Thứ tám: Thực tế có một bộ phận thanh niên
chƣa ý thức rõ tầm quan trọng của việc học
nghề. Cần phải giáo dục để giúp họ ý thức rõ
tầm quan trọng của việc học nghề và có một
nghề nghiệp chuyên môn để đảm bảo cuộc
sống, dù họ làm việc trong nhà máy, xí
nghiệp, cơ sở sản xuất hay tự kinh doanh, tự
tổ chức sản xuất. Việc giáo dục này càng cần
thiết đối với những thanh niên các gia đình
giàu lên nhanh chóng nhờ tiền bán hay đền bù
đất đai, ỷ lại vào tiền bạc mà lao vào việc ăn
chơi, đua đòi.
10 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 300 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự biến đổi kinh tế - xã hội trong quá trình đô thị hóa ở phường Yên Sở, quận Hoàng Mai, Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Nhƣ Quyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 47 - 58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47
SỰ BIẾN ĐỔI KINH TẾ-XÃ HỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở
PHƯỜNG YÊN SỞ, QUẬN HOÀNG MAI, HÀ NỘI
Nguyễn Như Quyền*
Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong giai đoạn 2000-2010, quá trình đô thị hóa tăng nhanh, tình hình kinh tế-xã hội phƣờng Yên
Sở có sự biến đổi sâu sắc. Cơ cấu kinh tế có bƣớc chuyển dịch quan trọng từ nông nghiệp-dịch vụ-
công nghiệp sang dịch vụ-nông nghiệp-công nghiệp. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở và đất chuyên dùng khiến diện tích đất nông nghiệp ở Yên Sở giảm đi nhanh
chóng. Cơ cấu nông nghiệp có sự thay đổi lớn, nuôi trồng thủy sản đƣợc chú trọng, các giống cây
trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao dần đƣợc đƣa vào sản xuất phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng.
Trên cơ sở đó, đô thị hóa tác động mạnh vào sự thay đổi cơ cấu lao động, việc làm, sự phân hóa
giàu nghèo. Các ngành nghề phi nông nghiệp phát triển và giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu lao
động của phƣờng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhƣ điện, hệ thống giao thông, trƣờng học, trạm y tế, hệ
thống cung cấp nƣớc sạch và các công trình thoát nƣớc, chợ, siêu thịđƣợc làm mới, nâng cấp và
cải thiện đáng kể cùng với mức sống ngƣời dân tăng lên đã làm cho chất lƣợng sống ngƣời dân
phƣờng Yên Sở đƣợc nâng cao. Bên cạnh đó, đô thị hóa cũng tác động làm biến đổi cảnh quan,
môi trƣờng, tâm lý, văn hóa và lối sống của ngƣời dân nơi đây.
Từ khóa: biến đổi kinh tế-xã hội, đô thị hóa, cơ cấu kinh tế, lối sống,Yên Sở.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Ở Việt Nam và trên thế giới, vấn đề đô thị
hóa và tác động của nó đối với kinh tế, văn
hóa, xã hội, môi trƣờng... đƣợc nhiều nhà
khoa học và giới quản lý đô thị quan tâm,
nghiên cứu nhƣ: Vấn đề đô thị hóa và tăng
trƣởng (Michael Spence, 2009) [11]; Vấn đề
nảy sinh khi đô thị hoá ở Phi Lip Pin, Mỹ,
Nhật, Thái Lan (Sam T. Hurst, 1984) [21];
Bối cảnh chính trị của đô thị hoá và sự phát
triển kinh tế ở thành phố. Phân tích một số
vấn đề chính về cấp nƣớc, xử lí nƣớc thải và
chất thải, giao thông, nhà cửa... Các kế hoạch
quản lí thành phố trong xu hƣớng đô thị hoá
hiện nay (Coulthart Alan, 2006) [3]; Tổng
quan về đô thị hoá, phát triển bền vững và
những nghiên cứu cụ thể phát triển đô thị khu
vực Châu Á ở một số nƣớc Châu Á nhƣ:
Băng ladet, Cămpuchia, Trung Quốc, Ấn Độ,
Inđônêxia, Lào...(Brian Roberts, 2006) [2];
Tác động của đô thị hóa đối với lao động,
việc làm của ngƣời có đất bị thu hồi ở nƣớc ta
*Tel:0974.958.636Email: hanoianvnnq@gmail.com
hiện nay (Hoàng Văn Hoa, 2006) [6]; Ảnh
hƣởng đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành
Hà Nội: Thực trạng và giải pháp (Lê Du
Phong, 2002) [8]; Nông dân ngoại thành
thành phố Hồ Chí Minh trong tiến trình đô thị
hoá (Lê Văn Năm, 2007) [10]; Biến đổi kinh
tế-xã hội ở vùng ven đô Hà Nội trong quá
trình đô thị hóa (Nguyễn Hữu Minh, 2005)
[14]; Tác động của quá trình đô thị hóa đến
kinh tế hộ gia đình nông dân (Nguyễn Thị
Kim Thoa, 2000) [15];Vấn đề sử dụng đất
trong quy hoạch và phát triển các khu dân cƣ
ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hoá
(Phạm Khánh Toàn, 2002) [16]...Tuy nhiên,
hầu hết các công trình đó mới chỉ dừng lại
nghiên cứu một cách khái quát hoặc trên một
vài lĩnh vực, ở một vài khía cạnh riêng biệt
mà chƣa đi sâu vào nghiên cứu cụ thể một
cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc.
Yên Sở trƣớc đây là một xã thuộc huyện
Thanh Trì có địa hình thấp trũng, diện tíc mặt
nƣớc lớn nhất so với các khu vực xung quanh.
Hiện nay, Yên Sở là một trong những phƣờng
mới đƣợc thành lập thuộc quận Hoàng Mai
Nguyễn Nhƣ Quyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 47 - 58
48
trong quá trình đô thị hóa mở rộng của Hà
Nội [1]. Tại đây, quá trình đô thị hóa ngày
càng nhanh với những nét riêng cũng nhƣ
những đặc trƣng chung tiêu biểu từ một làng
nông nghiệp truyền thống ven đô Hà Nội dẫn
đến tình hình kinh tế-xã hội có sự biến đổi sâu
sắc. Vì vậy, nghiên cứu sự biến đổi kinh tế -
xã hội ở phƣờng Yên Sở trong quá trình đô
thị hóa là đề tài có ý nghĩa khoa học, ý nghĩa
thực tiễn và mang tính cấp thiết, tạo cơ sở
khoa học cho việc hoạch định chính sách
cũng nhƣ định hƣớng phát triển bền vững của
phƣờng.
