As usual, at the age of one, some babies can speak but their abilities are unclear. When they are 2
or 3 years old, they will gain quite a wide range of vocabulary to create complete phrases and
sentences. The process of learning how to speak of each baby is different. In terms of genders, this
difference is quite significant. By conducting a survey of more than 100 babies (50 boys and 50
girls) from 2 to 3 years old in Thai Nguyen and Lang Son province, our article doesn’t target at
babies’ awareness of genders but the similarity and dissimilarity in the way boys and girls gain and
use language in some aspects like pronunciation, especially the pronunciation of phonemes to
make syllables, the show of intonation as well as words
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 407 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự khác biệt trong phát âm của trẻ từ 2 đến 3 tuổi ở khu vực miền núi phía Bắc (xét từ góc độ giới tính), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Trà My và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 123 - 128
123
SỰ KHÁC BIỆT TRONG PHÁT ÂM CỦA TRẺ TỪ 2 ĐẾN 3 TUỔI
Ở KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC (XÉT TỪ GÓC ĐỘ GIỚI TÍNH)
Nguyễn Thị Trà My*, Vi Thị Điệp
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thông thường, khi 1 tuổi, một số trẻ đã biết nói nhưng chưa rõ ràng. Đến giai đoạn 2 - 3 tuổi, trẻ
sẽ tiếp nhận khá nhiều vốn từ và dần biết sử dụng chúng để tạo thành các ngữ, các câu hoàn chỉnh.
Qúa trình hình thành ngôn ngữ nói của mỗi trẻ không giống nhau. Dưới góc độ giới tính, sự khác
biệt này cũng được thể hiện khá rõ nét. Bằng cách tiến hành khảo sát trên 100 trẻ (50 bé trai, 50 bé
gái) từ 2 – 3 tuổi trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và Lạng Sơn, bài viết của chúng tôi không nhằm
vào sự nhận thức giới tính của trẻ mà hướng tới điểm tương đồng và khác biệt trong việc hình
thành, sử dụng ngôn ngữ giữa trẻ nam và trẻ nữ xét trên bình diện ngữ âm, cụ thể là cách phát âm
các âm vị trong cấu tạo âm tiết và cách thể hiện ngữ điệu.
Từ khóa: Ngôn ngữ trẻ em, ngôn ngữ, giới tính, ngữ âm, âm tiết.
Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ là một việc làm rất
cần thiết bởi thông qua hoạt động này chúng
ta sẽ giúp trẻ dần hình thành tư duy, nhận
thức và nhân cách. Thực tế cũng cho thấy,
trong quá trình hình thành ngôn ngữ, trẻ
thường gặp rất nhiều lỗi. Những lỗi này xuất
hiện trên cả ba phương diện: ngữ âm, từ vựng
và ngữ pháp. Thông thường, khi 1 tuổi một số
trẻ đã biết nói nhưng chưa rõ ràng. Đến giai
đoạn 2 - 3 tuổi, trẻ sẽ tiếp nhận khá nhiều vốn
từ và dần biết sử dụng chúng để tạo thành các
ngữ, các câu hoàn chỉnh. Qúa trình hình thành
ngôn ngữ nói của mỗi trẻ không giống nhau.
Dưới góc độ giới tính, sự khác biệt này cũng
được thể hiện khá rõ nét. Bài viết của chúng
tôi không nhằm vào sự nhận thức giới tính
của trẻ mà hướng tới điểm tương đồng và
khác biệt trong việc hình thành, sử dụng ngôn
ngữ giữa trẻ nam và trẻ nữ (xét trên bình diện
ngữ âm). Chúng tôi tập trung vào điểm khác
biệt trong cách kết hợp phụ âm đầu, âm chính,
âm cuối và thanh điệu của trẻ để tìm ra xu
hướng sử dụng các bộ phận này. *
Để phát ra được âm tiết chuẩn trẻ cần phải có
bộ máy cấu âm hoàn thiện. Tùy thuộc vào sự
phát triển của từng trẻ, khi bộ máy cấu âm
khác nhau, giọng nói của trẻ cũng khác nhau.
*
ĐT: 0983732638; Email: tramy.vnnn@gmail.com
Cách cấu tạo âm tiết của trẻ nam và trẻ nữ
đều phải tuân theo quy tắc ngôn ngữ nhất
định. Khi đã qua giai đoạn mẫu giáo, trẻ bắt
đầu học được cách kết hợp các âm vị giống
người lớn và chính xác hơn.
