3.2. Giai đoạn II (Giai đoạn phát triển)
Về hình thái: Noãn sào màu trắng đục với
một mạch máu lớn có những nhánh nhỏ phân
bố dọc theo hai nhánh của buồng trứng. Bên
ngoài noãn sào thường có nhiều mô mỡ bám
xung quanh. Quan sát noãn sào có thể thấy
các hạt trứng có màu trắng đục.
Về tổ chức học: Noãn bào ở pha 2 (pha
tiền ngoại vi nhân) và pha 3 (pha ngoại vi
nhân) thuộc thời kỳ sinh trưởng nguyên sinh
chất chiếm tỷ lệ cao trong noãn sào ở giai đoạn
II (hình 2B). Nang trứng (màng follicle) hình
thành và bao xung quanh noãn bào. Trong
buồng trứng cũng xuất hiện những noãn bào
đã kết thúc sinh trưởng nguyên sinh chất (cuối
pha 3), kích thước của chúng đã lớn đến mức
có thể quan sát bằng mắt thường hoặc dưới
kính lúp. Ngoài ra, buồng trứng còn có noãn
nguyên bào và những noãn nguyên bào đang
ở những pha đầu tiên của thời kỳ sinh trưởng
nguyên sinh chất, chúng là nguồn dự trữ.
3.3. Giai đoạn III (Giai đoạn tích lũy noãn
hoàng)
Về hình thái: Buồng trứng cũng như các
hạt trứng có sự tăng mạnh về kích thước và
khối lượng. Hạt trứng có màu trắng đục và
dính với nhau. Buồng trứng căng phồng, mạch
máu phát triển dày, bao quanh buồng trứng.
Giai đoạn này là giai đoạn kéo dài nhất trong
quá trình phát triển của tuyến sinh dục.
Về tổ chức học: Noãn bào ở pha không
bào hóa, chuẩn bị bước vào thời kỳ tích lũy
chất noãn hoàng xuất hiện trong noãn sào.
Quá trình tích lũy noãn hoàng được đánh dấu
bởi sự xuất hiện của các hạt noãn hoàng trong
nguyên sinh chất của noãn bào. Noãn sào ở
giai đoạn này chứa nhiều noãn bào ở các pha
khác nhau từ pha tiền ngoại vi nhân đến pha
thể noãn hoàng thứ 3 (hoàn tất quá trình tích
lũy noãn hoàng) (hình 2C).
3.4. Giai đoạn IV (Giai đoạn thành thục)
Về hình thái: Noãn sào đạt kích thước tối
đa, màu vàng đậm. Sự liên kết giữa các noãn
bào trong buồng trứng trở nên lỏng lẻo. Giai
đoạn IV xảy ra rất ngắn.
Về tổ chức học: Noãn sào xuất hiện các
noãn bào ở pha 6 (pha thành thục) có nhân
bắt đầu di chuyển về một cực – cực động vật,
noãn hoàng bị dồn về một cực- cực thực vật.
Cuối giai đoạn IV, noãn bào có sự phân cực
rõ rệt, màng nhân tiêu biến. Ngoài ra, buồng
trứng vẫn có các noãn bào ở pha 1, 2, 3, 4, 5
(hình 2D).
3.5. Giai đoạn V (Giai đoạn cá cái đẻ trứng)
Về hình thái: Hai nhánh của noãn sào chiếm
thể tích lớn trong xoang cơ thể. Noãn sào mềm
và động tác vuốt nhẹ ở bụng cá có thể làm trứng
chảy ra ngoài. Đây là giai đoạn cá cái tham gia
vào quá trình đẻ trứng với các trứng đã thành
thục và rụng sẽ được phóng ra ngoài.
Về tổ chức học: Nang trứng mỏng dần do
sự tăng lên của khối noãn hoàng và tách ra
khỏi noãn bào làm cho trứng rụng vào xoang
buồng trứng. Bên trong noãn sào vẫn có các
noãn bào ở giai đoạn còn non bên cạnh noãn
bào thành thục (hình 2E).
3.6. Giai đoạn VI (Giai đoạn ngay sau khi cá
cái sinh sản)
Về hình thái: Noãn sào mềm và nhão với
mỗi nhánh của noãn sào xuất hiện một khoang
rỗng, đó là phần thể tích buồng trứng của các
trứng chín đã được đẻ ra.