Nghiên cứu sử dụng chủ yếu 3 nguồn tài liệu
(trong đó nguồn 1 và 2 đóng vai trò quan
trọng):
1- Thƣ tịch, báo cáo, văn bản, bảng biểu, số
liệu thống kêcủa phƣờng, quận;
2- Tƣ liệu điền dã, điều tra xã hội học;
3- Các công trình nghiên cứu có liên quan
của các tác giả đi trƣớc.
và đƣợc tiến hành dựa trên cơ sở nghiên cứu
của Khu vực học với cách tiếp cận và phƣơng
pháp nghiên cứu mang tính liên ngành, hệ
thống. Các tri thức về địa lý, sinh thái, địa
chất... đƣợc vận dụng để nghiên cứu, đánh giá
các điều kiện tự nhiên. Tri thức về khoa học
xã hội nhƣ khoa học lịch sử, dân tộc học, văn
hóa học, kinh tế học, xã hội họcgiúp cho
việc nghiên cứu các đặc điểm nguồn gốc, kết
cấu dân cƣ, cơ cấu các ngành kinh tếBên
cạnh đó luận văn còn sử dụng một số phƣơng
pháp sau: phƣơng pháp kế thừa những thông
tin và kết quả nghiên cứu trƣớc đó; phƣơng
pháp thống kê, tổng hợp và phân tích tƣ liệu;
phƣơng pháp điền dã, điều tra xã hội học
bằng bảng hỏi (200 phiếu) kết hợp phỏng vấn
sâu; phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp
logic cũng đƣợc kết hợp trong quá trình
nghiên cứu giúp cho việc nhìn nhận, đánh giá
và lý giải các sự vật, hiện tƣợng trong chiều
sâu lịch sử.
SỰ BIẾN ĐỔI TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH TẾ
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tính đến năm 2001, giá trị sản xuất nông
nghiệp tại phƣờng Yên Sở vẫn giữ vai trò chủ
yếu chiếm tới 73,74% trong cơ cấu kinh tế
của phƣờng. Sang đến giai đoạn 2002–2010,
khi tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, Yên Sở từ
một làng nông nghiệp truyền thống ven đô đã
trở thành một phƣờng mới của quận Hoàng
Mai thì cơ cấu kinh tế bắt đầu có sự chuyển
dịch rõ nét và mạnh mẽ: giá trị sản xuất nông
nghiệp giảm xuống đứng vị trí thứ hai trong
khi đó tỷ trọng các ngành thƣơng mại, dịch
vụ, vận tải, xây dựng tăng nhanh và đóng vai
trò quan trọng.
Hình 1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn
2000-2010 [19]
Với đặc thù là một địa bàn có diện tích đất
nông nghiệp lớn, tỷ trọng nông nghiệp trong
cơ cấu kinh tế còn cao, trong những năm gần
đây, nông nghiệp sinh thái tại phƣờng Yên Sở
đang dần phát triển theo hƣớng sản xuất hàng
hóa, tăng tỷ trọng các loại nông sản có chất
lƣợng và giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, quá
trình đô thị hóa ngày càng nhanh, diện tích
đất nông nghiệp dần bị thu hẹp do nhu cầu
chuyển đổi mục đích sử dụng đất, cùng với đó
nhiều diện tích đất nông nghiệp bị bỏ hoang
hoặc sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả nên
tỷ trọng nông nghiệp trên địa bàn Phƣờng đã
giảm đi đáng kể qua các năm. Cụ thể, giá trị
sản xuất nông nghiệp năm 2001 chiếm tới
73,74% thì sang đến các năm 2005, 2010
giảm xuống tƣơng ứng chỉ còn 45,5% và
30,9% trong cơ cấu kinh tế của phƣờng.
Trong giai đoạn 2000-2010, do tác động của
quá trình đô thị hóa, cơ chế thị trƣờng, nhu
cầu về dịch vụ, thƣơng mại, vận tải ngày càng
73.74
52.37
45.5
38.4
30.9
23.38
35.62
45.9
51.8
58.7
2.68
13.01
8.6 9.8 10.36
0
20
40
60
80
2001 2003 2005 2007 2010
Nông nghiệp, thủy sản
Thƣơng mại, dịch vụ
Công nghiệp, xây dựng
Nguyễn Nhƣ Quyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 47 - 58
49
lớn nên nhiều cá nhân và hộ gia đình đã mạnh
dạn đầu tƣ phát triển các loại hình kinh
doanh, dịch vụ theo khả năng và nhu cầu thị
trƣờng nhƣ: dịch vụ vận tải, may mặc, đồ gia
dụng, xây dựng, dịch vụ buôn bán nhỏ, trung
chuyển và buôn bán mặt hàng thủy sản... Sự
phát triển của các ngành dịch vụ, hoạt động
thƣơng mại từng bƣớc đƣợc mở rộng đã đáp
ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của ngƣời
dân. Các hoạt động vui chơi, giải trí ngày
càng đƣợc quan tâm. Nhu cầu tiêu dùng, mua
sắm hàng hóa, vật liệu xây dựng tăng nhanh.
Hiện nay trên địa bàn phƣờng có chợ Yên
Duyên, chợ Cá, siêu thị Metro và hàng trăm
cửa hàng dịch vụ và buôn bán khác nhau. Số
doanh nghiệp trên địa bàn phƣờng cũng
không ngừng tăng lên: năm 2000 có 28 doanh
nghiệp, năm 2005 có 87 doanh nghiệp và đến
năm 2010 là 149 doanh nghiệp [18]. Vì vậy,
các ngành dịch vụ, thƣơng mại trong 5 năm
gần đây có sự phát triển và tăng trƣởng vƣợt
bậc. Cụ thể năm 2001 mới chỉ chiếm 13,58%,
đến năm 2005 đạt đến 45,9% và năm 2010 tỷ
trọng ngành thƣơng mại, dịch vụ lên tới
58,74% và giữ vai trò quan trọng nhất trong
cơ cấu kinh tế của phƣờng.
Tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng qua
các năm cơ bản đều tăng: năm 2001 là 2,68%,
2005 là 8,6% và 2010 là 10,36%. Sự phát
triển của ngành công nghiệp, xây dựng là xu
hƣớng vận động tất yếu, phù hợp với sự
chuyển dịch kinh tế trên địa bàn phƣờng do tác
động của quá trình đô thị hóa theo hƣớng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa tuy nhiên tốc độ phát
triển còn chậm và chiếm tỷ trọng thấp.
Chuyển đổi cơ cấu nội bộ ngành nông
nghiệp phường Yên Sở
* Sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp phƣờng
Yên Sở giai đoạn 2000-2010 thể hiện trƣớc
tiên qua sự biến đổi rất lớn cơ cấu sử dụng đất
nông nghiệp tại phƣờng. Cụ thể, diện tích đất
trồng lúa giảm mạnh từ 146,36 ha năm 2000
xuống còn khoảng ¼ (35,54 ha) năm 2010.
Diện tích mặt nƣớc nuôi trồng thủy sản tƣơng
tự cũng giảm mạnh từ 189,72 ha năm 2000
xuống còn khoảng ½ (88,34 ha) năm 2010.
