So sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo giữa bê thuần Brahman và bê lai Sind nuôi tại Tuyên Quang

Bê thuần Brahman 18 tháng tuổi cho tăng trọng (1,42 kg/con/ngày) cao hơn đáng kể so với bê lai Sind có tuổi tương đương (0,97 kg/con/ngày) khi vỗ béo bằng khẩu phần của thí nghiệm trong thời gian 84 ngày. Tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh của bê Brahman vỗ béo tương ứng là 53,33% và 42,85% cũng cao hơn đáng kể so với các tỷ lệ này của bê Laisind (49,06% và 40,43%). Hiệu quả sử dụng thức ăn của bê vỗ béo trong thí nghiệm khá cao và vỗ béo bê bằng khẩu phần của thí nghiệm có thể cho lợi nhuận.

pdf8 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo giữa bê thuần Brahman và bê lai Sind nuôi tại Tuyên Quang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐINH VĂN TUYỀN – So sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo... 1 SO SÁNH KHẢ NĂNG TĂNG TRỌNG VÀ CHO THỊT KHI VỖ BÉO GIỮA BÊ THUẦN BRAHMAN VÀ BÊ LAI SIND NUÔI TẠI TUYÊN QUANG Đinh Văn Tuyền1, Nguyễn Thành Nam2, Phạm Hùng Cường1 và Nguyễn Thiện Trường Giang1 1 Bộ môn Nghiên cứu Bò -Viện Chăn nuôi Thụy Phương -Từ Liêm - Hà Nội 2 Sinh viên khoa Chăn nuôi- Trường Đại học Nông nghiệp I. Hà Nội * Tác giả liên hệ: Đinh Văn Tuyền Tel: (04)7.571.692 / 0982.932.269; Fax: (04) 8.389.775: Email: vantuyen1973@gmail.com ABSTRACT Effects of breed on performance of beef steers feedloted in Tuyen Quang province An feedlot experiment using 5 lai Sind (crossbred between Red Sindhy X Yellow cattle) and 5 pure Brahman calves, all aged approximately 18 months old at the commence, was conducted in Tuyen quang Province to compare growth rate, feed conversion rate, and carcass characteristics between the two breeds of cattle. All calves were given the same diet made of maize silage, cassava powder, soybean meal and cottonseeds (10.9 Mj ME and 159g protein/kg DM) for 84 days. Results show that averaged liveweigh gain of pure Brahman calves (1.42 kg/head/day) was significantly higher (P<0.01) than that of lai Sind animals (0.97 kg/ head/day). Carcass and lean meat percentage of Brahman calves (53.33 and 42.85% of LW, respectively) were also higher than those parametters of lai Sind calves (49.06 and 40.43% LW, respectively). However, no difference in Feed Conversion Rate was observed between the two groups (P>0.05), yet the value of both groups was low (3.9 to 4.5 kg DM/kg LW gain). It was concluded that Brahman calves produced higher performance than lai Sind animals under such feedlot condition as in this experiment and that FCR of both groups was low or feed efficiency was high as compared with values reported in the literature. Keywords: lai Sind, Brahman, liveweight gain, feed conversion rate, carcass, lean meat ĐẶT VẤN ĐỀ Cơ cấu đàn bò thịt của nước ta hiện nay vẫn chủ yếu là bò địa phương và bò lai Sind. Trong tổng đàn bò 6,5 triệu con của cả nước, bò địa phương vẫn chiếm tới 74% và bò lai Sind khoảng 26% (Cục Chăn nuôi, 2006). Đàn bò địa