Sự tiếp xúc và giao lưu văn minh thời cổ đại - Dương Thị Huyền

KẾT LUẬN Sự tiếp xúc và giao lƣu văn minh Đông- Tây thời cổ đại đặt cơ sở cho sự tiếp xúc và giao lƣu văn minh của nhân loại trong các thời kì tiếp theo. Quá trình này diễn ra lâu dài khiến ta khó có thể phân biệt rạch ròi: ai chính là chủ nhân duy nhất của các thành tựu văn hóa đó. Việc phân biệt văn minh phƣơng Đông và văn minh phƣơng Tây chỉ là tƣơng đối. Điều này đã bác bỏ hoàn toàn quan điểm của một số sử gia phƣơng Tây cho rằng phƣơng Tây là văn minh tiến bộ, phƣơng Đông là lạc hậu, dã man. Văn minh phƣơng Tây thời cổ đại xuất hiện muộn hơn văn minh phƣơng Đông vài thế kỷ nhƣng lại phát triển rực rỡ và nhanh chóng một phần dựa trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của văn minh phƣơng Đông. Con ngƣời này càng văn minh thì quá trình tiếp xúc và giao lƣu ngày càng đƣợc rút ngắn về khoảng cách, nhất là trong xu thế toàn cầu hiện nay. Vấn đề hội nhập với nền văn minh nhân loại để phát triển đã trở thành vấn đề sống còn của các quốc gia chậm phát triển trong đó có Việt Nam. Không hội nhập nhanh với trình độ phát triển của thế giới thì không thể phát triển, nhƣng hội nhập mà “hoà tan”, đánh mất mình cũng là một nguy cơ lớn. Bản lĩnh của một nền văn minh trƣớc ngƣỡng cửa hội nhập hiện nay đƣợc thử thách hơn bao giờ hết. Chúng ta cần chủ động tìm hiểu sự đa dạng về văn hóa của các dân tộc khác, tiếp thu những giá trị văn minh chung của nhân loại để góp phần vào mục tiêu dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh và bảo vệ, phát huy những tinh hoa của văn hóa dân tộc. Làm sao để vừa hội nhập, phát triển mà vẫn giữ gìn đƣợc bản sắc văn hoá phƣơng Đông, phát huy những nét đẹp về đạo lí dân tộc trong quan hệ gia đình xã hội, trong nếp sống lành mạnh giản dị, trong nghĩa vụ đối với Tổ quốc và đồng bào chính là bài học sâu sắc rút ra từ việc nghiên cứu quá trình tiếp xúc và giao lƣu giữa các nền văn minh trong lịch sử nhân loại.

pdf8 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 344 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự tiếp xúc và giao lưu văn minh thời cổ đại - Dương Thị Huyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 9 - 16 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên SỰ TIẾP XÚC VÀ GIAO LƯU VĂN MINH THỜI CỔ ĐẠI Dương Thị Huyền* Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Tiếp xúc và giao lƣu văn minh là sự tiếp nhận yếu tố văn minh bên ngoài của những dân tộc chủ thể thông qua nhiều con đƣờng và cách thức khác nhau. Mỗi dân tộc có thành tựu văn minh độc đáo của mình, đóng góp vào nền văn minh nhân loại những thành tựu đặc sắc, đồng thời cũng tiếp thu, kế thừa những tinh hoa của các nền văn minh khác, làm phong phú thêm cho nền văn minh của dân tộc mình. Quá trình tiếp xúc và giao lƣu văn minh diễn ra một cách rộng lớn và sâu sắc trên toàn thế giới, trong phạm vi từng khu vực, không phân biệt nền văn minh lớn hay nhỏ. Trong đó xuyên suốt và điển hình nhất là quá trình tiếp xúc và giao lƣu giữa các nền văn hóa, văn minh phƣơng Đông với phƣơng Tây. Quá trình này diễn ra rõ nét nhất là trong thời kỳ cổ đại, tạo nên những nền văn minh đa dạng, phong phú, trở thành những di sản của văn minh nhân loại. Từ khoá: văn hoá, văn minh, tiếp xúc và giao lưu văn minh ĐẶT VẤN ĐỀ* Thời cổ đại, trên thế giới đã xuất hiện những nền văn minh rực rỡ. Các nhà nghiên cứu đã chia nền văn minh thế giới cổ đại thành 2 loại: văn minh phƣơng Đông (bao gồm văn minh Ai Cập, Lƣỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ) và văn minh phƣơng Tây (gồm văn minh Hy Lạp và La Mã). Các nền văn minh đã hình thành nên những phong cách độc đáo của mình, không trộn lẫn vào các nền văn minh khác. Nhƣng giữa chúng không hề tách biệt nhau mà luôn có sự tiếp xúc và giao lƣu với nhau. Sự tiếp xúc và giao thoa này diễn ra chậm chạp, nhiều khi mang tính gián tiếp do sự cách biệt về địa lý và do các phƣơng tiện giao thông, thông tin liên lạc không thuận tiện. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ Đông- Tây đã diễn ra một cách mạnh mẽ thông qua nhiều con đƣờng khác nhau: con đƣờng buôn bán của các thƣơng nhân, con đƣờng du lịch, con đƣờng truyền giáo, con đƣờng chiến tranh tạo nên sự giao lƣu văn minh giữa các khu vực trên thế giới thời cổ đại. Sự tiếp xúc văn minh có tác động vô cùng to lớn tới “số phận” của các nền văn minh trên thế giới. Một mặt, nó thúc đẩy các nền văn minh phát triển phong phú đa dạng hơn. Mặt khác, nó sẽ dẫn tới sự “xung đột” văn minh và huỷ diệt văn minh nếu trong quá trình tiếp xúc mà không có sự giao thoa văn minh. Chỉ có nền văn minh * Tel: 0975702362; Email: duonghuyen.sudhkh@gmail.com nào mở cửa để vừa truyền bá những thành tựu của mình, vừa tiếp thu những thành tựu của nền văn minh khác thì mới kéo dài đƣợc “số phận” và phát triển ở mức độ cao. Vì vậy, tiếp xúc và giao lƣu văn minh đã trở thành quy luật phát triển của nhân loại. Do đó, việc tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lƣu giữa các nền văn minh trong thời cổ đại là một điều cần thiết. Trong thời cổ đại, sự tiếp xúc và giao lƣu văn minh diễn ra không đơn giản mà theo nhiều chiều khác nhau, đan xen vào nhau: Đông- Đông, Tây- Tây, Đông- Tây Nhƣng trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu sự giao lƣu văn minh giữa phƣơng Đông và phƣơng Tây. KẾT QUẢ CỦA SỰ TIẾP XÚC VÀ GIAO LƢU VĂN MINH 1. Chính trị Các quốc gia cổ đại phƣơng Đông theo thể chế quân chủ chuyên chế trung ƣơng tập quyền. Vua đứng đầu nhà nƣớc nắm mọi quyền lực và chi phối mọi việc trong nƣớc. Còn các quốc gia cổ đại phƣơng Tây lại theo thể chế dân chủ hơn, quyền lực nằm trong tay đại đa số ngƣời. Tuy nhiên đã có một thời, hai thể chế chính trị này lại kết hợp, giao thoa với nhau cùng tồn tại trên một lãnh thổ. Sau khi thiết lập đƣợc một quốc gia rộng lớn trên cả 3 châu lục châu Á- châu Âu- châu Phi, Alêchxanđrơ đã nhanh chóng bắt tay vào việc tổ chức bộ máy cai trị. Tổ chức Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 9 - 16 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên chính quyền của đế quốc dựa trên sự phối hợp giữa chế độ chính trị của thị quốc Hy Lạp với nội dung chuyên chế của các quốc gia phƣơng Đông. Hoàng đế Alêchxanđrơ đƣợc thần thánh hoá cao độ, nắm mọi quyền lực trong tay. Những ngƣời thân cận của Hoàng đế đƣợc giao giữ các trọng trách trong bộ máy nhà nƣớc. Qua tiếp xúc với phƣơng Đông, giai cấp chủ nô La Mã rất thích thú với mô hình nhà nƣớc chuyên chế trung ƣơng tập quyền. Họ có mong muốn và khát vọng tập trung quyền lực vào trong tay mình. Do đó, nền đế chế ở La Mã đƣợc thiết lập dƣới thời vua Ôtaviuxơ (TK I- TK V) thay cho nền cộng hòa trƣớc đó. Giống nhƣ tổ chức nhà nƣớc phƣơng Đông, quyền lực tối cao của nền đế chế nằm trong tay nhà vua. Viện nguyên lão suy tôn ông là “quốc phụ” và tặng cho ông danh hiệu “Ôguxtuxơ”- đấng cao cả, tối cao. Đại hội công dân và Viện nguyên lão không còn giữ đƣợc vai trò nhƣ thời kỳ trƣớc mà trở thành công cụ thống trị của chính quyền quân chủ. Tính chất dân chủ của nhà nƣớc Cộng hoà La Mã thời kỳ trƣớc đến nay dần bị phai nhạt. Đây là bƣớc thụt lùi của văn minh La Mã. Tuy nhiên, chế độ quân chủ chuyên chế trung ƣơng tập quyền ở phƣơng Đông không thể thắng nổi nền dân chủ tiến bộ của phƣơng Tây. Giai cấp chủ nô chỉ tiếp thu những mặt tích cực trong hệ thống tổ chức nhà nƣớc phƣơng Đông vì họ thấy hợp với tham vọng của mình lúc đó, chứ không tiếp thu toàn bộ những đặc điểm chính trị của phƣơng Đông. Vua ở phƣơng Tây có quyền lực tối cao nhƣng không đƣợc cha truyền con nối và không đƣợc có nhiều vợ nhƣ vua chuyên chế phƣơng Đông. Không phải giai cấp chủ nô La Mã không muốn mà điều này không phù hợp với phong tục tập quán của ngƣời phƣơng Tây và Viện nguyên lão chi phối bộ máy chính quyền nên giai cấp chủ nô không dám coi thƣờng chế độ Cộng hoà và Viện nguyên lão. Nhƣ vậy, văn minh phƣơng Tây đã tiếp thu một cách có chọn lọc yếu tố văn minh tích cực của phƣơng Đông và loại