Ngƣợc lại, tổng diện tích đất trồng hoa màu
(đậu tƣơng, lạc, ngô, rau muống, rau mồng
tơi) và diện tích đất trồng cây hàng năm
(chuối, đu đủ, quýt, quất) tăng lên đáng kể
từ 107,32 ha năm 2000 lên 189,7 ha năm
2010. Trong khi đó, tổng diện tích đất vƣờn
tạp và đất trồng cây lâu năm vốn đã ít (19,35
ha năm 2000) thì hiện nay giảm xuống còn
không đáng kể (0,67 ha) [19].
Hình 2. Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp
phường Yên Sở qua các năm [17]
* Tiếp đến là sự biến đổi trong cơ cấu giá trị
sản xuất nông nghiệp. Với đặc thù từ một xã
nông nghiệp ven đô chuyển lên phƣờng tháng
01/2004 nên diện tích đất nông nghiệp tại Yên
Sở bị thu hẹp nhanh, một số diện tích đất
trũng chuyển sang nuôi cá, thêm vào đó là
một phần diện tích đất bị bỏ hoang hay trồng
trọt kém hiệu quả nên giá trị sản xuất nông
nghiệp giảm dần. Cơ cấu trồng trọt, chăn nuôi
và thủy sản cũng có sự thay đổi lớn. Giá trị
sản lƣợng trồng trọt, chăn nuôi năm 2000
chiếm ƣu thế 62,57% giảm dần xuống
54,02% năm 2004 và đến năm 2010 là
41,54%. Trong khi đó, giá trị nuôi trồng thủy
sản tăng dần từ 37,43% năm 2000 lên 45,98%
năm 2004 và chiếm ƣu thế 58,46% năm 2010
trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp tại
phƣờng Yên Sở [17].
* Bên cạnh đó là sự chuyển đổi cơ cấu diện
tích cây trồng và vật nuôi tại phƣờng Yên Sở.
Năm 2000, diện tích một số loại cây trồng
chính là lúa (146,36 ha), lạc (54,6 ha) và rau
(10,75 ha) (trong đó diện tích lúa là chủ yếu).
Đến năm 2005, diện tích lúa giảm nhiều song
lúa vẫn là cây trồng có diện tích lớn nhất là
84,96 ha. Bên cạnh đó, diện tích các loại hoa
0
20
40
60
2000 2004 2008 2010
4
1
.2
6
3
3
.8
5
2
2
.9
2
2
4
.3
1
2
1
.3
1
2
0
.1
7 2
4
.4
2
1
7
.2
3
3
7
.4
3
4
5
.9
8 5
2
.6
6
5
8
.4
6
Trồng trọt Chăn nuôi Thủy sản
Nguyễn Nhƣ Quyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 47 - 58
50
màu và diện tích trồng rau tăng lên nhanh
chóng. Tổng diện tích các loại hoa màu và rau
là 137,37 ha. Trong đó diện tích ngô đứng thứ
hai 52,16 ha và sau đó là diện tích đất trồng
rau 36,72 ha. Tính đến năm 2010, cơ cấu diện
tích các loại cây trồng thay đổi càng mạnh
mẽ. Diện tích trồng rau là chủ yếu chiếm
64,48 ha, cung cấp rau sạch cho thành phố
khoảng 4-5 nghìn tấn, sau đó là diện tích
trồng ngô 41,36 ha, lúa 35,54 ha, lạc 19,67 ha,
đậu tƣơng 15,59 ha và cây ăn quả là 10,42 ha.
Trong cơ cấu nông nghiệp ở phƣờng Yên Sở,
ngành chăn nuôi chiếm tỷ trọng không lớn
trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp và
có xu hƣớng giảm từ 21,31% năm 2000
xuống còn 17,23% vào năm 2010. Trong giai
đoạn 2000 – 2005, số lƣợng bò sữa vẫn đƣợc
duy trì, năm 2005 là 18 con; số lƣợng trâu bò
thịt giảm từ 53 con xuống còn 32 con. Ngƣợc
lại, số lƣợng gia cầm tăng nhanh từ 9685 con
năm 2000 lên tới 28046 con năm 2005; số
lƣợng lợn cũng tăng lên đáng kể từ 4783 con
năm 2000 lên 6230 con năm 2005. Sang đến
giai đoạn 2005 – 2009, số lƣợng gia súc, gia
cầm đều giảm mạnh: bò sữa từ 18 con giảm
xuống còn 2 con; trâu bò thịt từ 32 con tiếp
tục giảm xuống còn 5 con; đàn lợn giảm từ
6230 con xuống 3351 con; gia cầm giảm từ
28046 con xuống còn 3528 con [18].
Hiện nay, lợn và gia cầm là những vật nuôi
chính và việc chăn nuôi ở phƣờng Yên Sở
tập trung chủ yếu ở ngoài bãi và khu vực
giáp ranh giữa khu dân cƣ và đất nông
nghiệp hiện còn. Chăn nuôi ngày càng trở
nên khó khăn hơn do diện tích đất, không
gian bị thu hẹp, khoảng cách từ khu dân cƣ
ra ngoài bãi khá xa bất tiện cho việc đi lại
và chăn nuôi sản xuất.
Bên cạnh nghề trồng trọt, chăn nuôi gia súc,
gia cầm từ lâu Yên Sở còn đƣợc biết đến nhƣ
một làng chuyên nghề nuôi cá. Phƣờng Yên
Sở là địa bàn có diện tích mặt nƣớc lớn nhất
(267 ha) so với các khu vực xung quanh.
Trong đó, diện tích mặt nƣớc chuyên nuôi cá
và 1 vụ lúa, 1 vụ cá là 189,72 ha (năm 1999).
Trong quá trình đô thị hóa tăng nhanh, một
phần lớn diện tích mặt nƣớc nuôi trồng thủy
sản chuyển đổi mục đích sử dụng sang các dự
án công cộng nhƣ Hồ điều hòa Yên Sở, Công
viên Yên Sở, Trạm bơm thoát nƣớc, Trạm xử
lý nƣớc thải Kết quả là hiện nay diện tích
mặt nƣớc nuôi trồng thủy sản giảm mạnh
xuống chỉ còn 88,34 ha kéo theo đó là sản
lƣợng cá cũng giảm dần qua các năm từ 800
tấn năm 2000 xuống còn 352 tấn năm 2010
[18]. Hiện nay, cá nuôi chủ yếu phục vụ nhu
cầu tiêu thụ ở thị trƣờng thành phố.
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Trên địa bàn phƣờng Yên Sở có các loại đất
chủ yếu sau: đất phù sa đƣợc bồi ở bên ngoài
đê Hữu Hồng với diện tích là 164,88 ha chủ
yếu đƣợc dùng để sản xuất nông nghiệp; đất
phù sa không đƣợc bồi ở bên trong đê Hữu
Hồng với diện tích là 579,49 ha đƣợc dùng
làm đất ở, đất chuyên dùng và đất phát triển
nông nghiệp trong đó trồng lúa, hoa màu,
nuôi cá là chính [1].