phương của nước ta chủ yếu là bò vàng có khả năng thích nghi và chịu đựng điều kiện kham khổ rất tốt nhưng có nhược điểm là tầm vóc nhỏ bé, năng suất thịt thấp. Do đó, để nâng cao tầm vóc và khả năng sản xuất thịt của đàn bò thịt, từ những năm đầu của thế kỷ 20, các giống bò thịt có tầm vóc lớn như bò Red Sindhy (thường gọi là bò Sind), bò Ongle đã được nhập về Việt Nam và cho phối với bò vàng địa phương. Quá trình lai tạo này đã diễn ra liên tục cho đến nay. Bò lai Sind tuy có tầm vóc lớn hơn bò vàng Việt Nam nhưng nhìn chung tỷ lệ thịt vẫn còn thấp so với các giống chuyên thịt trên thế giới. Chính vì vậy mà trong những năm gần đây, khi kinh tế Việt nam có những bước tiến đáng kể, do đó nhu cầu về thịt bò chất lượng cao ngày càng tăng, thì một số địa phương đã bắt đầu nhập đàn bò thịt thuần về nuôi thử nghiệm. Đến nay tổng số bò thịt thuần đã được nhập về nuôi tại Việt Nam ước tính vào khoảng 5000 con. Trong chăn nuôi bò thịt, vỗ béo là một khâu quan trọng để làm tăng năng suất và chất lượng thịt. Do đó, để đánh giá khả năng sản xuất của bò Brahman thuần ngoại nhập thì ngoài việc theo dõi khả năng sinh trưởng, thích nghi, sinh sản cần phải đánh giá khả năng tăng trọng và cho thịt sau khi vỗ béo. Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi tiến hành đề tài “So sánh khả năng VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 14-Tháng 10-2008 2 tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo giữa bê thuần Brahman và bê lai Sind nuôi tại tỉnh Tuyên Quang ". VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thời gian và địa điểm Thí nghiệm vỗ béo được tiến hành tại Trại giống Nông Tiến - Công ty giống và vật tư nông nghiệp Tuyên Quang- Xã Nông Tiến thị xã Tuyên Quang tỉnh Tuyên Quang trong thời gian từ tháng 12 năm 2006 đến tháng 3 năm 2007. Đối tượng nghiên cứu Gia súc sử dụng cho thí nghiệm này là 05 bê đực Brahman thuần và 05 bê đực lai Sind. Vì mục đích chính của đề tài là nhằm so sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo giữa 2 giống bò (bò thuần Brahman và bò Laisind) nên bê thí nghiệm được lựa chọn để có tuổi tương đương nhau (khoảng 18 tháng tuổi). Do đó, khối lượng cơ thể khác nhau giữa 2 nhóm bê ở thời điểm bắt đầu thí nghiệm không ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Thức ăn và khẩu phần Khẩu phần vỗ béo được xây dựng từ cây ngô ủ chua, bột sắn, hạt bông và khô đỗ tương. Khẩu phần được phối hợp để đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng của bê tăng trọng trên 1kg/con/ngày theo tiêu chuẩn của Kearl (1982). Thành phần hóa học và tỷ lệ các loại nguyên liệu dùng trong khẩu phần được trình bày ở Bảng 1 và Bảng 2. Bảng 1. Thành phần hóa học của các loại thức ăn sử dụng trong thí nghiệm (% vật chất khô) Chỉ tiêu Chất khô (DM) Protein thô Mỡ Xơ thô NDF ADF Khoáng Ngô ủ chua 21,24 7,16 2,39 32,57 66,99 37,23 7,38 Hạt bông 87,70 21,93 22,05 28,08 52,56 35,95 4,57 Bột sắn 82,72 5,33 1,15 2,75 7,07 3,70 1,98 Khô dầu đỗ tương 87,01 51,76 1,40 37,88 20,28 9,93 