Về tổ chức học: Trong buồng trứng còn lại
các nang trứng của những trứng rụng và được
đẻ ra ngoài, các noãn bào ở pha 1, 2, 3. Các
trứng đã thành thục nhưng không được đẻ sẽ
bị thoái hóa và tái hấp thụ lại cơ thể (Hình 2F).
Các loài cá sinh sản 1 lần trong năm, sau khi đẻ
buồng trứng quay lại giai đoạn II, riêng loài này,
sau khi đẻ, buồng trứng trở lại giai đoạn III sau
khi đã tái hấp thụ hết các sản phẩm sinh dục.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
(i) Sự xuất hiện noãn sào ở giai đoạn tích
lũy noãn hoàng (III), thành thục (IV), tham gia
đẻ trứng (V), và giai đoạn sau khi cá đẻ (VI) từ
tháng 3 đến tháng 10 cho thấy đây là mùa vụ
sinh sản của cá chẽm mõm nhọn trong điều
kiện nuôi nhốt.
(ii) Noãn bào trải qua các pha phát triển
khác nhau và tổ chức học của noãn sào thay
đổi qua các giai đoạn phát triển trong chu kỳ
sinh sản cho thấy đây là loài đẻ nhiều lần trong
năm. Sự xuất hiện đồng thời các noãn bào có
các pha phát triển khác nhau trong noãn sào
cho thấy đây là loài có buồng trứng kiểu không
đồng bộ.
2. Kiến nghị
Các nghiên cứu về tổ chức học của noãn sào
trên các loài cá nước ta chưa có sự thống nhất
trong việc sử dụng các bậc thang để mô tả sự
phát triển. Vì vậy, việc thực hiện các nghiên cứu
về tổ chức học của noãn sào và sự phát triển của
noãn bào trên một số loài cá biển nuôi ở nước ta
là cần thiết nhằm xây dựng bậc thang phân chia
các giai đoạn phát triển của noãn sào, và tuyến
sinh dục cá nói chung một cách thống nhất.
7 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 549 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự phát triển noãn sào trong mùa sinh sản của cá chẽm mõm nhọn – Psammoperca waigiensis (Cuvier, 1828) - Lê Hoàng Thị Mỹ Dung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 27
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
SỰ PHÁT TRIỂN NOÃN SÀO TRONG MÙA SINH SẢN CỦA CÁ CHẼM
MÕM NHỌN – Psammoperca waigiensis (Cuvier, 1828)
DEVELOPMENTAL STAGES OF OVARIES DURING SPAWNING SEASON
OF WAIGIEU SEAPERCH – Psammoperca waigiensis (Cuvier 1828)
Lê Hoàng Thị Mỹ Dung1, Phạm Quốc Hùng2
Ngày nhận bài: 19/3/2015; Ngày phản biện thông qua: 15/6/2015; Ngày duyệt đăng: 15/12/2015
TÓM TẮT
Sự thay đổi tổ chức học noãn sào và noãn bào trong chu kỳ sinh sản cá chẽm mõm nhọn được tiến hành
trên đàn cá cái 3+ tuổi, được nuôi trong ao đất tại Khánh Hòa. Noãn sào được thu thập hằng tháng, cố định
trong dung Bouin và được dùng làm tiêu bản tổ chức học để quan sát các giai đoạn phát triển noãn sàotrong
chu kỳ 12 tháng. Nghiên cứu cho thấy noãn bào trải các thời kỳ sinh trưởng nguyên sinh chất, tích lũy noãn
hoàng, thành thục và được chia thành 6 pha. Sự phát triển noãn sào được chia thành 6 giai đoạn dựa vào sự
xuất hiện của các noãn bào ở các pha phát triển. Trong noãn sào xuất hiện nhiều noãn bào ở các pha khác
nhau chứng tỏ đây loài có noãn sào kiểu không đồng bộ và đẻ nhiều lần trong năm. Sự xuất hiện noãn sào ở
giai đoạn tích lũy noãn hoàng, thành thục, và tham gia đẻ trứng cho thấy mùa sinh sản của loài cá này kéo dài
từ tháng 3 đến 10 trong điều kiện nuôi nhốt.