Để làm sáng tỏ nội dung của bài viết, chúng
tôi tiến hành khảo sát việc sử dụng ngôn ngữ
của 50 trẻ nam và 50 trẻ nữ đang học tại lớp 2
tuổi trường Mầm non Hoa Mai (TP.Thái
Nguyên), lớp A1 trường Mầm non 19/5 (TP.
Thái Nguyên) và lớp 24 - 36 tháng trường
Mầm non Sàn Viên (Lạng Sơn). Kết quả thu
được như sau:
CÁCH PHÁT ÂM PHỤ ÂM ĐẦU
Nhìn vảo số liệu trên bảng 1 chúng ta thấy:
+ Các bé trai có xu hướng sử dụng nhầm lẫn
các phụ âm đầu trong cấu tạo âm tiết nhiều
hơn các bé gái. Số trẻ nam mắc các lỗi biến
đổi các phụ âm đầu /c/ thành /t/, /k/ thành /c/
và /ɣ /, /ş/ thành /c/, /s/ và /t’/, /f/ thành /p/, /p/
thành /b/ nhiều hơn trẻ nữ từ 2 cho tới 16 bé.
Trong khi đó, số lượng các bé gái nhầm lẫn
phụ âm đầu cao hơn các bé trai chỉ ở 4 âm vị
/χ/ thành /c/ (nhiều hơn 1 bé), /n/ thành /l/ (2
bé), /l/ thành /n/ (2 bé). Ngoài ra, trong bảng
trên chúng ta thấy 100% các bé có xu hướng
sử dụng các âm đầu /c/ thay cho/ʈ/, /s / thay
cho / ş /, /z/ thay cho /ʐ /.
Nguyễn Thị Trà My và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 123 - 128
124
+ Các trẻ nhầm lẫn khi sử dụng /l/ và /n/ đều
thuộc địa bàn Thái Nguyên. Qua tìm hiểu,
chúng tôi được biết sự nhầm lẫn trong cách
phát âm /l/, /n/ của trẻ chủ yếu là do học được
từ cách phát âm của người lớn. Bố mẹ của
những bé này thường không phải là người gốc
ở Thái Nguyên mà ở các tỉnh miền xuôi
(Hưng Yên, Hải Dương...) vốn bị ảnh hưởng
nhiều bởi tiếng địa phương nên vô tình đã
làm ảnh hưởng tới cách cấu tạo âm tiết chưa
chính xác của trẻ. Tỉ lệ trẻ có xu hướng sử
dụng /s / thay cho / ş / và/c/ thay cho / ʈ /
lên tới 100%. Đây là lỗi không phải chỉ trẻ
em mới mắc phải mà rất nhiều người lớn
cũng có xu hướng sử dụng các phụ âm đầu
thay thế nhau như vậy. Vì vậy, rất cần phải
dạy trẻ phân biệt được rõ ràng các phụ âm
đầu ngay từ khi tập nói để tránh gây nhầm
lẫn khi trẻ đến tuổi tập viết.
CÁCH PHÁT ÂM ÂM ĐỆM
Kết quả bảng 2 cho thấy, với những từ có âm
đệm như: hoa, quả, ngoan thì trẻ thường
không phát âm được âm đệm. Do trẻ chưa
biết kết hợp âm đệm với các âm vị khác dẫn
tới hiện tượng âm tiết tạo ra không chính xác.