8,07 Hỗn hợp khẩu phần1 56,65 15,86 6,45 14,36 28,73 18,35 5,16 1Hỗn hợp sau khi đã được trộn theo dạng khẩu phần hoàn chỉnh (TMR) Bảng 2. Tỷ lệ các thành phần nguyên liệu trong khẩu phần thí nghiệm1 Chỉ tiêu Tỷ lệ Cây ngô ủ chua (%) 21 Bột sắn (%) 44 Hạt bông (%) 25 Khô dầu đỗ tương (%) 8 Premix khoáng (%) 1 Urêa (%) 1 Protêin thô (g/100 g DM)2 15,86 Năng lượng (Mj ME/kg DM3 10,91 1 Tính theo vật chất khô; 2 Giá trị phân tích thực; 3 Giá trị ước tính từ thành phần hóa học ĐINH VĂN TUYỀN – So sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo... 3 Khẩu phần thí nghiệm được trộn tạo thành dạng hỗn hợp thức ăn hoàn chỉnh (TMR). Cách trộn các nguyên liệu trong khẩu phần được tiến hành theo trình tự sau: các thành phần có hàm lượng thấp trong khẩu phần (urea và khoáng) được trộn đều với nhau trước, sau đó hỗn hợp này được trộn tiếp với khô đậu tương, kế đến là hạt bông rồi đến bột sắn. Hỗn hợp thức ăn này ở dạng khô nên được trộn sẵn theo từng mẻ lớn, mỗi mẻ đủ để cho ăn trong vòng 1 tuần. Do thức ăn ủ chua được bảo quản riêng nên thành phần này được trộn với hỗn hợp thức ăn dạng khô nói trên ngay trước mỗi bữa cho bê ăn theo tỷ lệ đã định. Bố trí thí nghiệm Thí nghiệm được bố trí theo dạng ngẫu nhiên hoàn toàn gồm 2 lô, mỗi lô 5 con. Bê được nuôi nhốt cá thể và như vậy mỗi lô thí nghiệm sẽ có số n =5. Trước khi bắt đầu thí nghiệm, bê được tẩy giun sán bàng thuốc Hanmectin của Công ty Hanvet. Sau đó, bê được nuôi chuẩn bị 15 ngày để làm quen với khẩu phần thí nghiệm và tiếp đến là 84 ngày nuôi thí nghiệm. Trong giai đoạn này, bê được cho ăn tự do ngày 2 lần vào 8h sáng và 4 h chiều (Lượng thức ăn cho ăn = 110% tổng lượng ăn vào của ngày hôm trước). Tổng lượng thức ăn cho ăn và lượng thức ăn thừa được cân và ghi chép hàng ngày. Khối lượng cơ thể được cân mỗi tuần 1 lần. Bê được cho uống nước tự do và chuồng trại được vệ sinh ngày 1 lần. Sơ đồ thí nghiệm được trình bày ở Bảng 3. Bảng 3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm Chỉ tiêu Lô I (Bê lai Sind) Lô II (Bê Brahman thuần) Số lượng gia súc (con) 05 05 Thời gian nuôi chuẩn bị (ngày) 15 15 Thời gian nuôi thí nghiệm (ngày) 84 84 Phương thức nuôi dưỡng Cá thể, cho ăn tự do Cá thể, cho ăn tự do Phân tích mẫu Các mẫu nguyên liệu dùng để phối hợp khẩu phần ăn được phân tích để xác định các thành phần chất khô, protein thô, mỡ thô, xơ thô, khoáng, NDF và ADF ngay trước khi phối trộn. Các mẫu thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cũng được lấy trước khi cho ăn (ngay sau khi phối trộn) để xác định hàm lượng các thành phần hóa học trên. Mẫu thức ăn thừa cũng được lấy ngẫu nhiên 3 lần trong suốt thời gian thí nghiệm để xác định hàm lượng chất khô nhằm tính toán chính xác lượng chất khô ăn vào của bê thí nghiệm. Tất cả các chỉ tiêu phân tích đều được thực hiện tại phòng phân tích thức ăn Viện Chăn nuôi theo các qui trình đã được công nhận. Chỉ tiêu theo dõi và phương pháp xác định Các chỉ tiêu theo dõi trong thí nghiệm này bao gồm tăng trọng, lượng thức