Từ khóa: mùa sinh sản, noãn sào, noãn bào, cá chẽm mõm nhọn, Psammoperca waigiensis
ABSTRACT
Studies on the development of oocytes and ovaries and the seasonal change of gonadal histology were
carried out on 3+ aged Waigieu seaperch captured in sand pond in Khanh Hoa province. Ovaries were monthly
collected, fi xed in Bouin solution, and then analyzed by histological method for investigation of ovarian
development. The development of oocytes including primary growth, vitellogenesis and maturation was
divided into 6 phases. Based on the dynamics of oocytes, the development of ovary was defi ned 6 stages. The
distribution of variant oocytes in different ovarian stages show that Waigieu seaperch have asynchronous
ovaries and are a multiple spawner. Ovaries at vitellogenic, matured, spawning stages were found from March
to October suggest this time is Waigieu seaperch’s reproductive season in captured condition.
Keywords: Spawning season, ovary, oocyte, Waigieu seaperch, Psammoperca waigiensis
1 ThS. Lê Hoàng Thị Mỹ Dung, 2 TS. Phạm Quốc Hùng: Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dựa vào sự biến đổi tổ chức học, tuyến
sinh dục cái ở cá xương được chia thành 3
kiểu bao gồm kiểu đồng bộ (synchronous),
kiểu đồng bộ theo nhóm (group- synchronous)
và kiểu không đồng bộ (asynchronous) [8, 11].
Noãn sào thuộc kiểu không đồng bộ bao gồm
noãn bào ở nhiều giai đoạn phát triển khác
nhau trong cùng thời điểm [8] và thường bắt
gặp ở các loài cá nhiệt đới [2]. Cả nghiên
cứu sinh học sinh sản lẫn hoạt động sản
xuất giống nhân tạo cá xương đều đòi hỏi sự
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
28 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
hiểu biết về quá trình phát triển của tuyến
sinh dục trên từng cá thể [12], đặc biệt là
cá thể cái do sự phức tạp trong tổ chức học
cũng như khó khăn trong việc kích thích sinh
sản [1, 10]. Có rất nhiều tác giả đưa ra các
bậc thang phát triển noãn sào cho các loài cá
có tập tính sinh sản khác nhau phụ thuộc vào
kiểu noãn sào của chúng [5, 12]. Nhìn chung,
các bậc thang đều được xây dựng dựa trên
sự thay đổi về hình thái bên ngoài và đặc biệt
là tổ chức bên trong liên quan đến sự xuất
hiện và phát triển của noãn bào. Sự phát
triển noãn sào trải qua các giai đoạn bao
gồm giai đoạn chưa thành thục, phát triển,
thành thục, tham gia sinh sản, và sau khi
tham gia sinh sản [6, 7]. Hiểu biết về những
thay đổi trong sự phát triển của noãn bào, sự
thay đổi trong tổ chức học của noãn sào có
ý nghĩa quan trọng trong dự báo trạng thái
thành thục của cá cái, phục vụ cho hoạt động
quản lý đàn cá bố mẹ. Cá chẽm mõm nhọn
(Psammoperca waigiensis), giống như một số
loài cá biển khác đang được nuôi phổ biến ở
nước ta như cá mú (Epinephelus spp), cá giò
(Rachycentron canadum), cá hồng (Lutjanus
erythropterus), cá đù mỹ (Scyaenops
ocellatus) và cá chẽm (Lates calcarifer), là
loài cá biển nhiệt đới, đẻ nhiều lần trong
năm. Ở nước ta, các nghiên cứu về tổ chức
học noãn sào cá xương ở các giai đoạn phát
triển khác nhau chưa có sự thống nhất trong
việc sử dụng bậc thang phát triển và chưa
được chú trọng đúng mức. Nghiên cứu này
nhằm mô tả sự thay đổi về mặt tổ chức học
của noãn sào trong chu kỳ sinh sản, đặc
điểm phát triển của noãn bào và noãn sào
của cá chẽm mõm nhọn. Các kết quả này sẽ
bổ sung và làm phong phú dữ liệu về tổ chức
học tuyến sinh dục trên các loài cá nhiệt đới
có noãn sào kiểu không đồng bộ. Mặt khác,
kết quả nghiên cứu cũng góp phần vào việc
nâng cao hiệu quả quản lý đàn cá bố mẹ,
kích thích sinh sản cá chẽm mõm nhọn trong
điều kiện nhân tạo thông qua việc nắm rõ qui
luật phát triển tuyến sinh dục của loài cá này.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đàn cá thí nghiệm
Đàn cá bố mẹ tuổi 3+, có chiều dài toàn
thân dao động 20-34 cm và khối lượng
70-580 g/con, được nuôi trong giai, đặt trong ao
đất, tại khu vực Đồng Bò, Nha Trang từ tháng
1 – 12 năm 2008. Nhiệt độ nước trong ao nuôi
dao động 28-32 oC; độ mặn: 26-34‰; pH:
7,8-8,6 và oxy hòa tan (DO): 3,5-4,6 mg/l. Mật
độ nuôi trung bình 3 kg/m 3 (20 con/m 3) với tỷ
lệ đực cái ước tính 1:1. Cá bố mẹ được cho ăn
“cá tạp” (cá nục hoặc cá cơm) hàng ngày với
khẩu phần bằng 3-5% khối lượng thân. Hàng
tháng, khoảng 10 cá cái được bắt ngẫu nhiên
để thu mẫu noãn sào và mẫu được cố định
trong dung dịch Bouin dùng cho phân tích tổ
chức học.