Hình 3. Hiện trạng sử dụng đất phường Yên Sở
năm 2000, 2005 và 2010 [19]
Do tác động trực tiếp của tiến trình đô thị hóa,
cơ cấu sử dụng đất tại phƣờng Yên Sở có
nhiều sự thay đổi lớn: diện tích đất nông
nghiệp sụt giảm nhanh, đất chuyên dụng và
đất khu dân cƣ tăng lên đáng kể. Đó là một
yêu cầu tất yếu, khách quan và còn có xu
hƣớng phát triển trong thời gian tới. Cụ thể,
diện tích đất nông nghiệp năm 2000 là 462,75
ha (chiếm tỷ lệ 64,8%), đến năm 2010 giảm
xuống còn 312,58 ha (42%) bao gồm 217,6 ha
đất nông nghiệp trong đồng nhƣng đã nằm
trong qui hoạch và có quyết định thu hồi và
95,2 ha đất nông nghiệp ngoài bãi chƣa nằm
trong qui hoạch thay đổi mục đích sử dụng.
0
20
40
60
80
2000 2005 2010
6
4
.4
5
7
.1
4
2
1
7
.4
1
8
.1 2
0
.6
1
5
.1 2
2
3
4
.5
2
.7
2
.7
5
2
.9
Đất nông nghiệp Đất thổ cƣ
Đất chuyên dùng Đất khác
Nguyễn Nhƣ Quyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 47 - 58
51
Nhƣ vậy, thực tế hiện nay chỉ còn 95,2 ha
diện tích đất nông nghiệp ngoài bãi. Bên cạnh
đó, đất nông nghiệp còn bị thu hẹp do những
hoạt động chƣa hợp lý của việc qui hoạch,
của những hoạt động đầu cơ kinh doanh đất.
Có tới khoảng 25 ha đất nông nghiệp bị bỏ
hoang vì nhiều lý do khác nhau. Ngƣợc lại,
diện tích đất chuyên dùng tăng nhanh lên
256,72 ha (34,5%) năm 2010 so với 107,51 ha
(15,1%) năm 2000; diện tích đất thổ cƣ cũng
tăng từ 124,32 ha (17,4%) năm 2000 lên
153,15 ha (20,6%) năm 2010 [19].
CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC
LÀM VÀ SỰ MẤT CÂN ĐỐI TRONG HOẠT
ĐỘNG KINH TẾ CỦA NGƢỜI NÔNG DÂN
DO TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA
Diện tích đất nông nghiệp giảm mạnh do tác
động của quá trình đô thị hóa mở rộng trên
địa bàn phƣờng Yên Sở khiến cho một bộ
phận không nhỏ lao động nông nghiệp chuyển
sang các hoạt động phi nông nghiệp. Điều này
làm cho cơ cấu lao động theo ngành của
phƣờng Yên Sở có sự thay đổi sâu sắc. Cụ
thể, tỷ trọng cơ cấu lao động trong ngành
nông nghiệp, thủy sản năm 2001 vẫn giữ vai
trò quan trọng nhất, chiếm tới 70,12% so với
tỷ trọng cơ cấu lao động phi nông nghiệp là
29,88%. Năm 2004, do quá trình đô thị hóa
phát triển, lao động theo ngành nông nghiệp
giảm dần xuống còn 56,78%, lao động trong
các ngành phi nông nghiệp tăng lên 43,22%.
Tuy nhiên nông nghiệp, thủy sản vẫn đóng
vai trò quan trọng trong cơ cấu lao động theo
ngành. Nhƣng tính đến năm 2010, cơ cấu lao
động theo ngành đã có sự thay đổi lớn. Cùng
với tốc độ đô thị hóa tăng nhanh diễn ra trên
địa bàn phƣờng Yên Sở và các khu vực xung
quanh, số lao động trong các ngành phi nông
nghiệp tăng mạnh chiếm tới 82,21%, đặc biệt
là số lao động trong ngành thƣơng mại, dịch
vụ, vận tải tăng lên nhanh nhất lên tới 56,57%
và giữ vai trò quan trọng nhất trong cơ cấu
lao động theo ngành của phƣờng Yên Sở [20].
Mặc dù vậy, sự chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành trên địa bàn phƣờng hiện nay còn
mang tính tự phát, kém hiệu quả. Các ngành
nghề phi nông nghiệp có quy mô nhỏ.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn
ra đồng thời cùng với quá trình đô thị hóa là
một xu thế tất yếu. Chính quá trình đó nâng
cao chất lƣợng lao động trong cơ cấu lao động
theo trình độ tại phƣờng Yên Sở. Nếu nhƣ năm
2004 số lao động đƣợc đào tạo có trình độ
30,9% thì sang đến năm 2010, số lao động đã
qua đào tạo tiếp tục tăng lên 47,2% [20].
Hình 4. Cơ cấu lao động theo ngành phường Yên
Sở giai đoạn 2000-2010 [20]
Đô thị hóa mở rộng trên địa bàn phƣờng Yên
Sở đã kéo theo sự gia tăng dân số nhanh
chóng từ 9885 ngƣời năm 2000 lên 14935
ngƣời năm 2010 [18], diện tích đất nông
nghiệp giảm mạnh và chủ yếu chuyển đổi
sang đất nhà ở và đất chuyên dùng nên không
tạo thêm đƣợc nhiều việc làm đáp ứng nhu
cầu của ngƣời dân. Chính điều này khiến
nông dân phải đối mặt với nhiều thách thức
và đang phải cố gắng tìm cách vƣợt qua.
Đối với những ngời nông dân không thể tiếp
tục nghề nông: Trong giai đoạn 2001-2010 có
tới khoảng 4488 ngƣời phải rời bỏ nghề nông
vì không còn đủ đất canh tác để mƣu sinh
[18]. Không thể tiếp tục với nghề cũ của
mình, ngƣời nông dân phải tìm đến các ngành
nghề phi nông nghiệp nhƣ kinh doanh, buôn
bán; công nhân, viên chức; làm nghề tự do,
làm thuê... Nhƣng việc chuyển đổi việc làm,
tìm một nghề mới phù hợp để có thể ổn định
trong môi trƣờng đô thị của ngƣời nông dân
thƣờng gặp nhiều khó khắn do nhiều yếu tố
tác động nhƣ tuổi tác, trình độ văn hóa cũng
nhƣ trình độ chuyên môn thấp, khó có điều
kiện học nghề... nên không đáp ứng đƣợc
những yêu cầu của công việc mới trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
0
20
40
60
80
2001 2004 2007 2010
7
0
.1
2
5
6
.7
8
3
1
.4
5
1
7
.8
9
7
.6
7
1
0
.8
5
2
2
.8
2
2
5
.6
4
2
2
.2
1
3
2
.3
7
4
5
.6
3
5
6
.5
7
Nông nghiệp, thủy sản
Công nghiệp, xây dựng
Thƣơng mại, dịch vụ
Nguyễn Nhƣ Quyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 47 - 58
52
Đối với ngƣời nông dân còn tiếp tục nghề
nông: Theo kết quả điều tra có tới 61,4% số
ngƣời đƣợc hỏi cho rằng sản xuất nông
nghiệp trong tình hình đô thị hóa tăng nhanh
gặp nhiều khó khăn hơn trƣớc do nhiều
nguyên nhân nhƣ: môi trƣờng thiên nhiên bị
thay đổi, hoạt động nông nghiệp không còn
đƣợc chú trọng, các hệ thống thủy nông nội
đồng không còn đƣợc quan tâm chăm sóc, thu
nhập từ sản xuất nông nghiệp thấp nên không
thu hút đƣợc lao động dẫn đến tình trạng thiếu
nhân lực...