bỏ những yếu tố không phù hợp với mình. 2. Kinh tế- xã hội Thông qua tiếp xúc, nhiều cây trồng của phƣơng Đông và phƣơng Tây đã đƣợc trao đổi cho nhau. Nho, dƣa chuột, dƣa hấu đƣợc chuyển từ Tây Vực- các nƣớc Trung Á, vào Trung Quốc. Trong tập “Bản thảo cương mục” của nhà y dƣợc Lý Thời Trân đời Minh có viết: “Trương Khiên đi xứ Tây Vực đem về trồng cây “hồ qua” (Dưa của người Hồ). Sau đổi thành hoàng qua” [6, tr.50]. Dƣa hấu đƣợc đƣa từ Tây Vực vào trồng phổ biến ở Trung Quốc. Ngoài ra, nho là sản phẩm nổi tiếng của phƣơng Tây cũng đƣợc truyền sang Trung Quốc, ngƣời Trung Quốc rất thích nho và coi đây là một loại hoa quả quý. Đồng thời, ngƣời Tây Vực cũng du nhập nhiều sản vật có ảnh hƣởng đến đời sống của nhân dân nhƣ nông cụ, cây ăn quả, rau chân vịt, hồ đào, thạch lựu, kiều mạch, chanh sau đó truyền sang các nƣớc Hy Lạp và La Mã. Qua các thƣơng nhân, những kĩ thuật trong sản xuất thủ công nghiệp và nông nghiệp cũng đƣợc phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. Nền văn minh thế giới cổ đại hình thành và phát triển trên lƣu vực các dòng sông lớn hoặc ven bờ Địa Trung Hải, nên cƣ dân thời cổ đại sớm biết đến nghề đóng thuyền. Kĩ thuật đóng thuyền của ngƣời Phênixi đạt trình độ cao nhất. Qua buôn bán, ngƣời Hy Lạp đã học kĩ thuật đóng thuyền của ngƣời Phênixi. Gỗ dùng để đóng thuyền lấy từ cây tuyết tùng nhập từ Lƣỡng Hà về. Họ đã đóng đƣợc những chiếc thuyền với hàng trăm mái chèo. Mặt khác, ngƣời Hy Lạp còn thiết kế thuyền cho phù hợp với nhiều chức năng khác nhau. Bình thƣờng, thuyền dùng để chuyên chở hàng hoá nhƣng khi có chiến tranh thì trở thành những thuyền chiến. Trung Quốc cũng là quốc gia đầu tiên biết sử dụng tiền để làm vật trao đổi buôn bán nhƣng ngƣời Hy Lạp mới là ngƣời biết đến kĩ thuật đúc tiền đầu tiên trên thế giới. Theo bƣớc chân chinh phục của Alêchxanđrơ đại đế, tiền đúc của Hy Lạp đƣợc trải rộng ra khắp vùng Địa Trung Hải. Ấn Độ đã học đƣợc kĩ thuật đúc tiền của Hy Lạp. Ngoài ra, kĩ thuật chế thuỷ tinh của ngƣời Ai Cập cũng nhanh chóng đƣợc ngƣời Hy Lạp tiếp thu. Về trang phục, ngƣời Hy Lạp quen mặc hàng len thô dệt bằng lông cừu. Khi Alêchxanđrơ Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 9 - 16 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên tiến quân sang xâm lƣợc Ấn Độ, ngƣời Hy Lạp đã vô cùng thán phục vải trắng dệt sợi bông của Ấn Độ. Một vị tƣớng của Alêchxanđrơ là Nearchus đã tả: “Họ mặc quần dài chấm gót, choàng tấm vải qua vai, một góc quấn trên đầu bằng một thứ vải sợi bông trắng chưa từng thấy ở bất cứ nơi đâu” [4, tr.98]. Ngƣời Hy Lạp đã nhanh chóng tiếp nhận loại vải bông này và mặc trang phục theo kiểu Ấn Độ. Sử gia Hêrôđốt viết “Vài thứ cây mọc hoang trong rừng. Không có trái mà lại có len, thứ len đó đẹp hơn, tốt hơn thứ len ở lông cừu. Người Ấn dùng cây đó để dệt áo” [4, tr.159]. Do cuộc chiến tranh xâm lƣợc vùng Cận Đông mà ngƣời La Mã biết đến loại “len” ở cây này: “Ở đó- Ấn Độ- người ta dệt thứ vải tuyệt vời không thấy ở đâu trên thế giới, mịn và nhẹ đến mức có thể cuốn lại cho luồn qua một chiếc vòng nhỏ” [4, tr.159]. Vải lụa của Ấn Độ đƣợc truyền sang phƣơng Tây làm cho cƣ dân ở đây vô cùng thích thú, nhất là những chiếc khăn soan mỏng, mịn, nhẹ và lộng lẫy. Các ngôn ngữ châu Âu chỉ bông và các loại vải lụa, phần lớn đều có nguồn gốc từ ngữ âm Ấn Độ. Thông qua buôn bán, những sản phẩm tơ lụa đặc sắc của Trung Quốc đã đƣợc mang đến bán cho ngƣời Tây Á, đặc biệt là ở La Mã. Thời kỳ đầu, những bậc đế vƣơng và những nhà quý tộc Rôma thích tơ lụa Trung Quốc đến mức họ cân lụa lên và đổi chỗ lụa đó bằng vàng với cân nặng tƣơng đƣơng. Tƣơng truyền, một vị hoàng đế Rôma lần đầu tiên mặc bộ quần áo tơ lụa Trung Quốc đi xem hát gây chấn động khắp kinh thành Rôma. Vua Xêda (100 TCN) thƣờng mặc áo tơ lụa Trung Quốc trong những dịp thiết triều hoặc tiếp sứ giả nƣớc ngoài. Còn Nữ hoàng Ai Cập Clêôpatra lúc đó chỉ diện váy lụa Trung Quốc. Quần áo của họ có hoạ tiết trang trí với màu sắc tƣơi sáng và