2. Phương pháp phân tích mẫu
Tiêu bản tổ chức học của noãn sào cá
Chẽm mõm nhọn được làm theo qui trình của
phòng thí nghiệm Bệnh học thủy sản, khoa
Nuôi trồng Thủy Sản, trường ĐH Nha Trang
được trình bày trong Phạm Quốc Hùng và Lê
Hoàng Thị Mỹ Dung [1]. Tiêu bản tổ chức học
của noãn sào được quan sát trên kính hiển vi
Zeiss Axioskop 2-Plus light (Zeiss Inc., Vienna,
Austria) và chụp hình bằng máy Nikon
Camera Head DS-5M và Nikon Camera Control
Unit DS-L1. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
sử dụng bậc thang phát triển tuyến sinh dục ở
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 29
cá xương Nikolskii [9] và Sakun và Butskaya
[4] để xác định sự phát triển noãn sào cá chẽm
mõm nhọn.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Sự thay đổi tổ chức học noãn sào trong
chu kỳ sinh sản
Noãn sào cá Chẽm mõm nhọn có sự biến
đổi phức tạp về mặt tổ chức học qua các tháng
trong năm. Trong nghiên cứu này, chúng tôi thu
thập được noãn sào ở giai đoạn II (giai đoạn
phát triển) vào tháng 1 và tháng 2. Noãn sào
ở giai đoạn tích lũy noãn hoàng bắt đầu xuất
hiện vào tháng 3. Noãn sào ở giai đoạn III, IV,
V, VI- giai đoạn phát triển, thành thục, sinh sản
được tìm thấy trong các tháng 4 – 9 chứng tỏ
đây là mùa vụ sinh sản chính của cá Chẽm
mõm nhọn trong điều kiện nuôi nhốt. Một số
mẫu noãn sào giai đoạn VI vẫn được tìm thấy
vào tháng 10 chứng tỏ hoạt động đẻ trứng vẫn
diễn ra trong thời gian này. Sau khi mùa sinh
sản kết thúc, noãn sào quay lại giai đoạn II
vào tháng 11 và 12, cá trải qua giai đoạn nghỉ
đông, tích lũy dinh dưỡng chuẩn bị cho mùa
sinh sản năm sau. Trong điều kiện tự nhiên tại
Khánh Hoà (12o52’35’’ Bắc – 11o41’53’’Nam),
cá Chẽm mõm nhọn đẻ rải rác từ tháng 3 đến
tháng 8 [3]. Điều này có thể được lý giải bởi
trong điều kiện nuôi nhốt, nhiệt độ cao hơn
ngoài tự nhiên, thức ăn được cung cấp đầy đủ,
yếu tố đực cái đảm bảo nên thời gian đẻ kéo
dài hơn so với ngoài tự nhiên. Tuy nhiên, cần
theo dõi thêm với chu kỳ nhiều năm để có kết
luận chính xác.
2. Sự phát triển của noãn bào
Các giai đoạn phát triển của buồng trứng
cá xương được phân chia dựa trên đặc điểm
hình thái bên ngoài và đặc biệt là tổ chức học
bên trong buồng trứng. Tổ chức học buồng
trứng gồm nhiều thành phần cấu tạo khác
nhau với noãn bào là thành phần chủ yếu và
chiếm tỷ lệ cao nhất. Sự phát triển của noãn
bào là một căn cứ quan trọng để xác định sự
phát triển của buồng trứng (noãn sào). Do
đó, chúng tôi đề cập đến quá trình phát triển
của noãn bào trong buồng trứng cá Chẽm
mõm nhọn dựa theo bậc thang của Sakun và
Butskaya [4] trước khi trình bày sự phát triển
của buồng trứng.
