại An Giang, mỗi năm mùa nước nổi mang lại trên dưới 1.500 tỉ đồng thu nhập cho người dân từ các ngành nghề chăn nuôi, trồng trọt, dịch vụ, khai thác sản vật thiên nhiên, mang lại việc làm cho trên 650.000 lao động nông thôn trong tỉnh (Lê Anh Tuấn, 2010). Theo Ủy ban sông Mê Công (2010) cho thấy, một con số đáng kinh ngạc: khoảng 17% số cá đánh bắt được ở các vùng nước nội thủy trên khắp thế giới là từ con sông này và 90% cư dân của lưu vực sông Mê Công là nông dân lâu nay sống phụ thuộc chủ yếu vào những cánh đồng được cung cấp phù sa màu mỡ và đánh bắt nguồn lợi thủy sản từ dòng sông này. Như vậy, những tác động trên thượng nguồn sẽ tác động đến đời sống, kinh tế - xã hội, môi trường, sinh kế của người dân Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và An Giang nói riêng là điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, nhằm xác định các yếu tố tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân ở tỉnh An Giang nói riêng và ĐBSCL nói chung, đồng thời đưa ra kiến nghị cho chiến lược sinh kế của người dân vùng lũ được ổn định và bền vững. Do đó, đề tài “Tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân dễ bị tổn thương vùng ven sông hạ lưu Mê Công - một tình huống nghiên cứu ở 2 xã Phú Lộc và Khánh An, huyện Tân Châu và An Phú, tỉnh An Giang” đã được thực hiện. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU  Phân tích tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân sống ở 2 xã Phú Lộc và Khánh An, huyện Tân Châu và An Phú, tỉnh An Giang.  Đưa ra kiến nghị cho chiến lược sinh kế của người dân sống ở 2 xã Phú Lộc và Khánh An, huyện Tân Châu và An Phú, tỉnh An Giang. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Các thông tin được thu thập bằng cách kết hợp các phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính. Trong đó, phương pháp nghiên cứu định tính tham gia thảo luận 4 cuộc PRA cho 2 đối tượng: (i) nhóm tham gia khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên, (ii) nhóm không tham gia khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên, bao gồm thực hiện đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA- Participatory Rural Appraisal) và sử dụng các công cụ sau: Time Line; Seasonal Calendar; Venn Diagram; Problem Ranking Matrix; SWOT analysis và phỏng vấn sâu các cấp lãnh đạo ở địa phương (3 cuộc) và phỏng vấn sâu những nông hộ điển hình (3hộ). Phương pháp nghiên cứu định lượng như phỏng vấn nông hộ (60 hộ). Phương pháp xử lý số liệu: Tổng hợp thành bảng, biểu đồ, đồ thị và hộp thông tin bằng Microsoft word và Excel, sử dụng các hàm tính giá trị nhỏ nhất (Min), giá trị lớn nhất (Max), trung bình (Average), tính tổng (Sum), phần trăm, sử dụng hệ số tương quan R2 đề thống kê. Thời gian thực hiện: 01/04/2010 đến 30/11/2010. 