chất liệu vải bền đẹp. Về sau mọi tầng lớp trong xã hội phƣơng Tây đều sử dụng lụa Trung Quốc để may váy áo, trang phục. Nhƣ vậy, qua tiếp xúc với ngƣời phƣơng Đông, ngƣời phƣơng Tây đã tiếp thu cách ăn mặc của ngƣời phƣơng Đông. Về ẩm thực, trƣớc kia, ngƣời phƣơng Tây ăn uống rất đơn giản và không biết sử dụng các gia vị. Bánh mì, lƣơng khô đƣợc làm từ lúa mì, lúa đại mạch hoặc lúa mạch đen và cá là lƣơng thực cơ bản của họ. Thực phẩm rất ít loại, chủ yếu đƣợc ƣớp muối. Trƣớc đây, cách duy nhất để làm cho thực phẩm trở nên ngọt là dùng mật ong. Qua tiếp xúc với ngƣời phƣơng Đông, cƣ dân vùng Điạ Trung Hải đã biết cách chế biến nhiều món ăn ngon và biết đến gia vị của họ. Điều đó đã làm thay đổi căn bản văn hoá ẩm thực của vùng Địa Trung Hải. Họ không những có một nguồn lƣơng thực phong phú đủ loại mà còn biết sử dụng các gia vị của phƣơng Đông vào việc chế biến món ăn. Gia vị làm các món ăn trở nên cầu kì hơn, đậm đà và hấp dẫn hơn. Điều này có thể lí giải vì sao từ thời cổ đại về sau ngƣời phƣơng Tây luôn tìm mọi cách sang buôn bán ở phƣơng Đông- xứ sở của hƣơng liệu, gia vị. Nhƣ vậy, tiếp xúc và giao lƣu văn minh thời cổ đại là một trong những nhân tố thúc đẩy tình hình kinh tế chính trị, xã hội của các quốc gia trên toàn thế giới phát triển ngày một đa dạng và phong phú hơn. Mặt khác, các thành tựu văn hóa cũng có ảnh hƣởng rất lớn đến văn hóa của các quốc gia khác trên thế giới. 3. Văn hóa Về chữ viết, mọi cộng đồng ngƣời trong thế giới cổ đại nói chung đều biết dùng hình vẽ để biểu đạt thông tin. Đây là cơ sở để họ tiến tới sáng tạo ra chữ viết. Lƣỡng Hà, Ai Cập, Trung Quốc, Ấn Độ cổ đại đƣợc coi là chốn sinh thành và phát triển của hệ thống chữ viết đầu tiên của loài ngƣời. Chữ viết của các quốc gia cổ đại phƣơng Đông chủ yếu là chữ tƣợng hình, chƣa có sự khái quát cao. Ngƣời Phênixi ở Tây Á đã mở rộng buôn bán với tất cả các khu vực trên thế giới trong đó có Lƣỡng Hà và Ai Cập. Họ đã biết dùng chữ tƣợng hình của ngƣời Ai Cập và chữ hình góc của ngƣời Lƣỡng Hà. Nhƣng do yêu cầu của việc giao dịch quốc tế, của sự phát triển ngành thƣơng mại, ngƣời Phênixi đã cải tiến chữ viết cho đơn giản và thuận tiện hơn. Hệ thống chữ cái a, b, c đã đƣợc phát minh trên cơ sở chữ viết Ai Cập vào khoảng thế kỷ XIV TCN. Loại mẫu Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 9 - 16 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên tự này có khoảng 30 ký tự nhƣng nhiều âm khác nhau, có thể đƣợc biểu thị bằng một vài ký hiệu. Tính chính xác và đa dạng của chúng khiến loại chữ này dễ nắm bắt hơn những loại chữ hình nêm. Trong khi đó, ngƣời Hy Lạp vẫn ở trong tình trạng mù chữ. Thật may mắn cho văn minh phƣơng Tây khi việc buôn bán đã đƣa ngƣời Hy Lạp tiếp xúc với ngƣời Phênixi. Họ đã tiếp thu bảng chữ cái của ngƣời Phênixi và đem lại sự chính xác hơn cho loại chữ này bằng cách thay đổi một số ký tự hoàn toàn là phụ âm thành nguyên âm. Bảng chữ cái của ngƣời Hy Lạp đã phát triển thành hai phiên bản. Một phiên bản Tây sau đó đến với ngƣời Etơruxcơ- những ngƣời sau này cai quản La Mã. Về sau, ngƣời dân La Mã đã biến nó thành mẫu tự đƣợc sử dụng khắp thế giới phƣơng Tây. Phiên bản phƣơng Đông đã trở thành bảng chữ cái chuẩn ở chính sứ Hy Lạp. Nhờ hệ thống mẫu tự này, ngƣời Hy Lạp đã để lại cho hậu thế một di sản văn hóa vô cùng phong phú, nhất là trong lĩnh vực văn học. Nhƣ vậy, đa phần thế giới ngày nay sử dụng nguồn này hay nguồn khác của bảng chữ cái Phênixi theo dạng mà nó tiếp nhận của ngƣời Ai Cập và Lƣỡng Hà. Về khoa học kỹ thuật Phƣơng Đông đƣợc coi là nôi của nền khoa học thời cổ đại. Nơi đây là nơi phát tích rất nhiều những thành tựu khoa học đặc sắc có giá trị đến ngày nay. Tuy ra đời ở phƣơng Đông, những thành tựu này lại phát triển rực rỡ ở phƣơng Tây. Bởi trong quá trình tiếp xúc với phƣơng Đông, phƣơng Tây đã học tập và tiếp thu những thành tựu này và không ngừng phát triển lên một tầm cao mới. Về thiên văn và lịch pháp, dựa vào sự quan sát thiên văn, ngƣời