Pha 1: Pha nhân - chất nhiễm sắc (Chromatin-nucleus)
Noãn bào ở pha nhân – chất nhiễm sắc
có tính ưa kiềm mạnh với nhân và nguyên
sinh chất đều bắt màu tím của Hematocine.
Nhân to, nằm giữa tế bào, màng nhân bắt
màu đậm hơn (Hình 1A). Xung quanh tế bào
được bao bởi một màng mỏng. Đây là các
noãn nguyên bào được tạo ra từ các tế bào
sinh dục nguyên thủy qua các lần nguyên
phân tạo nên nguồn dự trữ để bổ sung nguồn
tế bào sinh dục sau khi cá đẻ. Noãn nguyên
bào trải qua những biến đổi đặc trưng tăng
lên về kích thước và phát triển thành noãn
bào. Kích thước noãn bào dao động từ
12,5 – 55 µm.
Pha 2: Pha tiền ngoại vi nhân (Pre - perinucleus)
Noãn bào ở pha ngoại vi nhân hình góc
cạnh, tế bào chất ưa kiềm bắt màu thuốc
nhuộm Hematoxyline bao quanh nhân, nhân
bắt màu nhạt hơn và nằm giữa tế bào. Trong
nhân xuất hiện các hạch nhân bắt màu đậm,
sắp xếp không theo trật tự. Sự sinh trưởng của
tế bào chất làm gia tăng kích thước noãn bào.
Thời kỳ này được gọi là thời kỳ sinh trưởng
nguyên sinh chất hay sinh trưởng lần thứ nhất
(the fi rst growth) (Hình 1B) với kích thước noãn
bào từ 22,5 – 90 µm.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
30 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Pha 3: Pha ngoại vi nhân (Perinucleus)
Noãn bào pha ngoại vi nhân có hình tròn
hoặc hình góc cạnh, xuất hiện nang trứng bao
xung quanh tế bào. Tế bào chất tiếp tục gia
tăng làm cho noãn bào phát triển nhanh về kích
thước. Nếu ở pha 2 (pha tiền ngoại vi nhân),
các hạch nhân bắt đầu xuất hiện và sắp xếp
không theo trật tự thì ở pha 3, các hạch nhân
tăng về số lượng, di chuyển ra và phân bố
phía ngoại vi nhân (quanh màng nhân) (hình
1C). Kích thước hạch nhân từ 5 – 7,5 µm(n=5).
Cuối pha này, noãn bào kết thúc quá trình sinh
trưởng nguyên sinh chất và đạt kích thước tới
hạn trong thời kỳ sinh trưởng thứ nhất. Đường
kính noãn bào đo được từ 80 – 150 µm.
Pha 4: Pha không bào hóa (Corticalization)
Bên ngoài tế bào, độ dày của nang trứng
tăng lên (nang trứng dày khoảng 3,75 – 7,5 µm,
(n = 10)), xuất hiện màng phóng xạ. Nguyên
sinh chất bắt màu tím không còn là khối đồng
nhất do sự xuất hiện các không bào như các
hình tròn rỗng với các kích thước khác nhau
Hình 1. Các pha phát triển của noãn bào
A, Pha nhân – chất nhiễm sắc; B, Pha tiền ngoại vi nhân với một số hạch nhân (†) xuất hiện xung quanh màng nhân;
C, Pha ngoại vi nhân với số lượng hạch nhân (†) xuất hiện xung quanh màng nhân tăng lên; D, Pha không bào hóa với các
hạt không bào (–) và lipid (>) xuất hiện trong tế bào chất; E, Pha thể noãn hoàng thứ nhất với các hạt noãn hoàng (4) có
kích thước nhỏ xuất hiện xung quanh màng tế bào; F, Pha thể noãn hoàng thứ hai với ½ thể tích tế bào chất được lấp đầy
bởi các hạt noãn hoàng (4); G, Pha thể noãn hoàng thứ ba, noãn bào được lấp đầy bởi các hạt noãn hoàng; H, Pha thành
thục với nhân (N) bắt đầu di chuyển về cực động vật; I, Màng nhân tiêu biến (N); K, Màng follicule (Fc) bắt đầu tách ra
khỏi trứng. Thước tỷ lệ 10 µm (hình A-C) và 50 µm (Hình D-K)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 31
(5 – 37,5 µm, (n = 18)). Các không bào bắt đầu
xuất hiện gần màng nhân và số lượng tiếp tục
tăng lên, không bào phân bố khắp nguyên sinh
chất. Nhân hình tròn, bắt màu hồng nhạt, nằm
giữa tế bào, màng nhân không còn phân biệt
rõ như ở pha 1, hạch nhân tiêu biến (hình 1D).