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 1 – 7 Trường Đại học An Giang 3 91.13 96.57 79.06 67.47 58.06 51.33 53.40 52.04 40.07 40.13 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Năm Tấ n 4.1 Các nguyên nhân làm giảm lượng cá tự nhiên Theo số liệu thống kê của Chi cục bảo vệ thủy sản tỉnh An Giang (2009), sản lượng khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên có khuynh hướng giảm dần từ năm 2001 - 2009. Theo ông Trần Anh Dũng, chi cục trưởng bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh An Giang cho biết những nguyên nhân do giảm sản lượng nguồn lợi thủy sản bới các nguyên nhân sau: (i) đánh bắt bằng điện, (ii) bao đê, (iii) sử dụng mắt lưới nhỏ, đông ngư dân, đánh bắt cá nhỏ, thuốc trừ sâu, đánh bắt cá bố mẹ. Biểu đồ 1. Các nguyên nhân làm giảm lượng cá tự nhiên Nguồn: Điều tra nông hộ, 2010 Tuy nhiên, theo kết quả phỏng vấn nông hộ năm 2010, (biểu đồ 1) cho thấy có nhiều nguyên nhân làm giảm lượng cá tự nhiên như có đông ngư dân đánh bắt (theo 3,33% hộ được phỏng vấn ở xã Khánh An), đánh bắt bằng điện, bao đê, thuốc trừ sâu, sử dụng lưới mắt nhỏ và nước lũ chảy về chậm và ít. Trong đó, có đến 40% hộ ở xã Phú Lộc và 43,33% hộ ở xã Khánh An cho rằng sản lượng cá giảm là do nước lũ chảy về chậm và ít. 4.2 Diễn biến sản lượng khai thác thủy sản tự nhiên Biểu đồ 2. Diễn biến sản lượng khai thác thủy sản tự nhiên ,An Giang Nguồn: Trạm khí tượng thủy văn, tỉnh An Giang, 2009 43,33 36,67 6,67 3,33 6,67 3,33 0 10 20 30 40 50 Nước lũ chảy về chậm Sử dụng lưới mắt nhỏ Thuốc trừ sâu Bao đê Đánh bắt bằng điện Đông ngư dân đánh bắt Phần trăm Các nguyên nhân làm giảm lượng cá tự nhiên Khánh An Phú Lộc Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 1 – 7 Trường Đại học An Giang 4 0 1 2 3 4 5 6 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Năm M ực n ướ c (m ) Biểu đồ 3. Mực nước lũ qua các năm tại Tân Châu, An Giang Nguồn: Chi cục bảo vệ thủy sản tỉnh An Giang, 2009 Biểu đồ 4. Mối quan hệ giữa mực nước lũ và sản lượng cá tự nhiên Điều này cũng phù hợp khi so sánh diễn biến của lũ và sản lượng cá hằng năm ở biểu 2 và biểu 3, kết quả cho thấy khi mực nước giảm thì sản lượng khai thác thủy sản tự nhiên cũng giảm theo, khi mực nước lũ tăng lên thì sản lượng khai thác thủy sản cũng tăng. Theo kết quả nghiên cứu của Lê Xuân Sinh (2007) trong vòng 10 năm sản lượng cá tự nhiên ở khu vực Ô Môn - Xa No của ĐBSCL giảm 50%, kết quả này cũng phù hợp với kết quả điều tra nông hộ ở 2 xã Phú Lộc và Khánh An năm 2010. Kết quả điều tra cho thấy, sản lượng thủy sản khai thác bình quân/hộ/năm giảm đáng kể, từ bình quân 1.120, 52 kg cá/hộ vào năm 2000 đã giảm xuống còn 563,73 kg cá/hộ vào năm 2010, tương đương với mức giảm 49,69% trong vòng 10 năm. Theo tính toán của ngành nông nghiệp tỉnh An Giang cho thấy, trung bình mỗi năm tỉnh An Giang có giá trị tăng thêm 2.000 tỷ đồng từ việc khai thác lợi thế do mùa nước nổi đem lại. Năm nay lũ nhỏ và về chậm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng chục ngàn hộ nông dân sống bằng nghề đánh bắt tôm cá đồng thời làm cho tỉnh An Giang mất đi nguồn thu đáng kể này. Bên cạnh đó, theo kết quả biểu 4 cho thấy xu hướng mực nước giảm qua các năm và sản lượng cá cũng giảm qua các năm và có hệ số R2 = 0.903 thì tương quan tuyến tính về ý nghĩa mặt thống kê cho thấy giữa mực nước và sản lượng cá tự nhiên có mối quan hệ chặt với nhau. 