phƣơng Đông đã biết làm ra lịch, sớm nhất là ngƣời Ai Cập. Cũng giống nhƣ các quốc gia cổ đại phƣơng Đông khác, ban đầu ngƣời Ai Cập đặt ra một niên lịch chia thời gian thành năm âm lịch, mỗi năm có 364 ngày, chia thành 12 tháng. Khi cầm quyền ở La Mã, Xêda đã biết đến loại lịch này và cho đây là “niên lịch vĩ đại và thông minh nhất thế giới”. Do đó, sau khi ở Ai Cập về, năm 45 TCN, Xêda đã mời nhà toán học và thiên văn học Ai Cập Xôđigien dựa vào lịch Ai Cập để cải cách lịch của La Mã bởi một phép làm lịch của nhà nƣớc trƣớc đó đã bị quan lại La Mã thao túng có nhiều tiêu cực. Lịch mới của La Mã mang tên Xêda gọi là lịch Julien, đƣợc sử dụng phổ biến ở phƣơng Tây từ năm 45 TCN đến năm 1582 sau CN. Phép lịch này lấy một năm có 365 ngày ¼, cứ 4 năm lại có một năm nhuận, các tháng lẻ có 31 ngày, tháng chẵn có 30 ngày. Tháng hai của năm không nhuận có 28 ngày, năm nhuận có 29 ngày. Nhƣ vậy, lịch của ngƣời La Mã có sự tiếp thu lịch Ai Cập cơ bản hoàn thiện nhƣ lịch ngày nay. Về toán học, phƣơng Đông đƣợc coi là cái nôi của nền toán học cổ đại. Trung tâm toán học lớn nhất thời cổ đại là thƣ viện Alêchxanđrơ và Viện hàn lâm khoa học. Nơi đây tập trung tất cả các nhà khoa học từ Hy Lạp, La Mã đến học tập, trong đó có một số nhà toán học nổi tiếng nhƣ Pytago, Ơclít, Talét, Acsimet Họ tiếp thu những thành tựu toán học của phƣơng Đông và vƣợt qua cách tính nhân chia, cộng trừ sơ cấp, vƣơn tới sự khái quát thành những định lí, định đề, nguyên lí vẫn đƣợc sử dụng trong toán học hiện đại: Định lý Pytago, định lý Talét, định đề Ơclít, định luật Acsimet Ngƣời Ai Cập dùng hình học để đo đạc lại đất đai của nhà nông sau những con lũ hàng năm do sông Nil gây ra. Các nƣớc gọi môn hình học là Gieometri- tiếng Hy Lạp có nghĩa là sự đo đạc đất đai. Ơclít sau một thời gian du lịch ở đây đã học tập những kiến thức hình học này, sắp xếp và tổ chức lại hình học thành một môn học quy củ. Ông cũng đơn giản hóa và sắp xếp lại các tác phẩm riêng lẻ của các bậc tiền bối, hệ thống các định lý và chứng minh nó thành một chuỗi logic. Trong đó nổi bật nhất là định đề về tỷ lệ thức giữa các cạnh của tam giác. Sự liên hệ giữa các cạnh của tam giác vuông đã đƣợc nêu trƣớc Pytago khoảng 1000 năm vào thời cổ Babilon nhƣng Pytago là ngƣời đầu tiên chứng minh công thức đó và phát triển nó thành một định lý nổi tiếng mang tên ông: “Trong tam Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 9 - 16 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên giác vuông, bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông”. Đây là chìa khóa để xây dựng nhiều định lý trong hình học có ý nghĩa vô cùng to lớn tới ngày nay. Nhờ định lý này, ta tìm đƣợc nhiều hệ thức lƣợng trong các hình. Việc tính các cạnh của tam giác thƣờng, chiều cao, trung tuyến của tam giác, đƣờng chéo của hình bình hành đều dựa vào định lý Pytago. Ngƣời Ấn Độ đã biết tới và sử dụng hệ thập phân ngay từ đầu công nguyên. Hệ số 10 chữ số trong đó có một số đƣợc khắc trên cột đá dƣới triều vua Asôka là phát minh vĩ đại của ngƣời Ấn Độ, có tác dụng rất lớn tới toán học thế giới cổ đại. Một nhà toán học châu Âu sau này đã đánh giá cao giá trị của phát minh rằng “Chính nhờ Ấn Độ mà chúng ta học được cái cách tài tình chỉ dùng có 10 chữ số mà viết đủ các số. Mỗi chữ số vừa có một trị số tùy theo vị trí của nó, vừa có một trị số tuyệt đối. Ý đồ tế nhị mà quan trọng. Ngày nay chúng ta cho đó là bình thường nên không thấy hết công lao của người Ấn. Nhưng chính nhờ nó đơn giản mà làm toán mới dễ dàng và hệ thống số học đó là sáng kiến vĩ đại nhất. Hai nhà bác học thiên tài của phương Tây thời cổ đại Acsimet và Apôlôniut mà cũng không tìm ra được hệ thống đó thì mới nhận định nổi sáng kiến của người Ấn tài tình ra sao”[5, tr. 83]. Các kiến thức toán học khác của phƣơng Đông nhƣ: Số căn, số âm, các quy tắc về hoán vị, tổ hợp, số pi = 3,1416 cũng đƣợc các nhà khoa học phƣơng Tây tiếp thu và truyền sang phƣơng Tây bằng nhiều con đƣờng khác nhau. Đóng