Noãn bào có kích thước 140 – 425 µm. .
Pha 5: Pha thể noãn hoàng (Yolk granule)
Pha thể noãn hoàng gồm các noãn bào ở
pha thể noãn hoàng thứ nhất (primary yolk –
Hình 1E), thứ hai (secondary yolk – Hình 1F),
thứ ba (tertiary yolk – Hình 1G). Ở pha thể
noãn hoàng thứ nhất, các hạt noãn hoàng bắt
đầu xuất hiện và phân bố quanh màng của tế
bào, kích thước các hạt noãn hoãng rất nhỏ.
Pha thể noãn hoàng thứ hai, noãn hoàng tiếp
tục được tổng hợp và tích lũy, chiếm khoảng
½ thể tích nguyên sinh chất, các không bào
bị dồn về phía nhân. Pha thể noãn hoàng thứ
ba, nguyên sinh chất được lấp đầy bởi các
hạt noãn hoàng. Kích thước của các hạt noãn
hoàng tăng lên, chúng dính lại với nhau thành
từng đám. Cuối pha hạt noãn hoàng, các hạt
noãn hoàng và các hạt lipid hòa với nhau, tạo
thành một khối đồng nhất và kích thước noãn
bào khoảng 380 – 425 µm. Nang trứng dày lên
rõ rệt 10 – 15 µm (n = 12) với vành phóng xạ
của màng follicle xuất hiện rõ ràng..
Pha 6: Pha thành thục
Ở pha thành thục, quá trình tích lũy noãn
hoàng kết thúc, noãn bào đạt kích thước tối
đa 400 – 480 µm. Nhân co lại và bắt đầu di
chuyển về cực động vật làm tế bào phân cực
(hình 1H). Màng nhân tiêu biến, nhân chỉ còn lại
một khối chất nhỏ, bắt màu tím nhạt (hình 1I).
Nang trứng bắt đầu tách ra khỏi noãn bào, đó
là công đoạn chuyển tiếp quá trình trứng rụng
(Fc, hình 1K). Hiện tượng nang trứng mỏng dần
được giả thuyết bởi quá trình tăng kích thước
mạnh mẽ của khối tế bào chất, trong khi đó
màng tế bào vẫn giữ nguyên độ dày [6].
3. Các giai đoạn phát triển của noãn sào
3.1. Giai đoạn I (Giai đoạn còn non)
Về hình thái: Noãn sào là hai dải mỏng,
trong suốt, có khi màu hồng nhạt, mắt thường
không phân biệt được tế bào sinh dục. Noãn
sào giai đoạn này chỉ gặp ở những cá thể
thành thục lần đầu.
Về tổ chức học: Noãn sào ở giai đoạn này
bao gồm các noãn nguyên bào và những noãn
bào thuộc thời kỳ sinh trưởng nguyên sinh chất
(noãn bào ở pha 1).
Hình 2. Hình thái bên ngoài noãn sào (A) và tiêu bản tổ chức học các giai đoạn phát triển của noãn sào
B, noãn sào giai đoạn II với các noãn bào ở pha 2- pha tiền ngoại vi nhân (1) và các noãn bào pha 3- pha ngoại vi nhân
(2); C, Noãn sào giai đoạn III với các noãn bào pha 3 (2), pha 4- pha không bào hóa (3), pha 5- pha thể noãn hoàng (4);
D, Noãn sào giai đoạn IV với các noãn bào có nhân bắt đầu di chuyển về cực động vật (5) và noãn bào có màng nhân tiêu
biến (6); E, Noãn sào giai đoạn V với các noãn bào có nang trứng (màng follicle) tách ra khỏi trứng (7); F, Noãn sào giai
đoạn VI với các noãn bào thành thục nhưng không được đẻ ra ngoài được tái hấp thu (8).Thước tỷ lệ hình B – F là 50 µm.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
32 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
3.2. Giai đoạn II (Giai đoạn phát triển)
Về hình thái: Noãn sào màu trắng đục với
một mạch máu lớn có những nhánh nhỏ phân
bố dọc theo hai nhánh của buồng trứng. Bên
ngoài noãn sào thường có nhiều mô mỡ bám
xung quanh. Quan sát noãn sào có thể thấy
các hạt trứng có màu trắng đục.