MỨC SỐNG VÀ CƠ SỞ HẠ TẦNG ĐƢỢC
CẢI THIỆN
Trong giai đoạn 2005-2010, nhiều dự án và
công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị nhƣ đƣờng,
ngõ xóm của 23/29 tổ dân phố đƣợc bê tông
hóa; trƣờng học, trạm y tế, các tuyến phố Yên
Duyên, Sở Thƣợng, hệ thống đèn chiếu sáng,
hệ thống cấp nƣớc sạch, các công trình thoát
nƣớc, các di tích văn hóa đƣợc nhƣ Đình-
Chùa-Miếu-Nghèđƣợc cải thiện, trùng tu,
khôi phục và xây dựng, lắp đặt mới; đƣờng
Vành đai 3 chạy qua địa bàn phƣờng đã đƣợc
hoàn thành; Hồ điều hòa và Công viên Yên
Sở đang dần đƣợc hoàn thành...đã và đang
góp phần nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa tinh thần của ngƣời dân [18]. Tuy nhiên,
việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật
còn nhiều hạn chế tuy đã đƣợc đầu tƣ nâng
cấp nhƣng chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu; tốc độ
đô thị hóa nhanh nhƣng mạng lƣới giao thông
chƣa đồng bộ, tình trạng thiếu nƣớc sạch, úng
lụt, ô nhiễm môi trƣờng vẫn còn là vấn đề bức
xúc cần đƣợc quan tâm giải quyết.
Đô thị hóa tăng nhanh, kinh tế phát triển đã
nâng cao hơn đời sống ngƣời dân phƣờng
Yên Sở. Trong giai đoạn 1996-2010, nhà ở
trên địa bàn phƣờng có xu hƣớng chuyển
nhanh từ kiểu nhà truyền thống sang kiểu nhà
đô thị hiện đại. Theo kết quả điều tra, số
lƣợng nhà kiểu đô thị hiện đại (có 1 -3 tầng
đổ mái bằng, biệt thự, trung cư mới) tăng
nhanh từ 30,5% năm 1996 lên 52,6% năm
2004 và tính đến 2010 là 83,2%. Chính sự
chuyển đổi đất đai dƣới tác động của quá
trình đô thị hóa tạo cho cƣ dân ngoại thành cơ
hội có khoản tiền lớn và ƣu tiên hàng đầu của
nhiều hộ là cải thiện tình trạng nhà ở.
Hình 5. Các loại nhà ở tại phường Yên Sở qua
các năm
Hình 6. Các loại đồ đạc gia đình của người dân
Yên Sở
Nhà vệ sinh cũng là một trong những chỉ số
thể hiện mức sống của ngƣời dân. Theo điều
tra, số nhà vệ sinh tự hoại, bán tự hoại tăng
lên đáng kể từ 67,4% (1986-1999) lên 97,5%
(2000-2010).
Tƣơng tự, một loạt các đồ đạc phục vụ nhu
cầu cuộc sống của ngƣời dân tăng nhanh
nhƣ xe máy, máy giặt, tủ lạnh, máy điều
hòa, điện thoại
0
20
40
60
80
100
1996 2004 2010
6
9
.5
4
7
.4
1
6
.83
0
.5
5
2
.6
8
3
.2
Nhà mái ngói truyền thống Kiểu nhà đô thị hiện đại
73.4
85.6
94.5
72.2
26.3
3.2
67.6
15.6
38.7
8.5
97.6
48.3
98.2
97.5
75.8
7.4
27.8
59.8
86.9
37.6
0 25 50 75 100
Xe máy
Xe đạp
Ti vi
Điện thoại
Đầu đĩa
Chảo vệ tinh
Đài
Máy giặt
Tủ lạnh
Điều hòa
2000-2010 1986-1999
Nguyễn Nhƣ Quyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 47 - 58
53
SỰ PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO VÀ SỰ
THAY ĐỔI TRONG MỐI QUAN HỆ HÀNG
XÓM, LÁNG GIỀNG
Trong tiến trình đô thị hóa, ngƣời dân phƣờng
Yên Sở đã chịu nhiều biến đổi về mặt xã hội.
Giá cả đất đai trên địa bàn phƣờng tăng lên
nhanh chóng đã biến những nông dân có một
diện tích đất đai nào đó thành những ngƣời
nắm trong tay một tài sản lớn, còn những số
khác không có đƣợc những thuận lợi đó, lại
gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Từ đó,
đang diễn ra xu hƣớng phân hóa giàu, nghèo
giữa các gia đình ở phƣờng Yên Sở. Bên cạnh
nhiều gia đình có điều kiện xây dựng, nâng
cấp nhà ở khang trang, hiện đại và tiện nghi
vẫn còn có những gia đình cuộc sống không
có nhiều thay đổi. Con số này tiềm ẩn trong
số 12,8% số nhà mái ngói cũ hiện còn và số
hộ nghèo qua các năm.
Quá trình đô thị hóa cùng với sự tập trung, sự
tích tụ dân cƣ đô thị không đồng nghĩa với sự
cố kết cộng đồng mà ngƣợc lại, cuộc sống đô
thị còn làm cho tính cộng đồng làng xóm trên
địa bàn phƣờng Yên Sở yếu đi; ngƣời dân
sống khép kín hơn. Kết quả thu nhận đƣợc
trong cuộc điều tra về mức giao tiếp giữa
ngƣời dân với những hàng xóm nhƣ sau: 9%
số ngƣời cho là tăng hơn trƣớc khi đô thị hóa
diễn ra, nhƣng có đến 75,3% những ngƣời
đƣợc hỏi cho là đã giảm sút hơn trƣớc. Tình
cờ khi đi đƣờng 78,3%, những dịp hiếu hỉ
52,7% là hai cơ hội lớn nhất để ngƣời dân gặp
gỡ nhau, trong khi việc gặp gỡ tại nhà của
nhau hoặc tại nhà ngƣời quen chung không
nhiều (31,9% và 16,8%). Điều đó cho thấy sự
giao tiếp, mối quan hệ, tình đoàn kết, sự thƣơng
yêu gắn bó trong cuộc sống hàng ngày của cƣ
dân nơi đây đã có từ ngàn xƣa, nay đang bị
thách thức và có nguy cơ bị mờ nhạt dần.