Bảng 1. Cách phát âm phụ âm đầu của trẻ 2 – 3 tuổi từ góc độ giới tính
ST
TT
Cách phát âm
phụ âm đầu
Ví dụ
Số lượng trẻ sử dụng
Trẻ nam Trẻ nữ
Phụ âm
chuẩn
Phụ âm
do trẻ
phát ra
Số lượng
/50
Tỉ lệ
%
Số lượng
/50
Tỉ lệ
%
1 /c/ /t/ chào cô => tào cô 16 32 10 20
2 /χ/ /c/ khúc khích => chúc chích 32 64 33 66
3 /k/ /c/ kim chỉ => chim chỉ 15 30 6 12 /ɣ / bánh quy => bánh guy 45 80 39 78
4 /ş/
/c/ sao đỏ => chao đỏ 36 72 33 66
/s/ sung sướng=> xung xướng 50 100 50 100
/t’/ sung sướng => thung thướng 27 54 16 32
5 /n/ /l/ nắn nót => lắn lót 10 20 12 24
6 /l/ /n/ lung linh => nung ninh 10 20 12 24
7 / ʐ / /z/ rõ ràng => dõ dàng 50 100 50 100
8 / ʈ/ /c/ trống trải => chống chải 50 100 50 100
9 /f/ /p/ phòng khách => pòng khách 32 64 30 60
10 /b/ /p/ bánh => pánh 15 30 15 30
11 /p/ /b/ pin => bin 27 54 25 50
Bảng 2. Cách phát âm âm đệm của trẻ 2-3 tuổi từ góc nhìn giới tính
STT Âm tiêt
chuẩn
Âm tiết do trẻ
phát ra
Trẻ nam Trẻ nữ
Số lượng/50 Tỉ lệ % Số lượng/50 Tỉ lệ %
1 hoa ha 17 34 16 32
2 quả cả 19 38 17 34
3 ngoan ngan, ngoon 23 46 25 50
4 toàn tàn 15 30 17 34
5 quanh (co) canh (co) 32 64 31 62
6 quyền (lợi) quền (lợi) 34 68 35 70
7 loan lan, loon 26 52 21 22
8 tuấn tấn 31 62 33 66
9 hoa hòe ha hè 29 58 23 46
10 hoa huệ ha hệ 30 60 27 54
11 huyền huền 38 76 33 66
Nguyễn Thị Trà My và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 123 - 128
125
12 huy hy 29 58 28 56
Chúng tôi đưa ra các âm tiết có chứa các âm
đệm như Hoa, quả, ngoan, toàn, quanh co,
quyền lợi, loan, tuấn, hoa hòe, hoa huệ, huyền,
huy thu được kết quả: Có 4 âm tiết là ngoan,
toàn, quyền lợi, tuấn thì số trẻ nam phát âm
thiếu âm đệm ít hơn trẻ nữ. Tỉ lệ này chênh
lệch từ 2% (quyền lợi) tới 4% (ngoan, toàn,
tuấn). Với các âm tiết còn lại, số trẻ nữ phát
âm các âm tiết đủ âm đệm lại nhiều hơn trẻ
nam. Số lượng chênh lệch trong cách phát âm
đúng các âm tiết này là từ 1 đến 5 bé. Chẳng
hạn, trong khi có 38 trẻ nam phát âm sai từ
huyền thì có 33 trẻ nữ phát âm sai từ này.
Có sự khác biệt như trên là kết quả của việc
học tập ngôn ngữ của từng bé. Trẻ thường
mắc lỗi ở những âm tiết có sự kết hợp giữa
phụ âm đầu khó phát âm như /k/ với âm đệm.
Ví dụ: Tỉ lệ trẻ nam và trẻ nữ phát âm thiếu
âm đệm trong từ quanh (co) là 68% ở trẻ
nam và 62% ở trẻ nữ...
Những bé trai và bé gái đã có cách sử dụng
chuẩn trong các âm tiết chứa âm đệm thường
là những bé khoảng 3 tuổi. Bởi lúc này, bộ
máy cấu âm của trẻ đã hoàn thiện hơn và
nhận thức của bé về thế giới xung quanh cũng
nhạy bén hơn.
CÁCH PHÁT ÂM ÂM CHÍNH
Kết quả của bảng 3 cho thấy, các bé gái sử
dụng âm chính / ε / thành /iε/ nhiều hơn các
bé trai. Trong khi có 10 bé trai mắc lỗi này thì
số lượng này ở bé gái là 13 (tỉ lệ này cao hơn
ở các bé trai 6%). Cách nói này được coi là
“điệu” dù bé học được cách phát âm này từ
người lớn. Các bé gái lại có xu hướng gần cô
giáo và gần mẹ hơn, tính nữ lúc này cũng đã
bắt đầu được thể hiện, các bé gái thường kéo
dài giọng hơn các bé nam nên khả năng sử
dụng cách thay thế / ε / thành /iε/ nhiều hơn
bé trai. Con số sử dụng / ɯɤ / thành /Ǵ/ của
các bé gái nhiều hơn bé trai là 2 bé. Con số
này cho thấy hầu hết cả bé trai và bé gái đều
có bộ máy cấu âm chưa hoàn thiện nên cách
phát âm các nguyên âm chính chưa rõ ràng.
Các bé thường phát âm nguyên âm đôi thành
các nguyên âm đơn.