ăn ăn vào, hiệu quả sử dụng thức ăn, tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh và chi phí tiền thức ăn cho 1 kg tăng trọng. Chỉ tiêu tăng trọng của bê thí nghiệm được xác định bằng cách cân khối lượng bê 1 tuần/lần vào buổi sáng trước khi cho ăn bằng cân điện tử đại gia súc (cân RudWeigh). Lượng thức ăn ăn vào được xác định dựa trên số liệu thức ăn cho ăn và còn thừa được cân hàng ngày và kết quả phân tích chất khô của các loại thức ăn này. Chất khô ăn vào = (Thức ăn cho ăn x % chất khô) - (Thức ăn còn thừa x % chất khô). VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 14-Tháng 10-2008 4 Hiệu quả sử dụng thức ăn chính là tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng và được tính từ tổng lượng thức ăn ăn vào và tổng khối lượng tăng lên trong thời gian thí nghiệm. Tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh được xác định dựa vào kết quả mổ khảo sát và chi phí tiền thức ăn cho 1 kg tăng trọng được xác định dựa vào giá thức ăn tại thời điểm kết thúc thí nghiệm và hiệu quả sử dụng thức ăn của bê thí nghiệm. Xử lý số liệu Tất cả các số liệu được xử lý bằng chương trình phần mềm thống kê MINITAB 14. Sai khác giữa giá trị trung bình của 2 lô thí nghiệm về các chỉ tiêu khả năng ăn vào, tăng trọng, tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng, tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ thịt tinh vv... được xác định bằng phép so sánh cặp T-test trên phần mềm MINITAB 14. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Khả năng tăng trọng và tiêu tốn thức ăn Kết quả về thay đổi khối lượng, tăng trọng và tiêu tốn thức ăn của bò trong thời gian thí nghiệm được trình bày trong Bảng 4 và 5. Bảng 4. Khối lượng và tăng trọng của bò ở các lô thí nghiệm (Mean ± SD) Chỉ tiêu theo dõi Lô I Lô II P P. đầu kỳ (kg) 131,8a ± 8,29 164,8b ± 10,50 <0,05 P. 28 ngày (kg) 157,8a ± 10,80 201,8b ± 12,10 <0,01 P. 56 ngày (kg) 185,6a ± 13,20 244,3b ± 11,30 <0,01 P. 84 ngày (kg) 213,0a ± 11,10 283,8b ± 9,96 <0,01 ADG (kg/con/ngày) tháng1 0,93a ± 0,09 1,32b ± 0,07 <0,05 ADG tháng 2 1,00a ± 0,09 1,52b ± 0,07 <0,01 ADG tháng 3 0,98a ± 0,09 1,41b ± 0,07 <0,01 ADG cả kỳ 0,97a ± 0,04 1,42b ± 0,02 <0,01 Ghi chú: (ADG): tăng trọng bình quân/ngày; (P): khối lượng Mục đích chính của thí nghiệm là so sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo giữa bê thuộc 2 giống khác nhau nên tuổi bắt đầu thí nghiệm được xác định là yếu tố quan trọng cần thiết phải đồng đều. Do đó sự khác nhau về khối lượng trung bình giữa 2 lô thí nghiệm ở thời điểm bắt đầu thí nghiệm là điều không tránh khỏi do tốc độ sinh trưởng trong giai đoạn từ sơ sinh đến 18 tháng tuổi của bê thuộc 2 nhóm giống là khác nhau. Khả năng tăng trọng của bê thuần Brahman trong giai đoạn thí nghiệm cũng cao hơn hẳn bê lai Sind. Sau 3 tháng thí nghiệm, khối lượng trung bình của bê lai Sind đã tăng từ 131,8 kg lên 213,0 kg (khối lượng tăng tuyệt đối 81,2kg) trong khi bê Brahman thuần tăng từ 164,8 lên 283,8 kg (khối lượng tăng tuyệt đối 119 kg) (Bảng 4). Tăng trọng trung bình (kg/con/ngày) của bê thuần Brahman (1,42 kg/con/ngày) cao hơn đáng kể (P<0,01) so với giá trị này ở bê lai Sind (0,97 kg/con/ngày). Kết quả tăng trọng của bê thuần Brahman và bê lai Sind trong thí nghiệm của chúng tôi cao hơn khá nhiều so với kết quả của các nghiên cứu trước kia trên bò lai Zebu và lai chuyên thịt (Lê Viết Ly và cs, 1996; Vũ Văn Nội và cs, 1999; Phạm Kim Cương và cs, 2001). Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong các thí nghiệm trước, bò chủ yếu được vỗ béo bằng các phụ phẩm nông công nghiệp có hàm lượng dinh dưỡng thấp hơn các loại thức ăn sử dụng trong thí nghiệm này. ĐINH VĂN TUYỀN – So sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo... 5 Kết quả về tăng trọng của chúng tôi cũng cao hơn so với một số kết quả vỗ béo bò loại thải (0,865 - 0,921kg/con/ngày) của Victo Clarke và cs, (1997) nhưng vẫn thấp hơn đáng kể so với kết quả của McCrab và cs, 2000) trên bò thuần Brahman tại Australia (1,9 kg/con/ngày) nuôi bằng khẩu phần có hàm lượng rỉ mật cao. Tuy nhiên cần phải lưu ý ở thí nghiệm của Mc.Crab và cộng sự, bò thí nghiệm được bổ sung hocmon sinh trưởng, do đó mức tăng trọng cao hơn là có thể lí giải được. Một điểm đáng lưu ý khác trong kết quả thí nghiệm của chúng tôi là bê tăng trọng cao liên tục trong suốt 3 tháng thí nghiệm. Ở các thí nghiệm khác, nhất là các thí nghiệm vỗ béo trên đối tượng bò loại thải, khối lượng bò thường tăng cao ở tháng thứ nhất sau đó mức tăng trọng giảm dần ở tháng thứ 2 và giảm mạnh ở tháng thứ 3. Điều này có thể là do bê sử dụng trong thí nghiệm này có tuổi khá thấp (18 tháng tuổi) nên trong giai đoạn thí nghiệm, bê vẫn tiếp tục phát triển cả về thể vóc nên khối lượng tăng liên tục và ổn định. Ở các thí nghiệm khác bò thí nghiệm hầu hết đều đã trưởng thành nên tăng trọng ở tháng thứ nhất thường có sự đóng góp lớn của sự tăng trưởng bù còn các tháng sau đó thì tăng trưởng bù mất đi và khả năng tăng khối lượng của bò thí nghiệm giảm mạnh. Trong thí nghiệm mới đây trên bò lai Brahman tại Đak Lak, Vũ Chí Cương và cs, (2008) cũng đưa ra nhận xét là bê lai Brahman 18 tháng tuổi sau khi vỗ béo vẫn còn khả năng tăng trưởng mạnh. Số liệu ở Bảng 5 cho thấy lượng vật chất khô, chất hữu cơ và protein thô ăn vào trung bình/ngày của bê thuần cao hơn đáng kể so với bê lai Sind (P<0,01). Điều này là bởi khối lượng cơ thể của bê thuần luôn cao hơn bê lai Sind cùng tuổi. Chính vì thế khi ước tính lượng chất khô và protein ăn vào/đơn vị khối lượng trao đổi thì giữa 2 lô thí nghiệm không có sự sai khác đáng kể (P>0,05) (Bảng 5). Bảng 5. Lượng thức ăn ăn vào và hiệu quả sử dụng thức ăn (Mean ± SD) Chỉ tiêu Lô I Lô II Chất khô ăn vào (kg/con/ngày) 4,1a ± 0,04 5,0b ± 0,05 Chất khô ăn vào (g/kg W0,75) 85,5 ± 1,01 85,7 ± 1,07 Chất khô ăn vào (% khối lượng) 2,4 ± 0,03 2,1 ± 0,03 Chất hữu cơ ăn vào (kg/con/ngày) 3,9a ± 0,29 4,72b ± 0,21 Protein ăn vào (g/con/ngày) 0,65a ± 0,007 0,79b ± 0,007 Tiêu tốn thức ăn (kg CK/kg tăng trọng) 4,5 ± 0,30 