góp vĩ đại của các nhà toán học phƣơng Tây là đã tiếp thu các thành tựu toán học phƣơng Đông rồi không ngừng phát triển lên làm cho “Toán học trở thành nền tảng của nhiều ngành khoa học khác”. Về hóa học, thời cổ đại, nền hóa học của Ai Cập vô cùng phát triển. Nghệ thuật ƣớp xác là một bằng chứng nói lên trình độ cao của nghề thủ công hóa học Ai Cập. Đặc biệt chính ở khu vực châu thổ sông Nil này đã xuất hiện mầm mống đầu tiên của thứ “Nghệ thuật bí mật thiêng liêng” nhằm biến đổi kim loại không quý thành vàng, chế tạo ngọc giả, chế tạo thuốc trƣờng sinh. Những điều ghi chép của họ dƣới hình thức thần bí, đôi khi lọt ra ngoài và đã có tác dụng kích thích các thế hệ bác học nƣớc Hy Lạp cổ sau này tiếp tục tìm kiếm với một quy mô rộng lớn hơn nhiều. Sau khi Alêchxanđrơ Makêđônia chiếm Ai Cập thì những kiến thức về “Nghệ thuật bí mật” mà các giáo sĩ nhà thờ Odirít và nhà thờ Iziđa đã tích lũy và giữ kín đƣợc hòa hợp với triết học và kỹ thuật thủ công Hy Lạp. Lúc đó, trình độ khoa học chƣa đủ để xác định vàng thật, vàng giả nên “Nghệ thuật bí mật” của các giáo sỹ Ai Cập đƣợc các nhà bác học Hy Lạp coi nhƣ một khoa học chân chính và chẳng bao lâu đƣợc phổ biến rộng rãi ở khắp miền đất Hy Lạp rồi truyền sang các nƣớc khác ở vùng Địa Trung Hải. Ngƣời Hy Lạp đã học đƣợc nghề nhuộm và các loại thuốc nhuộm của Ai Cập. Ngoài thuốc nhuộm vô cơ của Ai Cập, ngƣời Hy Lạp còn dùng nhiều loại thuốc nhuộm thiên nhiên có màu đỏ tƣơi. Công thức nhuộm và cách nhuộm đã đƣợc mô tả trong các tập sách viết ở giai đoạn viện hàn lâm khoa học Alechxanđrơ. Về nghệ thuật Nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cũng ảnh hƣởng rõ rệt với nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp thời mới ra đời. Hình tƣợng thanh niên Kouros độc đáo của nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cổ xƣa bắt nguồn từ Ai Cập: Chàng trai thân thẳng, cao dong dỏng, ở tƣ thế đứng, chân trái đƣa lên trƣớc, hai cánh tay áp sát vào thân, bàn tay nắm lại. Những pho tƣợng kiểu này không những mô phỏng dáng điệu của nhân vật Ai Cập mà còn tôn trọng các quy tắc cổ truyền của nghệ thuật Ai Cập, nhất là “Nguyên lý tỷ lệ” mà những ngƣời sáng tạo đã áp dụng từ hơn hai trăm năm trƣớc công nguyên. Họ chia cơ thể thành 8 hình vuông bằng nhau, từ vƣơng triều XVI trở đi thì đƣợc chia làm 21 hình vuông khi mà đơn vị đo độ dài là cubit đƣợc thay đổi. Phiđiát và Pôlinhốt, hai nhà điêu khắc Hy Lạp nổi tiếng, đã xuất phát từ truyền thống đó để tạc pho tƣợng Apollon, chia cơ thể làm 21,1/4 hình vuông [1, tr.607 ]. Họ xem điêu khắc tả hình thể con ngƣời nhƣ một bản hợp xƣớng các giai Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 9 - 16 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên điệu phải đối xứng nhau. Mọi quy luật về cân bằng trong một bức tƣợng phải đƣợc tôn trọng nhƣ các module trong kiến trúc mà nhà kiến trúc sƣ nào cũng phải tuân thủ. Ông để lại cho đời sau một lời khuyên răn mẫu mực về “nguyên lí tỷ lệ” và nét đẹp trong điêu khắc. Cuộc chinh phạt của Alêchxanđrơ sang Ấn Độ đã đƣa nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp xâm nhập vào Ấn Độ. Dƣới thời Asôka, một trƣờng phái điêu khắc xuất hiện ở miền Bắc Ấn Độ mang chút khuynh hƣớng của điêu khắc Hy Lạp. Do vậy, các bức tƣợng với chủ đề tôn giáo và thần học không thuần khiết dáng vẻ Ấn nữa. Tƣợng Đức Phật tổ Nhƣ Lai có dáng hình và nét mặt giống thần Apôlông và có vẻ đang muốn leo lên đỉnh núi Ôlempơ ở Hy Lạp. Những tƣợng khắc dẫu vẫn là chủ đề Phật giáo nhƣng nét đục đẽo, chạm khắc dáng hình đã có vẻ lí tƣởng hoá và thế tục hoá. Các tƣợng thần thánh Ấn Độ khác cũng đƣợc thể hiện với những khăn áo lƣớt thƣớt giống nhƣ các tƣợng trong đền thờ Hy Lạp. Nhƣng phát triển đƣợc mấy thế kỉ, trƣờng phái này mất hẳn và nền điêu khắc trở lại thuần tuý Ấn Độ. Về kiến trúc, từ thời cổ đại, kiến trúc của hai nền văn minh Đông- Tây cũng có sự ảnh hƣởng, giao thoa với nhau. Ngƣời phƣơng Tây đạt đến trình độ mẫu mực trong nghệ thuật