Các bé trai phát âm các âm chính như /Ͻ/,
/εˇ/,/ε/, /ie/ nhiều hơn các bé gái (từ 1 đến 5
trẻ). Trong khi sử dụng âm chính trong cấu
tạo âm tiết, các bé thường mắc các lỗi phát
âm biến /Ͻ/ có sự thể hiện là [o] thành/Ͻ/ có sự
thể hiện là [oo], /εˇ/ thành /ă/, /ie/ thành /e/ và
/ɯɤ/ thành /ɤ/ . Có 31 đến 37 bé trai và 27 đến
38 bé gái mắc lỗi này. Do đó, người lớn cần
phải tập trung sửa những lỗi này cho bé ở gia
đình cũng như ở trường để bé phân biệt và sử
dụng âm chính chính xác.
CÁCH PHÁT ÂM CUỐI
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy
các bé gái thường bắt chước người lớn nhanh
hơn các bé trai. Các trẻ nữ cũng thường nhạy
cảm hơn trong việc nhận ra sự khác nhau
trong các âm vị cuối /n/ và /ŋ/, /Ȃ/ và /n/ tốt
hơn các bé trai nên biết cách sử dụng các âm
cuối này chính xác hơn. Ngoài tỉ lệ số trẻ nam
và trẻ nữ bằng nhau trong cách nhầm lẫn /Ȃ/
thành /n/ (75%) thì số trẻ nam vẫn chiếm tỉ lệ
cao trong sự nhầm lẫn /n/ thành /ŋ/ (cao hơn
6%) và /ŋ/ thành /n/ (cao hơn 10%).
Bảng 3. Cách phát âm âm chính của trẻ 2 – 3 tuổi từ góc nhìn giới tính
STT
Cách phát âm
âm chính
Ví dụ
Số lượng trẻ sử dụng
Trẻ nam Trẻ nữ
Âm
chính
chuẩn
Âm chính
do trẻ
phát ra
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng /50 Tỉ lệ %
1 / ε / /iε/ mẹ => mịa 10 20 13 26
2 /Ͻ/ [o] / Ͻ/// [oo] Con thấy ngon lắm! => Coong thấy ngoong lắm!
32 64 27 54
3 /εˇ/ /ă/ bánh => bắn 31 62 28 56
4 /ε/ /a/ mẹ => mạ 9 18 8 16
5 /ie/ /e/ huyền => huền khuya => khuê
37
74
35 70
Nguyễn Thị Trà My và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 123 - 128
126
6 / ɯɤ / /Ǵ/ vươn => vơn 37 74 38 76
Bảng 4. Cách phát âm âm cuối của trẻ 2 – 3 tuổi từ góc nhìn giới tính
STT
Cách phát âm
âm cuối
Ví dụ
Số lượng trẻ sử dụng
Trẻ nam Trẻ nữ
Âm cuối
chuẩn
Âm cuối
do trẻ
phát ra
Số
lượng/50
Tỉ lệ
%
Số
lượng/50
Tỉ lệ
%
1 /n/ /ŋ/ Con không ăn đâu. => Cong không ăn đâu. 20 40 17 34
2 /Ȃ/ /n/
dòng sông lấp lánh =>
dòng sông lấp lán 30 74 37 74
3 /ŋ/ /n/ dinh dưỡng
=> dinh dưỡn 43 86 40 76
CÁCH PHÁT ÂM THANH ĐIỆU
Về thanh điệu, cả trẻ nam và trẻ nữ đều rất
khó phân biệt sự khác nhau về cao độ của
thanh ngã và thanh sắc, thanh hỏi và thanh
nặng nên hay sử dụng lẫn lộn. Khảo sát 100
trẻ nam và nữ, chúng tôi thu được số liệu sau:
Trong khảo sát bảng trên, các bé trai sử dụng
nhầm lẫn các thanh điệu này đều có tỉ lệ %
cao hơn các bé gái. Tỉ lệ bé trai có xu hướng
sử dụng thanh sắc thay cho thanh ngã chiếm
72% trong khi tỉ lệ ở các bé gái là 66%. Tỉ lệ
bé trai sử dụng thanh nặng thay cho thanh hỏi
là 60%, ở các bé gái tỉ lệ này chiếm 54%.
Điều này cho thấy các bé gái có cách sử dụng
thanh điệu chính xác hơn và bé gái học tập
ngôn ngữ chính xác hơn các bé trai. Ví dụ khi
cho trẻ chơi trò chơi Nu na nu nống, đồng
thời đọc bài đồng dao Nu na nu nống và bài
Bắp cải xanh của tác giả Phạm Hổ [7], chúng
tôi đã thu được kết quả như bảng 6.