3,9 ± 0,27 Các giá trị trung bình trong cùng một hàng có các chỉ số trên khác nhau thì khác nhau (P<0,05) Mặc dù tăng trọng của bê thuần Brahman cao hơn đáng kể so với bê lai Sind nhưng hiệu quả sử dụng thức ăn lại không có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê giữa 2 lô thí nghiệm. Tiêu tốn thức ăn cho tăng trọng của cả 2 lô thí nghiệm (đạt 3,9 và 4,5 kg DM/kg tăng trọng) đều ở mức thấp hơn rất nhiều so với kết quả của các thí nghiệm trước (VD: 6,3-7,9 kg chất khô/kg tăng trọng (Phạm Kim Cương và cộng sự., 2001); đạt 6,2-15,9 kg chất khô/kg tăng trọng (Vũ Chí Cương và cs, 1999). Tiêu tốn chất khô/kg tăng trọng của bò trong thí nghiệm của chúng tôi cũng thấp hơn khá nhiều so với các giá trị tham khảo đưa ra bởi các Tiêu chuẩn ăn như ARC (1984); NRC (1984); INRA (1989); AFRC (1993) - dao động khoảng 7,1-10,42 kg chất khô/kg tăng trọng. Tuy nhiên tiêu tốn thức ăn cho tăng trọng trong thí nghiệm của chúng tôi chỉ tương đương với kết quả của Sainz và cs. (1995) khi vỗ béo bê đực chuyên thịt giống Anh Quốc trong giai đoạn bê sinh trưởng (bê có khối lượng 237 kg khi bắt đầu và 327 kg khi kết thúc giai đoạn này). VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 14-Tháng 10-2008 6 Trong thí nghiệm của các tác giả này bê được ăn tự do khẩu phần tinh bột cao với hàm lượng CP và ME tương ứng là 14,6% và 12,5 MJ/kg vật chất khô (tương đương hàm lượng CP và ME trong khẩu phần thí nghiệm này). Trong giai đoạn nuôi lớn này bê tăng trọng 1,96 kg/con/ngày và tiêu tốn 4,3 kg DM/kg tăng trọng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong giai đoạn vỗ béo sau đó (từ khi bê có khối lượng 327 kg đến khi đạt khối lượng 481 kg - bê đã trưởng thành) bê chỉ đạt mức tăng trọng trung bình 1,22 kg/con/ngày và tiêu tốn thức ăn đã tăng lên thành 7,4 kg DM/kg tăng trọng. Như vậy, có thể thấy tuổi sinh trưởng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng thức ăn và đây có thể cũng chính là lí do giải thích cho mức tiêu tốn thức ăn thấp (hay hiệu quả sử dụng thức ăn cao) trong thí nghiệm của chúng tôi. Lí do cụ thể hơn có thể là trong giai đoạn sinh trưởng các chất dinh dưỡng được sử dụng để tổng hợp mô cơ là chính; năng lượng dùng để tích lũy mỡ thấp. Do đó, bê có thể đã sử dụng ít năng lượng cho 1kg tăng trọng hơn so với bò sắp hoặc đã trưởng thành như ở các thí nghiệm khác. Khả năng cho thịt của bê vỗ béo Để xác định khả năng cho thịt và so sánh tỷ lệ thịt của bê Brahman thuần với bê lai Sind, chúng tôi tiến hành mổ khảo sát mỗi lô 4 con. Kết quả được trình bày ở Bảng 6. Bảng 6. Một số chỉ tiêu mổ khảo sát của bê nuôi thí nghiệm (Mean ± SD) Chỉ tiêu Lô I Lô II Khối lượng thịt hơi (kg) 195,8a ± 14,54 283,8b ± 19,92 Khối lượng thịt xẻ (kg) 96,2a ± 8,95 151,5b ± 15,70 Tỉ lệ thịt xẻ (%) 49,06a ± 1,098 53,33b ± 2,500 Khối lượng thịt tinh (kg) 79,2a ± 6,95 121,8b ± 13,93 Tỉ lệ thịt tinh (%) 40,43a ± 0,981 42,85b ± 2,175 * Các giá trị trung bình trong cùng một hàng có các chỉ số trên khác nhau thì khác nhau (P<0,05) Kết