quy hoạch đô thị. Trong thời kỳ Hy Lạp hóa, nền văn minh Hy Lạp đƣợc phổ biến và truyền bá mạnh mẽ sang phƣơng Đông. Các thành thị ở phƣơng Đông đƣợc trang bị lộng lẫy. Những ngôi đền, nhà hát, sân vận động và những công thự khác lần đầu đƣợc xây dựng ở đây với lối kiến trúc độc đáo. Pergaman- một điển hình của việc quy hoạch đô thị, có một bàn thờ thần Dớt, một thƣ viện nổi tiếng và một nhà hát cao hơn thành phố chính với một quang cảnh hùng vĩ. Tại các đô thị này, đời sống tinh thần của ngƣời dân phƣơng Đông ngày càng phong phú và sinh động hơn. Ngƣợc lại, ngƣời La Mã cũng đã xây dựng những Khải hoàn môn giống nhƣ cổng thành Isơta ở Lƣỡng Hà. Đây là những công trình kiến trúc đặc sắc nhằm ca ngợi những công lao to lớn, những chiến thắng vĩ đại của Hoàng đế. Ở La Mã có khoảng hơn 300 Khải hoàn môn đƣợc xây dựng mà đẹp nhất, tiêu biểu nhất là Khải hoàn môn Traian. Trên các khải hoàn môn có trang trí các hình chạm khắc nổi rất đẹp. Những khải hoàn môn này vẫn còn tồn tại đến ngày nay nhƣ những chứng tích lịch sử của sự giao lƣu văn hóa Đông- Tây. Tôn giáo- tín ngưỡng Trong giai đoạn giao thời trƣớc và sau công nguyên, các tôn giáo với thần thánh nảy sinh và tồn tại khá nhiều hình thức tế tự khác nhau. Nghi lễ tôn giáo của La Mã ảnh hƣởng nhiều đến các tỉnh và ngƣợc lại việc thờ cúng của các tôn giáo phƣơng Đông cũng ảnh hƣởng rất sâu sắc ở La Mã. Tôn giáo địa phƣơng ảnh hƣởng nhiều nhất là đạo Kitô. Đây là tôn giáo mà ngƣời La Mã sáng lập trên cơ sở học tập, tiếp thu từ giáo lí đạo Do Thái ở phƣơng Đông. Đạo Kitô ra đời ở Palextin, do một số ngƣời Do Thái và một số dân tộc bị đế quốc La Mã thống trị ở quanh vùng đó xây dựng nên. Đạo Do Thái là tôn giáo của một dân tộc bị áp bức nặng nề nhất và cùng khổ nhất, phù hợp với nguyện vọng của các dân tộc bị áp bức ở Palextin. Nhƣng đạo Do Thái là tôn giáo của riêng ngƣời Do Thái, không tiếp nhận tín đồ của các dân tộc khác. Vì thế, những ngƣời đại diện của các dân tộc không phải Do Thái đã dựa trên đạo Do Thái để xây dựng nên một tôn giáo mới gọi tên là đạo Kitô. Họ tin tƣởng vào sự xuất hiện của Chúa cứu thế, trong đó có giáo phái coi Chúa cứu thế đó là Giêxu Crít và đƣợc gọi là đạo Kitô Christianism- từ Christos có nghĩa là Đấng cứu thế. Nhƣ vậy, đạo Kitô ra đời trong lòng đạo Do Thái từ thế kỉ I, nhƣng có một điểm khác so với đạo Do Thái. Đạo Kitô cũng là nhất thần giáo nhƣng một thần đó lại là Tam vị nhất thể (Chúa cha (tạo dựng), Chúa con (cứu vớt) và Thánh thần (thánh hóa)). Trong đó Giêxu Crít là chúa con, đƣợc đƣa xuống trần gian để chịu đựng những đau khổ thay cho con ngƣời và để cứu vớt con ngƣời. Đạo Kitô không phải là tôn giáo của một dân tộc mà là một tôn giáo thế giới của tất cả mọi ngƣời. Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 9 - 16 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Đạo Kitô không chỉ tiếp thu có chọn lọc một số tín ngƣỡng của đạo Do Thái mà còn tiếp thu nhiều lễ nghi tôn giáo của phƣơng Đông cổ. Chẳng hạn: lễ phục sinh vốn là ngày lễ mùa xuân cổ ở Palextin đƣợc các tín đồ Kitô giáo kết hợp với những lễ cúng của thần thực vật; “lễ ăn bánh thánh” cũng bắt chƣớc hình thức lễ thần Mitra ở Ba Tƣ trong đó ngƣời “ăn thịt và máu” của thần để đƣợc gần thần, đồng nhất với thần; “lễ rửa tội” có liên hệ với sự mê tín ở sức mạnh phù phép của nƣớc, có thể làm cho ngƣời ta tƣơi tỉnh và rửa sạch khỏi tội lỗi, việc tƣới nƣớc lạnh vào ngƣời và việc tắm theo nghi lễ đã phổ biến trong các tôn giáo cổ. Nếu chỉ tiếp thu đạo Do Thái và các tôn giáo phƣơng Đông khác thì đạo Kitô cũng chỉ lôi kéo đƣợc các dân tộc ở phƣơng Đông khác và những ngƣời nô lệ ở La Mã tin theo chứ chƣa hấp dẫn giai cấp chủ nô La Mã. Dần dần, những tƣ tƣởng triết học duy tâm khắc kỉ của Sênecơ, Philô cũng đƣợc phổ biến rộng rãi ở đế quốc La Mã, đã tạo nên cơ sở, tƣ tƣởng, lí luận của giáo lí Kitô giáo. Ph.Enghen đã nhận xét: “Sự hỗn hợp của thần đạo phương Đông đã được phổ biến hoá, nhất là thần học Do Thái, với nền hiền