Về tổ chức học: Noãn bào ở pha 2 (pha
tiền ngoại vi nhân) và pha 3 (pha ngoại vi
nhân) thuộc thời kỳ sinh trưởng nguyên sinh
chất chiếm tỷ lệ cao trong noãn sào ở giai đoạn
II (hình 2B). Nang trứng (màng follicle) hình
thành và bao xung quanh noãn bào. Trong
buồng trứng cũng xuất hiện những noãn bào
đã kết thúc sinh trưởng nguyên sinh chất (cuối
pha 3), kích thước của chúng đã lớn đến mức
có thể quan sát bằng mắt thường hoặc dưới
kính lúp. Ngoài ra, buồng trứng còn có noãn
nguyên bào và những noãn nguyên bào đang
ở những pha đầu tiên của thời kỳ sinh trưởng
nguyên sinh chất, chúng là nguồn dự trữ.
3.3. Giai đoạn III (Giai đoạn tích lũy noãn
hoàng)
Về hình thái: Buồng trứng cũng như các
hạt trứng có sự tăng mạnh về kích thước và
khối lượng. Hạt trứng có màu trắng đục và
dính với nhau. Buồng trứng căng phồng, mạch
máu phát triển dày, bao quanh buồng trứng.
Giai đoạn này là giai đoạn kéo dài nhất trong
quá trình phát triển của tuyến sinh dục.
Về tổ chức học: Noãn bào ở pha không
bào hóa, chuẩn bị bước vào thời kỳ tích lũy
chất noãn hoàng xuất hiện trong noãn sào.
Quá trình tích lũy noãn hoàng được đánh dấu
bởi sự xuất hiện của các hạt noãn hoàng trong
nguyên sinh chất của noãn bào. Noãn sào ở
giai đoạn này chứa nhiều noãn bào ở các pha
khác nhau từ pha tiền ngoại vi nhân đến pha
thể noãn hoàng thứ 3 (hoàn tất quá trình tích
lũy noãn hoàng) (hình 2C).
3.4. Giai đoạn IV (Giai đoạn thành thục)
Về hình thái: Noãn sào đạt kích thước tối
đa, màu vàng đậm. Sự liên kết giữa các noãn
bào trong buồng trứng trở nên lỏng lẻo. Giai
đoạn IV xảy ra rất ngắn.
Về tổ chức học: Noãn sào xuất hiện các
noãn bào ở pha 6 (pha thành thục) có nhân
bắt đầu di chuyển về một cực – cực động vật,
noãn hoàng bị dồn về một cực- cực thực vật.
Cuối giai đoạn IV, noãn bào có sự phân cực
rõ rệt, màng nhân tiêu biến. Ngoài ra, buồng
trứng vẫn có các noãn bào ở pha 1, 2, 3, 4, 5
(hình 2D).
3.5. Giai đoạn V (Giai đoạn cá cái đẻ trứng)
Về hình thái: Hai nhánh của noãn sào chiếm
thể tích lớn trong xoang cơ thể. Noãn sào mềm
và động tác vuốt nhẹ ở bụng cá có thể làm trứng
chảy ra ngoài. Đây là giai đoạn cá cái tham gia
vào quá trình đẻ trứng với các trứng đã thành
thục và rụng sẽ được phóng ra ngoài.
Về tổ chức học: Nang trứng mỏng dần do
sự tăng lên của khối noãn hoàng và tách ra
khỏi noãn bào làm cho trứng rụng vào xoang
buồng trứng. Bên trong noãn sào vẫn có các
noãn bào ở giai đoạn còn non bên cạnh noãn
bào thành thục (hình 2E).
3.6. Giai đoạn VI (Giai đoạn ngay sau khi cá
cái sinh sản)
Về hình thái: Noãn sào mềm và nhão với
mỗi nhánh của noãn sào xuất hiện một khoang
rỗng, đó là phần thể tích buồng trứng của các
trứng chín đã được đẻ ra.
Về tổ chức học: Trong buồng trứng còn lại
các nang trứng của những trứng rụng và được
đẻ ra ngoài, các noãn bào ở pha 1, 2, 3. Các
trứng đã thành thục nhưng không được đẻ sẽ
bị thoái hóa và tái hấp thụ lại cơ thể (Hình 2F).