quả Bảng 6 cho thấy tỉ lệ thịt xẻ và thịt tinh của bê Brahman cao hơn đáng kể so với bê lai Sind (P<0,05). Tỷ lệ thịt xẻ của bê Brahman vỗ béo (53,33%) cao hơn 4,27 đơn vị % so với giá trị tỷ lệ thịt xẻ của bê lai Sind sau vỗ béo (49,06%). Tương tự, tỷ lệ thịt tinh của bò Brahman (42,85%) cao hơn 2,42 % so với bê lai Sind (40,43%). Giá thành sản xuất thịt bò vỗ béo Kết quả phân tích giá thành sản xuất thịt khi vỗ béo bê trình bày ở Bảng 7 cho thấy nếu chỉ tính riêng phần chi phí mua thức ăn mà không tính các chi phí khác (tiền công lao động, khấu hao chuồng trại, điện, nước, lãi suất ngân hàng vv) thì giá thành để sản xuất 1 kg thịt hơi đối với bê lai Sind là 14.310 đồng và bê Brahman thuần là 12.436 đồng, thấp hơn 1.873 đồng so với bê lai Sind. So với giá bán hiện nay là khoảng 17.000 đồng/kg thịt hơi thì giá thành thức ăn/kg thịt hơi trong thí nghiệm này thấp hơn giá bán là 2.690 đồng đối với bê lai Sind và 4.564 đồng đối với bê thuần. Với khối lượng tăng lên trong giai đoạn 84 ngày vỗ béo là 81,5 kg (bê lai Sind) và 119,3 kg (bê thuần) thì chênh lệch giữa giá thành thức ăn và giá bán sẽ là 219.211 đ/con cho bê lai Sind và 544.355 đồng/con cho bê thuần. Như vậy, nếu các chi phí khác ngoài thức ăn (chi phí công lao động, khấu hao chuồng trại, điện, nước, lãi suất ngân hàng vv) không cao hơn mức 75.000/tháng (hoặc 225.000đ/3 tháng) thì vỗ béo bê lai Sind mới có thể có lãi. Trong trường hợp bê thuần Brahman thì với mức chi này việc vỗ béo vẫn có lãi. ĐINH VĂN TUYỀN – So sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo... 7 Bảng 7. Giá thành sản xuất thịt bò vỗ béo Chỉ tiêu theo dõi Lô I Lô II Giá nguyên liệu Ngô ủ chua (đ/kg) 600 600 Bột sắn (đ/kg) 2200 2200 Hạt bông (đ/kg) 2400 2400 Khô đỗ tương (đ/kg) 5200 5200 Urêa (đ/kg) 5300 5300 Premix khoáng-vitamin (đ/kg) 16000 16000 Giá thành TĂ vỗ béo (đ/kg dạng sử dụng) 1811 1811 Giá thành TĂ vỗ béo (đ/kg chất khô) 3197 3197 Chi phí tiền TĂ cho vỗ béo (đ/kg thịt hơi) 14.310 12.436 Tuy nhiên, cần lưu ý là trong cách tính này chúng tôi đặt giả thiết giá bán bò vỗ béo chỉ bằng với giá bán của các loại bò khác ở thời điểm hiện tại. Trong thực tế bò sau khi vỗ béo thường có tỷ lệ thịt cao hơn nên giá thịt hơi cũng cao hơn so với giá bò bình thường không được vỗ béo. Vì thế xác suất để vỗ béo bò có lãi trong thực tế có thể cao hơn so với phân tích của chúng tôi. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ Kết luận Bê thuần Brahman 18 tháng tuổi cho tăng trọng (1,42 kg/con/ngày) cao hơn đáng kể so với bê lai Sind có tuổi tương đương (0,97 kg/con/ngày) khi vỗ béo bằng khẩu phần của thí nghiệm trong thời gian 84 ngày. Tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh của bê Brahman vỗ béo tương ứng là 53,33% và 42,85% cũng cao hơn đáng kể so với các tỷ lệ này của bê Laisind (49,06% và 40,43%). Hiệu quả sử dụng thức ăn của bê vỗ béo trong thí nghiệm khá cao và vỗ béo bê bằng khẩu phần của thí nghiệm có thể cho lợi nhuận. Đề nghị Tiếp tục thử nghiệm trên các đối tượng bê