Kết quả kháo sát trên cho thấy có 52,3% tỉ lệ
mắc lỗi sai về thanh điệu ở trẻ nam và 44% tỉ
lệ mắc lỗi sai về thanh điệu ở trẻ nữ. Hay nói
cách khác, trẻ nữ sử dụng thanh điệu trong
cấu tạo âm tiết chính xác hơn trẻ nam. Chỉ có
duy nhất trong cách sử dụng thanh điệu của từ
đẽ có số trẻ nữ sử dụng thanh điệu sai là
33/50 (66%) cao hơn trẻ nam 2%.
Bảng 5. Cách phát âm thanh ngã và thanh hỏi của trẻ 2-3 tuổi từ góc độ giới tính
TT
Các phát âm thanh điệu Số lượng trẻ sử dụng Trẻ nam Trẻ nữ
Thanh điệu
chuẩn
Thanh điệu do
trẻ phát ra
Số lượng
/50
Tỉ lệ
%
Số lượng
/50
Tỉ lệ
%
1 Ngã Sắc 36 72 33 66
2 Hỏi Nặng 30 60 27 54
Bảng 6. Khảo sát cách phát âm thanh điệu của trẻ 2-3 tuổi từ góc độ giới tính
STT Các âm tiết
chuẩn
Các âm tiết do
trẻ phát ra
Trẻ nam Trẻ nữ
Số lượng
/50
Tỉ lệ
%
Số lượng
/50
Tỉ lệ
%
1 đẽ đẹ, đé 32 64 33 66
2 sẽ sẹ, sé 27 54 19 38
3 giữa dứa, dựa 36 72 33 66
4 đỏ đọ 27 54 23 46
5 bẩn bận 25 50 20 40
6 cải cại 20 40 13 26
Nguyễn Thị Trà My và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 123 - 128
127
7 ngủ ngụ 30 62 27 54
8 mở mợ 12 24 9 18
Âm tiết là một cấu trúc thống nhất và hoàn
chỉnh không thể tách rời. Do nhận thức về
ngôn ngữ của trẻ lứa tuổi 2 - 3 tuổi còn hạn
chế nên để nghiên cứu đặc điểm cấu tạo âm
tiết của trẻ là điều không dễ. Do đó, chúng
tôi chỉ dừng ở việc đi vào cách trẻ phát âm
các phụ âm đầu, âm chính, âm đệm, âm cuối
và thanh điệu để kết hợp chúng thành âm tiết
hoàn chỉnh trong thực tiễn sử dụng. Cách phát
âm của nhiều trẻ chưa chính xác so với với
chuẩn mực của tiếng Việt. Có thể thấy, trong
100 trẻ thuộc đối tượng nghiên cứu thì số trẻ
nam có xu hướng kết hợp các bộ phận để tạo
ra âm tiết thiếu chính xác hơn trẻ nữ. Các lỗi
của trẻ nam trong cách phát âm âm đầu cao
hơn trẻ nữ là 6,2%, với cách phát âm âm
chính thì trẻ nam chiếm tỉ lệ cao hơn 5,3%, tỉ
lệ phát âm sai âm cuối cao hơn 4,1% và tỉ lệ
trẻ nam phát âm sai thanh điệu nhiều hơn trẻ
nữ là 6%. Điều này thể hiện sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ nữ diễn ra tốt hơn ở các trẻ
nam và trẻ nữ biết kết hợp các bộ phận để tạo
thành âm tiết thành thạo, chính xác hơn.
Ngoài các đặc điểm trên, qua khảo sát chúng
tôi còn nhận thấy ở giai đoạn này, trẻ thường
nói chậm, ê a, ậm ừ, hay kéo dài giọng ở
những từ cuối. Bé gái thường hay kéo dài từ
cuối cùng của câu thơ hơn các trẻ nam, đọc
thơ có sự biểu cảm hơn và thường có trí nhớ
tốt hơn khi kể lại tên nhân vật, các sự kiện.
Ngoài khả năng phát âm các giọng điệu khác
nhau của từng nhân vật, các bé gái còn biết sử
dụng hành động để minh họa cho lời nói.
Bên cạnh đó, quan sát trẻ nói, chúng tôi nhận
thấy trẻ thường phát âm các từ chứa thanh
Bằng dễ dàng hơn các từ chứa thanh Trắc.