triết Hy Lạp đã được dung tục hoá, nhất là triết học khắc kỉ- đã góp phần tạo nên học thuyết Kitô giáo”[5, tr.244]. KẾT LUẬN Sự tiếp xúc và giao lƣu văn minh Đông- Tây thời cổ đại đặt cơ sở cho sự tiếp xúc và giao lƣu văn minh của nhân loại trong các thời kì tiếp theo. Quá trình này diễn ra lâu dài khiến ta khó có thể phân biệt rạch ròi: ai chính là chủ nhân duy nhất của các thành tựu văn hóa đó. Việc phân biệt văn minh phƣơng Đông và văn minh phƣơng Tây chỉ là tƣơng đối. Điều này đã bác bỏ hoàn toàn quan điểm của một số sử gia phƣơng Tây cho rằng phƣơng Tây là văn minh tiến bộ, phƣơng Đông là lạc hậu, dã man. Văn minh phƣơng Tây thời cổ đại xuất hiện muộn hơn văn minh phƣơng Đông vài thế kỷ nhƣng lại phát triển rực rỡ và nhanh chóng một phần dựa trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của văn minh phƣơng Đông. Con ngƣời này càng văn minh thì quá trình tiếp xúc và giao lƣu ngày càng đƣợc rút ngắn về khoảng cách, nhất là trong xu thế toàn cầu hiện nay. Vấn đề hội nhập với nền văn minh nhân loại để phát triển đã trở thành vấn đề sống còn của các quốc gia chậm phát triển trong đó có Việt Nam. Không hội nhập nhanh với trình độ phát triển của thế giới thì không thể phát triển, nhƣng hội nhập mà “hoà tan”, đánh mất mình cũng là một nguy cơ lớn. Bản lĩnh của một nền văn minh trƣớc ngƣỡng cửa hội nhập hiện nay đƣợc thử thách hơn bao giờ hết. Chúng ta cần chủ động tìm hiểu sự đa dạng về văn hóa của các dân tộc khác, tiếp thu những giá trị văn minh chung của nhân loại để góp phần vào mục tiêu dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh và bảo vệ, phát huy những tinh hoa của văn hóa dân tộc. Làm sao để vừa hội nhập, phát triển mà vẫn giữ gìn đƣợc bản sắc văn hoá phƣơng Đông, phát huy những nét đẹp về đạo lí dân tộc trong quan hệ gia đình xã hội, trong nếp sống lành mạnh giản dị, trong nghĩa vụ đối với Tổ quốc và đồng bào chính là bài học sâu sắc rút ra từ việc nghiên cứu quá trình tiếp xúc và giao lƣu giữa các nền văn minh trong lịch sử nhân loại. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Almanach những nền văn minh thế giới (2006), Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. [2]. Arnold Toynbee (2002), Nghiên cứu về lịch sử- Một cách thức diễn giải, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [3]. Nguyễn Quốc Hùng (1993), Những nền văn minh rực rỡ cổ xưa, Tập I, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. [4]. Lƣơng Ninh (chủ biên) (2005), Lịch sử thế giới cổ đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [5]. Vũ Dƣơng Ninh (chủ biên, 2000), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [6]. Ngô Minh Oanh (2005), Tiếp xúc và giao lưu văn minh trong lịch sử nhân loại, Nxb Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 9 - 16 16 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên SUMMARY THE CONTACT AND EXCHANGE CIVILIZATION IN ANCIENT TIMES Duong Thi Huyen * College of Sciences - TNU The contact and exchange of civilization is receipt factors outside civilization of the subject people by paths and different ways. Each ethnic has unique achievements of their civilization, contributes excellent achievements to human civilization, simultaneous also acquiring, inheriting the quintessences of other civilization, enriches civilization of their ethnic. The process of contact and exchange civilization took place in broad and deep worldwide, within each region, regardless of big or small civilization. In which, the most thoroughly and typical is the process of contact and exchange between cultures, civilization in the East and the West. This process occured most evidient in ancient times, created the diverse, abundant civilizations, became herritage of human civilization. Key words: culture, civilization, contact and exchange civilization * Tel: 0975702362; Email: duonghuyen.sudhkh@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_32405_35859_382012152249sutiepxucvagiaoluuvanminh_1894_2052774.pdf