SINH HOẠT TÍN NGƢỠNG VÀ CÁCH
THỨC SỬ DỤNG THỜI GIAN RẢNH RỖI
Ở Yên Sở, ngƣời dân theo 3 tôn giáo chính:
Phật giáo, Công giáo (300 ngƣời), Tin lành
(35 ngƣời). Trên địa bàn phƣờng có 2 chùa, 2
đền, 4 miếu và 2 đình tiêu thổ kháng chiến
giờ đƣợc khôi phục lại (đình Yên Duyên và
đình Sở Thƣợng). Trong những năm gần đây,
việc cúng tế ở đình, chùa đƣợc ngƣời dân chú
trọng hơn. Đặc biệt, lễ hội Rƣớc Nƣớc truyền
thống (2 ngày) giỗ Thành Hoàng Làng
Thƣợng đẳng Trần Khát Chân ngày 24/4 và lễ
hội Bơi chải truyền thống (2-3 ngày) dịp
tháng 8 hàng năm đƣợc nhân dân Yên Sở duy
trì tổ chức và phát triển thu hút đƣợc sự tham
gia và quan tâm của nhiều ngƣời dân trên địa
bàn phƣờng và các nơi khác [1].
Đô thị hóa tăng nhanh, kinh tế phát triển, thu
nhập và mức sống đƣợc cải thiện tạo điều
kiện cho sinh hoạt tín ngƣỡng, tôn giáo của
ngƣời dân trở nên thuận lợi và phong phú
hơn. Tỷ lệ ngƣời dân Yên Sở đi cúng đình,
chùa hiện nay so với trƣớc khi đô thị hóa tăng
lên đáng kể từ 10,9% đến 39,5% theo lứa
tuổi. Nhiều ngƣời dân còn tham gia các
chuyến hành hƣơng đến các nơi khác nhân
các dịp lễ, tết để vừa đi thăm quan vừa đi
cúng chùa.
Đồng thời đô thị hóa tăng nhanh, kinh tế phát
triển, thu nhập và mức sống đƣợc cải thiện tạo
điều kiện cho ngƣời dân có điều kiện hƣởng
thụ một cuộc sống vật chất dồi dào và cuộc
sống tinh thần phong phú. Việc sử dụng thời
gian nhàn rỗi của ngƣời dân có nhiều thay
đổi, thời gian hƣởng thụ văn hóa nhiều hơn và
cũng trở nên đa dạng và phong phú hơn.
Trong giai đoạn 1986-1999 loại hình giải trí
thu hút đƣợc sự quan tâm của ngƣời dân
nhiều nhất là thăm hỏi hàng xóm, họ hàng,
bạn bè (62,5%); nghe đài (45,7%), xem tivi
(35,2%); đi đình, đi chùa (21,7%) và các hoạt
động thể dục thể thao (16,4%). Nhƣng sang
đến giai đoạn 2000-2010, các hình thức giải
trí đƣợc ngƣời dân phƣờng Yên Sở tham gia
nhiều nhất là xem tivi, video (97,3%); tham
gia các hoạt động thể dục thể thao (34,8%);
sau đó là đi đình, đi chùa (31,5%) và đi công
viên giải trí (16,8%). Trong khi đó, hình thức
nghe đài không còn thu hút đƣợc sự tham gia
của ngƣời dân nữa (giảm từ 45,7% xuống còn
2,5%). Ngƣợc lại, một số loại hình do trƣớc
đây không có điều kiện kinh tế, thời gian
ngƣời dân ít tham gia thì nay tăng lên đáng kể
nhƣ đọc sách, báo tăng từ 3,6% lên 15,4%; đi
Nguyễn Nhƣ Quyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 47 - 58
54
công viên giải trí tăng từ 3,2% lên 16,8%; đi
xem phim, ca nhạc, hát karaoke tăng từ 2,5%
lên 10,7%; và du lịch từ 0,8% tăng lên 8,5%.
Hình 7. Cách giải trí của người dân Yên Sở trong
thời gian rảnh rỗi
BIẾN ĐỔI CẢNH QUAN VÀ MÔI TRƢỜNG
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
Quá trình đô thị hóa đem đến cho phƣờng
Yên Sở sự thay đổi về nhiều mặt nhƣng trƣớc
hết là sự thay đổi lớn lao trong cảnh quan.
Không gian nông thôn dần mất đi để nhƣờng
chỗ cho không gian đô thị hiện đại và phát
triển nhƣng cũng còn khá xô bồ, nhà cửa xây
cất đủ kiểu, nhất là các công trình nhà cửa,
hàng quán bên cạnh các trục lộ giao thông. Từ
năm 2005 đến 2009, số xây dựng trái phép
139 trƣờng hợp, lấn chiếm đất công 24 trƣờng
hợp, xây dựng có phép: 104 công trình, xây
dựng không phép: 215 công trình (bị đình chỉ,
dỡ bỏ) [19].
Đô thị hóa còn đem đến sự thay đổi về môi
trƣờng sống của cƣ dân phƣờng Yên Sở, đặc
biệt là tình trạng ô nhiễm môi trƣờng. Sự ô
nhiễm này một phần do việc tập trung dân cƣ
ngày càng cao, trong khi cơ sở hạ tầng giải
quyết vấn đề vệ sinh công cộng chƣa đƣợc
xây dựng hoặc chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu.
Hành vi ứng xử của của ngƣời dân đối với rác
thải, nƣớc thải, hình thức xử lý rác đã thay đổi
nhiều theo xu hƣớng tiến bộ. Song số rác thải
chƣa đƣợc thu gom, nƣớc sinh hoạt chƣa
đƣợc xử lý làm môi trƣờng đặc biệt là môi
trƣờng nƣớc và không khí bị ô nhiễm khiến
cho thói quen sinh hoạt của ngƣời dân thay
đổi và có sự mất cân đối. Qua điều tra chúng
tôi nhận thấy 98% ngƣời dân ở đây chuyển
sang dùng nƣớc máy trong việc ăn uống, sinh
hoạt hàng ngày; có tới 28,9% đến 30,5% số
ngƣời đƣợc hỏi trả lời sự thay đổi cảnh quan
và môi trƣờng nơi đây khiến họ cảm thấy chật
chội, ngột ngạt và không đƣợc thoải mái.
Việc quy hoạch và thực hiện quy hoạch tổ
chức lại không gian đô thị cũng tạo ra sự bất
ổn, xáo trộn trong cuộc sống của ngƣời nông
dân phƣờng Yên Sở. Có đến 78,2% những
ngƣời nông dân hiện đang còn sản xuất nông
nghiệp cho là không thể tiếp tục nghề nông
lâu dài hoặc chƣa biết sắp tới sẽ ra sao. Họ
không an tâm trong hoạt động nông nghiệp,
đầu tƣ cho sản xuất trên mảnh đất mà họ chƣa
biết mình còn giữ đến lúc nào.