4.3 Tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân sống ở vùng hạ lưu Mê Công R² = 0,9034 0 20 40 60 80 100 120 1998 2000 2002 2004 2006 2008 2010 Đĩnh lũ Sản lượng cá tự nhiên Linear (Sản lượng cá tự nhiên) Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 1 – 7 Trường Đại học An Giang 5 4.3.1 Cơ hội việc làm Theo Huỳnh Văn Thành, phó chủ tịch UBND xã Khánh An (2010), mùa nước nổi là mùa đánh bắt thủy sản của người dân, chính vì thế đã có nhiều ngành nghề liên quan phát triển và tạo công ăn việc làm cho khoảng gần 80% người dân nơi đây. Cũng theo Theo Huỳnh Văn Thành, phó chủ tịch UBND xã Khánh An (2010) cho biết mùa lũ năm 2010 các ngành nghề này gặp rất nhiều khó khăn do lũ về chậm, do đó ảnh hưởng đến thu nhập và công ăn việc làm của người dân nơi đây. 4.3.2 Nguồn thu nhập của người dân sống ven sông Biểu đồ 4. Nguồn thu nhập của hộ dân Nguồn: Điều tra nông hộ, 2010 Kết quả từ biểu đồ 4 cho thấy, nguồn thu nhập chính của người dân ở 2 xã nghiên cứu năm 2010 chủ yếu nhờ vào việc đánh bắt cá tự nhiên (33,33% ở xã Phú Lộc và 40% ở xã Khánh An), kế đến là làm thuê hoặc vận chuyển hàng thuê (xã Khánh An với 26,67% hộ được phỏng vấn). Thu nhập từ làm ruộng có nhưng không cao do đa số những hộ tham gia đánh bắt thủy sản tự nhiên thường là những hộ nghèo, có ít hoặc không có đất canh tác. Ngoài ra, có một số ít hộ có nguồn thu nhập từ những người đi làm xa (chiếm 6,67% ở mỗi xã). 4.4 Chiến lược sinh kế của người dân vùng ven sông Flordeliz (2006) và Võ Hồng Tú (2012) cho rằng sinh kế người nghèo đánh bắt nguồn lợi thủy sản tự nhiên vùng ngập lũ dễ bị tổn thương do tác động của lũ. Theo kết quả phỏng vấn nông hộ, người dân cho biết do trước đây sống phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, nguồn thu nhập chính của gia đình chủ yếu từ khai thác nguồn lợi thủy sản nhưng hiện nay các vùng thượng nguồn ngăn đập, cá tự nhiên không còn nữa nên có 30,35% hộ được phỏng vấn ở xã Khánh An và 20,25% hộ được phỏng vấn ở xã Phú Lộc muốn chuyển đổi nghề như chuyển sang chăn nuôi, trồng trọt, buôn bán nhỏ, làm thợ hồ. Bên cạnh đó, khả năng ứng phó và phục hồi kém của người nghèo cũng là kết quả của quá trình tổn thương (Võ Văn Tuấn, 2010) Hộp thông tin 1: Chuyển đổi nghề Ông: Nguyễn Văn Ba, xã Phú Lộc, huyện Tân Châu, tỉnh An Giang cho biết những năm trước đây tới tháng 7 âm lịch là nước lũ đã tràn ngập cả cánh đồng, cá đồng rất nhiều, người dân nghèo tranh thủ khai thác cá tự nhiên và đem ra bán ở chợ, có thu nhập ổn định, giải quyết được lao động nhàn rỗi trong mùa nước nổi. Nhưng năm nay, chờ hoài vẫn không thấy lũ về. Nếu tình hình kéo dài lũ không về, gia đình ông sẽ phải lên Thành Phố Hồ Chí Minh hay Bình Dương làm thuê để kiếm sống (Phỏng vấn sâu hộ đánh bắt cá năm 2010). Tuy nhiên, do trình độ học vấn thấp nên họ chỉ có thể đi làm thuê trong nông nghiệp và phi nông nghiệp hoặc di cư lên thành phố lớn tìm việc làm. Bên cạnh đó, phần lớn các hộ được phỏng vấn ở xã Khánh An và Phú Lộc ﴾69,65% hộ ở xã Khánh An và 79,75% hộ ở xã Phú Lộc﴿ cho rằng họ 33,33 43,33 16,67 6,67 0 40,00 20,00 