Các loài cá sinh sản 1 lần trong năm, sau khi đẻ
buồng trứng quay lại giai đoạn II, riêng loài này,
sau khi đẻ, buồng trứng trở lại giai đoạn III sau
khi đã tái hấp thụ hết các sản phẩm sinh dục.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
(i) Sự xuất hiện noãn sào ở giai đoạn tích
lũy noãn hoàng (III), thành thục (IV), tham gia
đẻ trứng (V), và giai đoạn sau khi cá đẻ (VI) từ
tháng 3 đến tháng 10 cho thấy đây là mùa vụ
sinh sản của cá chẽm mõm nhọn trong điều
kiện nuôi nhốt.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 33
(ii) Noãn bào trải qua các pha phát triển
khác nhau và tổ chức học của noãn sào thay
đổi qua các giai đoạn phát triển trong chu kỳ
sinh sản cho thấy đây là loài đẻ nhiều lần trong
năm. Sự xuất hiện đồng thời các noãn bào có
các pha phát triển khác nhau trong noãn sào
cho thấy đây là loài có buồng trứng kiểu không
đồng bộ.
2. Kiến nghị
Các nghiên cứu về tổ chức học của noãn sào
trên các loài cá nước ta chưa có sự thống nhất
trong việc sử dụng các bậc thang để mô tả sự
phát triển. Vì vậy, việc thực hiện các nghiên cứu
về tổ chức học của noãn sào và sự phát triển của
noãn bào trên một số loài cá biển nuôi ở nước ta
là cần thiết nhằm xây dựng bậc thang phân chia
các giai đoạn phát triển của noãn sào, và tuyến
sinh dục cá nói chung một cách thống nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Phạm Quốc Hùng và Lê Hoàng Thị Mỹ Dung (2011), Nghiên cứu tổ chức học của tinh sào cá chẽm mõm nhọn
- Psammoperca waigiensis (Cuvier, 1828). Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thủy sản, ISSN 1858 – 2252, 2,
19 – 27.
2. Phạm Quốc Hùng, Nguyễn Tường Anh và Nguyễn Đình Mão (2014), Hormon và sự điều khiển sinh sản ở cá.
Nhà xuất bản Nông Nghiệp thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Trọng Nho và Lục Minh Diệp (2003), Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cá chẽm mõm nhọn
Psammoperca waigiensis Cuvier & Valenciennes, 1828., 2003. Hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ giữa Trường Đại học Thủy sản và Ban Quản ý Hợp phần SUMA, Bộ Thủy sản.
Tiếng Anh
4. Sakun, O.F. và Butskaya N.A. (1968), Chu kỳ phát triển tuyến sinh dục của cá (Nguyễn Tường Anh dịch). Tài
liệu lưu hành nội bộ.
5. Blazer, V. S. (2002), Histopathological assessment of gonadal tissue in wild fi shes, Fish Physiology and
Biochemistry. 26(1), 85-101.
6. Maldonado-García, M., Gracia-López V., Carrillo M., Hernández-Herrera A. và Rodríguez-Jaramillo C. (2005),
Stages of gonad development during the reproductive cycle of the blackfi n snook, Centropomus medius Günther,
Aquaculture Research. 36(6), 554-563.
7. Muchlisin, Z. A., Musman M. và Azizah MN S. (2010), Spawning seasons of Rasbora tawarensis (Pisces:
Cyprinidae) in Lake Laut Tawar, Aceh Province, Indonesia, Reproductive Biology and Endocrinology. 8(1), 1-8.
8. Murua, Hilario và Saborido-Rey Fran (2003), Female reproductive strategies of marine fi sh species of the North
Atlantic, Journal of Northwest Atlantic Fishery Science. 33, 23-31.
9. Nikolskii, G. V. (196 3), The ecology of fi shes : G. V. Nikolsky / translated from the Russian by L. Birkett
Academic Press London, 353.
10. Schulz, Rüdiger W., Menting S., Bogerd J., França Luiz R., Vilela Daniel A.R. và Godinho Hugo P. (2005),
Sertoli cell proliferation in the adult testis—evidence from two fi sh species belonging to different orders,
Biology of Reproduction. 73(5), 891-898.
11. Wallace, Robin A. và Selman Kelly (1981), Cellular and dynamic aspects of oocyte growth in teleosts, American
Zoologist. 21(2), 325-343.
12. West, G. (1990), Methods of assessing ovarian development in fi shes: A review, Marine and Freshwater
Research. 41(2), 199-222.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4_le_hoang_thi_my_dung_4_2015_9163_2024280.pdf