Trong quá trình đô thị hóa, trộm cắp và các
tệ nạn xã hội thƣờng xảy ra là vấn đề khiến
tới 51,7% đến 56,3% ngƣời dân không an
tâm. Không an tâm nhiều nhất là những gia
đình có con cái ở tuổi thanh thiếu niên,
những ngƣời thất nghiệp và những hộ dân
mới khá lên, trong nhà có mua sắm nhiều
đồ đạc giá trị.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Nhƣ vậy, trong quá trình đô thị hóa tăng
nhanh giai đoạn 2000-2010, cơ cấu kinh tế có
bƣớc chuyển dịch quan trọng từ nông nghiệp-
dịch vụ-công nghiệp sang dịch vụ-nông
nghiệp-công nghiệp. Việc chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở và
đất chuyên dùng khiến diện tích đất nông
nghiệp ở Yên Sở giảm đi nhanh chóng. Cơ
cấu nông nghiệp có sự thay đổi lớn, nuôi cá
đƣợc chú trọng, các giống cây trồng vật nuôi
có giá trị kinh tế cao dần đƣợc đƣa vào sản
xuất phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng. Trên
cơ sở đó, đô thị hóa tác động mạnh vào sự
thay đổi cơ cấu lao động, việc làm. Các ngành
nghề phi nông nghiệp phát triển và giữ vị trí
quan trọng trong cơ cấu lao động của phƣờng.
Nguồn thu nhập từ các ngành nghề phi nông
nghiệp tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu nguồn
thu của các hộ gia đình. Các gia đình làm
nghề phi nông nghiệp thƣờng có thu nhập cao
hơn so với các gia đình thuần túy làm nông
45.7
3.6
35.2
16.4
62.5
21.7
3.2
2.5
0.8
2.5
15.4
97.3
34.8
21.9
31.5
16.8
10.7 8.5
0
20
40
60
80
100
Nghe đài Đọc
sách, báo
Xem
tivi, video
Thể dục
thể thao
Thăm hỏi
hàng xóm
Đi
đình, chùa
Đi công
viên giải
trí
Đi xem
phim, ca
nhạc, hát
karaoke
Du lịch
1986-1999 2000-2010
Nguyễn Nhƣ Quyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 47 - 58
55
nghiệp. Ngành nghề nông nghiệp tuy có vai
trò giảm sút trong cơ cấu nghề nghiệp và thu
nhập của ngƣời dân phƣờng Yên Sở nhƣng
vẫn có ý nghĩa quan trọng không thể thiếu
đƣợc trong cơ cấu kinh tế của phƣờng. Cơ sở
hạ tầng, kỹ thuật nhƣ điện, hệ thống giao
thông, trƣờng học, trạm y tế, hệ thống cung
cấp nƣớc sạch và cấp thoát nƣớc, siêu thị
đƣợc làm mới, nâng cấp và cải thiện đáng kể
cùng với mức sống ngƣời dân tăng lên đã làm
cho chất lƣợng sống ngƣời dân phƣờng Yên
Sở đƣợc cải thiện nhiều và nâng cao.
Bên cạnh những biến đổi mang tính tích cực
là chủ yếu thì tình hình kinh tế-xã hội phƣờng
Yên Sở còn có những biến đổi mang tính tiêu
cực và hạn chế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
vẫn còn chậm, chƣa bền vững so với thế
mạnh và tiềm năng khai thác của phƣờng. Các
hoạt động thƣơng mại và dịch vụ còn nhỏ lẻ,
mang tính tự phát. Diện tích đất nông nghiệp
ở Yên Sở chủ yếu đƣợc chuyển đổi sang đất ở
và đất chuyên dùng phục vụ cho quá trình
phát triển không gian đô thị hiện đại nên
không tạo thêm việc làm đồng thời làm một
số lƣợng lớn ngƣời dân trở nên mất việc làm.
Sự chuyển đổi cơ cấu lao động chủ yếu mang
tính thụ động. Lao động nhiều nhƣng trình độ
văn hóa và trình độ chuyên môn thấp trong
khi đó việc làm ít lại đòi hỏi trình độ cao hơn
khiến nhiều ngƣời dân khó kiếm việc làm ổn
định và có nguy cơ thất nghiêp lâu dài. Cơ sở
hạ tầng đƣợc cải thiện và phát triển song vẫn
còn chậm, thiếu đồng bộ và chƣa đáp ứng
đƣợc nhu cầu thực tế của cuộc sống, hệ thống
thoát nƣớc và xử lý rác rải còn yếu kém. Mức
sống của ngƣời dân phƣờng Yên Sở đƣợc
nâng lên đáng kể nhƣng chƣa bền vững, sự
phân hóa giàu nghèo trở nên nhanh hơn, rõ rệt
hơn. Không gian phƣờng Yên Sở trở thành
một không gian đô thị mang tính hiện đại hơn
nhƣng qui hoạch thiếu đồng bộ, trật tự xây
dựng còn nhiều bất cập, các kiểu kiến trúc
nhà ở mọc lên khiến không gian đô thị cũng
trở nên lộn xộn, mất mỹ quan đô thị. Môi
trƣờng sống của ngƣời dân phƣờng Yên Sở
ngày càng bị ô nhiễm. Mối quan hệ làng xóm,
tính cố kết cộng đồng đang dần mờ nhạt đi
Kiến nghị
Dựa trên cơ sở kết quả nghiên cứu tác giả đề
xuất một số ý kiến nhằm làm giảm bớt những
biến đổi kinh tế-xã hội mang tính tiêu cực
trong tiến trình đô thị hóa ở phƣờng Yên Sở.
Những kiến nghị tập trung vào việc giảm bớt
khoảng cách giữa tiến trình đô thị hóa kỹ
thuật và đô thị hóa nhân văn ở khu vực
nghiên cứu.
Thứ nhất: Về vấn đề cảnh quan, Thành phố
và phƣờng cần có qui hoạch phát triển không
gian đô thị tƣơng ứng, đồng bộ. Sớm có qui
chế kiến trúc nhà ở và qui hoạch các công
trình công cộng để sau này cảnh quan đô thị
không phải tái kiến trúc lại và ảnh hƣởng đến
sự phát triển của cộng đồng.
Thứ hai: Về ô nhiễm môi trƣờng, để giải
quyết vấn đề rác thải, các cơ quan chức năng
cần tăng cƣờng hơn nữa việc thu gom rác,
không những rác thải gia đình mà cả rác thải
ở nơi công cộng nhƣ đƣờng đi, mƣơng ngòi
hay đất trống. Yên Sở có thể tổ chức một bộ
phận có trách nhiệm thu gom rác và những
cuộc vận động nhân dân, thanh thiếu niên địa
phƣơng thu gom rác, làm vệ sinh môi trƣờng
một cách thƣờng xuyên hoặc định kỳ. Việc
này ngoài việc làm cho môi trƣờng đƣợc sạch
hơn còn giúp tăng cƣờng ý thức bảo vệ môi
trƣờng của cƣ dân.