6,67 6,67 26,67 0 10 20 30 40 50 Đánh bắt cá tự nhiên Làm thuê nông nghiệp và phi nông nghiệp Làm ruộng Từ người đi lao động xa Vận chuyển hàng thuê P h ầ n t ră m Phú Lộc Khánh An Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 1 – 7 Trường Đại học An Giang 6 không muốn chuyển đổi sang nghề khác, do họ đã quen với việc kiếm sống bằng nghề này nên không biết phải chuyển sang nghề nào, thêm vào đó, do họ cũng không có vốn, không có đất đai và các phương tiện sản xuất để chuyển sang nghề khác. Hộp thông tin 2: Không chuyển đổi nghề Ông Huỳnh Văn Tài, ở xã khánh An, huyện An Phú, tỉnh An Giang cho biết hầu hết người dân sống ở đây đã gắn bó với nghề đánh bắt cá theo truyền thống cha truyền con nối. Bên cạnh đó, những người dân nghề khai thác thủy sản là các hộ nghèo, không đất sản xuất, không có nghề khai thác ngoài việc đánh bắt thủy sản tự nhiên để nuôi sống gia đình. Nên họ không có muốn chuyển đổi nghề nghiệp, nếu không có cá họ tiếp tục đi kiếm đồng khác để đánh bắt, họ rất sợ chuyển sang nghề khác do họ không có vốn, đất canh tác và không biết cách làm ăn và bị lâm nợ (Phỏng vấn sâu hộ đánh bắt cá năm 2010). 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1.Kết luận Nguồn lợi thủy sản tự nhiên giảm đã tác động đến sinh kế sinh của người dân sống ven sông ở xã Phú Lộc, huyện Tân Châu, xã Khánh An, huyện An Phú, tỉnh An Giang như sau:  Sản lượng thủy sản khai thác bình quân/hộ trong năm giảm đáng kể từ năm 2000 tới năm 2010, từ bình quân 1.120, 52 kg cá/hộ/năm giảm xuống còn 563,73 kg cá/hộ/ năm, tương đương với mức giảm 49,69% trong vòng 10 năm.  Nguồn thu nhập chính của người dân sống ven sông ở 2 xã chủ yếu nhờ vào việc đánh bắt cá tự nhiên (33,33% ở xã Phú Lộc và 40% ở xã Khánh An), kế đến là làm thuê hoặc vận chuyển hàng thuê (xã Khánh An với 26,67% hộ được phòng vấn). Thu nhập từ làm ruộng có nhưng không cao do đa số những hộ tham gia đánh bắt thủy sản tự nhiên thường là những hộ nghèo, có ít hoặc không có đất canh tác. Ngoài ra, có một số ít hộ có nguồn thu nhập từ những người đi làm xa (chiếm 6,67% ở mỗi xã).  Do sản lượng thủy sản tự nhiên giảm nên 30,35% hộ được phỏng vấn ở xã Khánh An và 20,25% ở xã Phú Lộc muốn chuyển đổi sang các nghề khác như chăn nuôi, trồng trọt, buôn bán nhỏ, thợ hồ. Tuy nhiên, có 69,65% hộ ở xã Khánh An và 79,75% hộ ở xã Phú Lộc vẫn tiếp tục với nghề khai thác thủy sản tự nhiên. 5.2 Kiến nghị Chính quyền địa phương và các cơ quan ban ngành có liên quan có nên hướng dẫn, quản lý và kiểm soát người khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên theo hướng khai thác bền vững bằng cách sử dụng các phương tiện khai thác thích hợp. Ngoài ra, nên quy định cụ thể kích cỡ mắt lưới sử dụng để khai thác và kiểm soát chặt chẽ để hạn chế người dân khai thác cá con. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản trong cộng đồng dân cư, đồng thời thay đổi tư duy bảo tồn nguồn lợi thủy sản bằng cách phân cấp quản lý nguồn lợi thủy sản dựa vào cộng đồng. Đào tạo nghề, tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ vốn cho những hộ dân có nhu cầu chuyển đổi nghề như chăn nuôi, trồng trọt, buôn bán nhỏ, thợ hồ giúp cho họ có điều kiện làm ăn, ổn định cuộc sống. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo của Oxfam. (2008). Biến đổi khí hậu, sự thích ứng và người nghèo [trực tuyến]. Đọc từ: (đọc ngày 20.10.2010). Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh An Giang. (2009). Báo cáo sản lượng khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên có khuynh hướng giảm dần từ năm 2001 - 2009. Đào Công Tiến. (2002). Kinh tế -xã hội và môi trường vùng ngập lũ vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2002. Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 1 – 7 Trường Đại học An Giang 7 Flordeliz, B. Dacuyan. (2006). Linking fishery programs and project to fishing livelihoods: the dumanagas, Iloilo, Philippines case. Master thesis No 38, Hue city, Vietnam. Lê Anh Tuấn. (2009), Tổng quan về nghiên cứu biến đổi khí hậu và các hoạt động thích ứng ở miền nam Việt Nam, Hội thảo “Cùng nổ lực để thích ứng biến đổi khí hậu” CSRD - Acacia – Both ENDS – IVM, Thành phố Huế, Việt Nam. 11-13/5/2009 Lê Văn Hạnh. (2013). Đánh giá tác động của thời tiết đến sinh kế nông hộ thực hiện các mô hình canh tác khác nhau tại vùng đất nhiễm phèn ở xã Hòa An, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Luận Văn Thạc Sĩ chuyên ngành phát triển nông thôn, Đại Học Cần Thơ. Lê Xuân Sinh. (2007). Tác động của hệ thống thủy lợi kiểm soát lũ đối với nguồn lợi thủy sản và cộng đồng ở khu vực Ô Môn-Xa No, Đồng Bằng Sông Cửu Long [trực tuyến]. Đọc từu: =http%3A%2F%2Fwww.cpo.vn%2Fupload%2FDoc%2FThuy_Van_(bai1).pdf&ei=ARybUKDNC4b RrQemvIDQAw&usg=AFQjCNGWlBKBFpmlv7w- fTqEmDjydaCnAA&sig2=n1QNIjoYhToAEGNzzSL8BA (đọc ngày 05/11/2010). Nguyễn Đình Huấn, Robson, J., & George, E. St. (2003). Report on residential clusters research in An Giang, Dong Thap and Long An. UBND xã Khánh An. (2009). Báo cáo việc thực hiện Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 và đề ra phương hướng nhiệm vụ năm 2010. Xã Khánh An, huyện An Phú, tỉnh An Giang. UBND xã Phú Lộc. (2009). Báo cáo việc thực hiện Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 và đề ra phương hướng nhiệm vụ năm 2010. Xã Phú Lộc, huyện Tân Châu, tỉnh An Giang. Ủy ban liên minh chính phủ về biển đổi khí hậu. (2007). Báo cáo tóm tắt về biến đổi khí hậu, sự thích ứng cho vùng dễ bị tổn thương ở ĐBSCL. Ủy ban sông Mê Công. (2010). Báo cáo diễn biến biến đổi khí hậu và chiến dịch vận động cứu sông Mê Kông. Võ Hồng Tú, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Thùy Trang, Lê văn An. (2012). “Tính tổn thương sinh kế nông hộ bị ảnh hưởng lũ tại tỉnh An Giang và các giải pháp ứng phó”. Tạp chí khoa học Đại Học Cần Thơ, (Số 22b): 294-303. Võ Văn Tuấn. (2010). Vai trò của tín dụng nông thôn cho xóa đói giảm nghèo ở ĐBSCL. Luận văn thạc sĩ, Đại học nông nghiệp Thụy Điến. Ngày nhận bài: 13/08/2013 Ngày bình duyệt: 10/10/2013 Ngày chấp nhận: 11/11/2013

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftac_dong_cua_nguon_loi_thuy_san_den_sinh_ke_cua_nguoi_dan_de.pdf
Tài liệu liên quan