có độ tuổi khác và với khẩu phần vỗ béo khác nhau. TÀI LIỆU THAM KHẢO AFRC (1993). Energy and Protein Requirements for Ruminants. University Press, Cambridge, UK ARC (1984). The Nutrient Requirements for Ruminant Livestock. Suppl 1. Commonwealth Agricultural Bureau, Slough, UK. Cục Chăn nuôi. (2006). Báo cáo tổng kết chăn nuôi giai đoạn 2001-2005 và định hướng phát triển chăn nuôi thời kỳ 2005-2015. INRA (1989). Ruminant Nutrition recommended allowance and Feed Tables, INRA, Paris, France. Kearl, L. C. (1982). Nutrient Requirements of Ruminants in Developing Countries. International Feedtuffs Institute. Utah Agricultural Experiment Station. Utah State University, Logan, USA. VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 14-Tháng 10-2008 8 Lê Viết Ly, Vũ Văn Nội, Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương và Nguyễn Quốc Đạt, (1996). Nuôi bê lai hướng thịt bằng thức ăn bổ sung từ nguồn phụ phẩm nông nghiệp tại miền Trung. Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật chăn nuôi 1994-1995. NXB. Nông nghiệp 1996, tr: 135-140. McCrabb G.J., Noi, V.V., O'Neill, C.J. and Hunter, R.A, (2000). The effect of quality of the forage component of high molasses diets for beef production. Asian - Australasian Journal of animal science 13 (Suppl. B): pp 120 NRC (1984) The nutrient requirements of beef cattle, Washington DC, USA. Phạm Kim Cương, Vũ Chí Cương, Vũ Văn Nội, Đinh Văn Tuyền, Nguyễn Thành Trung, (2001). Nghiên cứu sử dụng rơm lúa trong khẩu phần bò thịt. Các báo cáo khoa học của đề tài KHCN 08-05. Tr: 174-187. Sainz, R. D., De la Torre, F and Oltjen, J. W, (1995). Compensatory growth and carcass quality in growth- restricted and refed beef steers. Journal of animal science 73. pp: 2971- 2979. Victor J. Clarke, Lê Bá Lịch và Đỗ Kim Tuyên, (1997). Kết quả chuyển giao kỹ thuật vỗ béo bò bằng khẩu phần cao năng lượng dựa trên nền bột sắn với 3% urea. Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y. Phần chăn nuôi gia súc. Hà nội, 1997.Tr: 41-48. Vũ Văn Nội, Phạm Kim Cương và Đinh Văn Tuyền, (1999). Sử dụng phế phụ phẩm và nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương để vỗ béo bò. Báo cáo khoa học Chăn nuôi Thú y - Huế 28-30/6/1999. Tr: 25-29. Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Vũ Văn Nội, Đinh Văn Tuyền, Nguyễn Thành Trung và Mc Crabb. G. (1999). Nghiên cứu sử dụng hàm lượng rỉ mật cao để vỗ béo bò. Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi 1999. Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Nguyễn Thành Trung và Phạm Thế Huệ, (2008). Ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ lệ các loại thức ăn giàu protein (protein thực vật và nitơ phi protein) trong khẩu phần đến khả năng tăng trọng và hiệu quả kinh tế khi vỗ béo bò lai Brahman tại Đắk Lắk. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi Số 13 /tháng 8-2008. *Người phản biện: TS. Mai Văn Sánh; TS. Vũ Văn Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfb4_dinhvantuyen_7995.pdf