Hiện tại đa số nƣớc thải từ sinh hoạt, từ các
nhà máy và cơ sở sản xuất thải ra ngoài môi
trƣờng chƣa đƣợc xử lý. Để giải quyết vấn đề
ô nhiễm môi trƣờng đang ngày một gia tăng,
cần xây dựng cơ sở hạ tầng thoát nƣớc. Mặt
khác, việc giải quyết vấn đề nƣớc thải cần
đƣợc quan tâm không những ở một phƣờng
hay một quận mà cần đƣợc giải quyết trên qui
mô lớn hơn, qui mô một khu vực gồm nhiều
quận, huyện hay qui mô thành phố để tránh
việc giải quyết cục bộ đƣa nƣớc thải từ nơi
này đến nơi khác.
Thành phố cần có biện pháp triệt để bắt buộc
các cơ sở sở sản xuất, các nhà máy, xí nghiệp
phải xử lý chất thải gây ô nhiễm, đặc biệt là
nƣớc thải. Mặt khác, chính quyền cần có biện
pháp khuyến khích, hỗ trợ các hộ chăn nuôi
xây dựng hệ thống xử lý chất thải vật nuôi
(hầm xử lý hoặc hầm biogas).
Nguyễn Nhƣ Quyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 88(12): 47 - 58
56
Thứ ba: Về vấn đề tệ nạn xã hội, chính quyền
phƣờng Yên Sở cần đặc biệt quan tâm, có kế
hoạch cụ thể, quyết liệt, kết hợp chặt chẽ với
các cơ quan chức năng của thành phố, các tổ
chức đoàn thể và nhân dân để truy quét, ngăn
chặn, hạn chế các tệ nạn xã hội nhƣ trộm cắp,
cờ bạc, lô đề, nghiện hútphát sinh trong quá
trình đô thị hóa, ảnh hƣởng lớn đến trật tự, an
ninh trên địa bàn phƣờng.
Thứ tư: Các hộ nông dân Yên Sở cần phải
duy trì tính đa dạng sinh kế trong mô hình
kinh tế hộ gia đình. Khi sử dụng tiền đền bù
đất nông nghiệp, các hộ gia đình không nên
chỉ đầu tƣ vào xây dựng nhà cửa, mua sắm đồ
đạcmà nên tìm cách phát huy lợi ích của số
vốn đó. Cần chú ý đến vấn đề học nghề,
chuyển đổi việc làm cho các thành viên trong
gia đình.
Thư năm: Phƣờng Yên Sở và Thành phố cần
phải triệt để tiết kiệm việc sử dụng đất nông
nghiệp vào mục đích xây dựng đô thị nhằm
hạn chế tốc độ thu hẹp diện tích đất canh tác.
Không nên bám vào lý do xây dựng cơ sở hạ
tầng, mở rộng đô thịđể thu hồi đất một cách
ồ ạt, lãng phí. Tránh tình trạng đất nông
nghiệp nằm trong qui hoạch nhƣng chƣa xây
dựng nên bị bỏ hoang nhiều năm nhƣ hiện
nay. Điều này là hết sức quan trọng vì nó liên
quan đến nhiều vấn đề nhƣ: vốn đầu tƣ, đào
tạo và bố trí lao động dôi dƣ từ sản xuất nông
nghiệp. Việc chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp
cần phải có kế hoạch chủ động, cân nhắc về
bƣớc đi, tốc độ thích hợp nếu không sẽ dẫn
đến những hậu quả xã hội nghiêm trọng.
Thứ sáu: Yên Sở là địa bàn có nhiều diện tích
đất nằm trong quy hoạch phát triển đô thị nên
cần phải có sự tuyên truyền sâu rộng để ngƣời
nông dân có nhận thức và thái độ đúng đắn
đối với việc chuyển đất nông nghiệp sang xây
dựng đô thị. Cần có chế độ thu hồi và đền bù
hợp lí trong một khoảng thời gian tƣơng đối
ngắn để ngƣời nông dân có thể thích ứng với
bối cảnh của xã hội đô thị. Thực tế tại Yên Sở
cho thấy các hộ gia đình chƣa phát huy thật
hiệu quả lợi ích của nguồn vốn từ tiền đƣợc
đền bù đất. Họ đã đầu tƣ vào mua sắm đồ đạc,
xây nhà, trả nợ, chơi bờivà hậu quả tất
nhiên là: tiền cũng hết, ruộng không còn, cuộc
sống càng trở nên khó khăn hơn.
Thứ bảy: Phƣờng cần kết hợp với thành phố,
các doanh nghiệpđể có sự hỗ trợ ngƣời
nông dân trong việc chuyển đổi nghề nghiệp:
đào tạo và bố trí nghề nghiệp cho thanh niên,
chú ý nhu cầu việc làm của lao động nữ, phát
huy các nghề phụ và tìm thị trƣờng tiêu thụ
các mặt hàng đó. Bên cạnh ƣu tiên sử dụng
lao động của các hộ gia đình bị thu hồi đất
vào các nhà máy, xí nghiệp, cần phải có
những ƣu đãi đối với những công ty tƣ nhân,
các tổ sản xuất nhỏ để họ đẩy mạnh sản xuất
nhằm thu hút thêm lao động, giải quyết việc
làm cho ngƣời nông dân mất ruộng. Trong
việc này, những ƣu đãi cần phải đi kèm với
những điều kiện cụ thể về sử dụng lao động
và tiền công hợp lý đối với ngƣời lao động.
Thứ tám: Thực tế có một bộ phận thanh niên
chƣa ý thức rõ tầm quan trọng của việc học
nghề. Cần phải giáo dục để giúp họ ý thức rõ
tầm quan trọng của việc học nghề và có một
nghề nghiệp chuyên môn để đảm bảo cuộc
sống, dù họ làm việc trong nhà máy, xí
nghiệp, cơ sở sản xuất hay tự kinh doanh, tự
tổ chức sản xuất. Việc giáo dục này càng cần
thiết đối với những thanh niên các gia đình
giàu lên nhanh chóng nhờ tiền bán hay đền bù
đất đai, ỷ lại vào tiền bạc mà lao vào việc ăn
chơi, đua đòi.
Thứ chín: Cần quan tâm, khuyến khích nhiều
hơn nữa những ngƣời dân còn diện tích đất
nông nghiệp tiếp tục duy trì canh tác, tránh để
đất bỏ hoang gây lãng phí (vấn đề thủy lợi,
bảo vệ mùa màng, rau màu, chi phí cho sản
xuất), tạo điều kiện thuận lợi cho việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi không
những về mặt kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi
mà cả trong việc thu mua, chế biến sản phẩm
đáp ứng đƣợc nhu cầu của thị trƣờng.
Những phân tích bƣớc đầu cho thấy tình hình
kinh tế-xã hội phƣờng Yên Sở có sự biến đổi
sâu sắc mang tính hai mặt trong quá trình đô
thị hóa. Những biến đổi mang tính vật chất
diễn ra nhanh hơn và rõ ràng hơn. Bên cạnh
đó, những biến đổi mang tính vô hình nhƣ
tâm lý, thói quen, văn hóa tinh thầncũng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_bien_doi_kinh_te_xa_hoi_trong_qua_trinh_do_thi_hoa_o_phuo.pdf