Đây cũng là một nguyên nhân gây ra hiện
tượng nói ngọng ở trẻ. Ở lứa tuổi này, các bé
phát âm vẫn chưa chuẩn so với cách phát âm
của tiếng Việt. Với các trẻ nói quá ngọng và ít
có khả năng biểu cảm hay sử dụng cử chỉ kèm
lời thì các nhà quản lý, giáo viên và phụ
huynh cần chú ý để có phương pháp phù hợp
giáo dục con em mình.
Thực tế trên cho thấy, việc phát triển ngôn
ngữ cho trẻ thông qua các trò chơi, hoạt động
trong trường mầm non cũng như trong gia
đình là việc làm rất quan trọng. Ngoài những
cách thông thường như trò chuyện với trẻ, cho
trẻ xem những bức tranh đơn giản giáo viên
và phụ huynh có thể phát triển ngôn ngữ của
trẻ thông qua trò chơi miêu tả, thông qua các
giờ kể chuyện (đặc biệt là kể chuyện sáng
tạo), qua trò chơi đóng vai....Chẳng hạn, miêu
tả là phương pháp giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ đơn giản nhất và có thể thực hiện được
mọi lúc mọi nơi bẳng cách sử dụng những gợi
ý giúp trẻ tái hiện lại các hình ảnh đã được
tiếp xúc để củng cố vốn từ vựng đã biết và ghi
nhớ những đặc trưng khu biệt của các từ mới.
Phương pháp này có thể được thực hiện từ lúc
trẻ biết nói và có thể áp dụng lâu dài. Để bắt
đầu phương pháp này, trước tiên cha mẹ sẽ
làm mẫu miêu tả một đồ vật nào đó trong nhà
rồi khuyến khích trẻ làm theo. Có thể đầu
tiên, bé chưa quen với trò chơi này. Nhưng
sau đó, bé sẽ cảm thấy rất thú vị và muốn
được chơi liên tục. Các bé trai cần được chú
ý về các từ chỉ rau quả, hoa lá, màu sắc
nhiều hơn các bé gái. Các bé gái thì cần được
chú ý tăng thêm vốn từ vựng về các phương
tiện giao thông hoặc một số nhóm từ mà các
bé trai sử dụng nhiều hơn để cân bằng, mở
rộng ngôn ngữ.
Trong khi sử dụng các phương pháp này,
người lớn cần phải chú ý tới sự khác nhau giữa
đặc điểm ngôn ngữ trẻ nam và trẻ nữ để điều
chỉnh phương pháp giáo dục cho phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Xuân Khoa, Phương pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo, Nxb ĐHQGHN,
2003.
[2]. Đinh Hồng Thái, Phát triển ngôn ngữ tuổi
mầm non, Nxb ĐH Sư phạm, 2011.
[3]. Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm học tiếng Việt,
Nxb Giáo dục, 2007
[4]. Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Tâm lý học trẻ em
lứa tuổi mầm non (Từ lọt lòng đến 6 tuổi),
Nxb Đại học Sư phạm, 2008
Nguyễn Thị Trà My và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 123 - 128
128
[5]. Linda L.Carly, Gender, language and
influence, Journal of personality and social
psychology, 1990.
[6]. Mary Renck Jalongo, Early Childenhood
language arts, Allyn & Bacon, 2009.
[7].
SUMMARY
THE DIFFERENCE IN THE CHILDREN’S PRONUNCIATION
FROM 2 TO 3 AGE IN THE NORTHERN MOUNTAIN
(SURVEY ON GENDER)
Nguyen Thi Tra My*, Vi Thi Diep
College of Sciences – TNU
As usual, at the age of one, some babies can speak but their abilities are unclear. When they are 2
or 3 years old, they will gain quite a wide range of vocabulary to create complete phrases and
sentences. The process of learning how to speak of each baby is different. In terms of genders, this
difference is quite significant. By conducting a survey of more than 100 babies (50 boys and 50
girls) from 2 to 3 years old in Thai Nguyen and Lang Son province, our article doesn’t target at
babies’ awareness of genders but the similarity and dissimilarity in the way boys and girls gain and
use language in some aspects like pronunciation, especially the pronunciation of phonemes to
make syllables, the show of intonation as well as words.
Key words: Children's language , language, gender , phonetics, syllables.
*
ĐT: 0983732638; Email: tramy.vnnn@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_41489_45260_9520148132722_2452_2048519.pdf