Rối loạn tâm thần ở những người sử dụng chất dạng amphetamine điều trị nội trú tại viện sức khỏe tâm thần

Rối loạn tâm thần rất thường gặp ở những người sử dụng chất dạng amphetamine. Nghiên cứu nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng các rối loạn tâm thần ở những người sử dụng chất dạng amphetamine điều trị nội trú tại Viện sức khoẻ Tâm thần - bệnh viện Bạch Mai. Kết quả cho thấy bệnh nhân chủ yếu là nam giới (91%), nhóm tuổi sử dụng phổ biến là 20 – 29 (70,5%). Triệu chứng loạn thần chủ yếu là hoang tưởng (68,2%), trong đó hoang tưởng bị hại 90%, hoang tưởng bị theo dõi 83,3%. Ảo giác hay gặp nhất là ảo thanh (56,8%), ngoài ra còn có ảo thị (22,5%) và ảo xúc (5%). Tình trạng căng thẳng do hoang tưởng có thể dẫn tới kích động bạo lực bao gồm cả khuynh hướng giết người và tự sát.

pdf9 trang | Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 290 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rối loạn tâm thần ở những người sử dụng chất dạng amphetamine điều trị nội trú tại viện sức khỏe tâm thần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
118 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Summary THE USE OF MOHS MICROGRAPHIC, RADICAL SURGERY FOR PENILE SQUAMOUS CELL CARCINOMA The objective of this study was to assess the results of Mohs micrographic and radical surgery for penile squamous cell carcinomas. Methods: 55 penile squamous cell carcinoma patients whose tumors included 2(3.6%) Tis, 13(23.6%) T1, 31(56.4%) T2, 7(12.7%) T3, 2(3.6%) T4 under- went the Mohs Micrographic, Radical Surgical procedure. Results: There was no recurrent penile squamous cell carcinoma observed after ... months of postoperation. Three patients died of visceral metastasis, another patient died of multiple organ failure. 65.5% of patients urinated normally, 34.5% of patients had difficulty in urinating. 25.5% of patients could make sexual intercourse as usual, 29.1% of patients had some difficulty in performing sexual intercourse, 36.4% of patients experienced completed impotent, 9.1% of patients lost their sex drive. In conclusions, Mohs micrographic surgery is a good method in removing penile squamous cell carcinoma but preserved the function of the penis in a majority of patients.. Keywords: penile squamous cell carcinoma RỐI LOẠN TÂM THẦN Ở NHỮNG NGƯỜI SỬ DỤNG CHẤT DẠNG AMPHETAMINE ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI VIỆN SỨC KHỎE TÂM THẦN Trần Thị Hồng Thu1, Trần Hữu Bình2 1Bệnh viện Tâm thần Mai Hương, 2Trường Đại học Y Hà Nội Rối loạn tâm thần rất thường gặp ở những người sử dụng chất dạng amphetamine. Nghiên cứu nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng các rối loạn tâm thần ở những người sử dụng chất dạng amphetamine điều trị nội trú tại Viện sức khoẻ Tâm thần - bệnh viện Bạch Mai. Kết quả cho thấy bệnh nhân chủ yếu là nam giới (91%), nhóm tuổi sử dụng phổ biến là 20 – 29 (70,5%). Triệu chứng loạn thần chủ yếu là hoang tưởng (68,2%), trong đó hoang tưởng bị hại 90%, hoang tưởng bị theo dõi 83,3%. Ảo giác hay gặp nhất là ảo thanh (56,8%), ngoài ra còn có ảo thị (22,5%) và ảo xúc (5%). Tình trạng căng thẳng do hoang tưởng có thể dẫn tới kích động bạo lực bao gồm cả khuynh hướng giết người và tự sát. Từ khóa: rối loạn tâm thần, chất dạng amphetamine  I. ĐẶT VẤN ĐỀ Chất dạng amphetamine (ATS) là một nhóm chất ma túy tổng hợp có tác dụng kích thích mạnh hệ thần kinh trung ương. Các chất phổ biến nhất của nhóm này là amphetamine, methamphetamine và MDMA (ecstasy, thuốc lắc) [1]. Loạn thần do sử dụng ATS là hậu quả tác động trực tiếp và kéo dài của ATS lên não. Loạn thần xuất hiện không những do nồng độ 9. Kroon BK, Horenblas S, Nieweg OE. (2005). Contemporary management of penile squamous cell carcinoma, Journal of surgical oncology, 89, 43 - 50. TCNCYH 82 (2) - 2013 119 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Địa chỉ liên hệ: Trần Thị Hồng Thu, bệnh viên Tâm thần Mai Hương Email: drthu91@yahoo.com Ngày nhận: 06/01/2013 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013 ATS cao trong cơ thể mà ngay cả khi người bệnh đã ngừng sử dụng ATS [2]. Loạn thần do sử dụng ATS có thể liên quan với các hành vi bạo lực, đặc biệt là trong giai đoạn bị nhiễm độc, là yếu tố dẫn đến tình trạng gia tăng tội phạm hình sự, tăng nguy cơ tự sát hoặc tự gây thương tích, tăng tỷ lệ nhập viện [3]. Hoang tưởng và ảo thanh là hai triệu chứng phổ biến nhất của loạn thần do sử dụng ATS [4]. Tại viện Sức khỏe Tâm thần Bạch Mai các trường hợp rối loạn tâm thần do sử dụng ATS đến khám và điều trị ngày càng tăng. Năm 2010 chỉ có 26/306 số lượt người bệnh vào điều trị rối loạn tâm thần do ma túy có sử dụng ATS (chiếm 8,5%); năm 2011, tỷ lệ này là 59/348 (chiếm 17%). Để làm sáng tỏ đặc điểm lâm sàng các rối loạn tâm thần do sử dụng ATS, đề tài “Đặc điểm lâm sàng rối loạn tâm thần ở những người sử dụng ATS điều trị nội trú tại viện Sức khỏe tâm thần được thực hiện với mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn tâm thần ở những người sử dụng ATS điều trị nội trú tại Viện sức khoẻ Tâm thần bệnh viện Bạch Mai. 2. Nhận xét kết quả điều trị những bệnh nhân trên. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Chúng tôi tiến hành nghiên cứu 44 bệnh nhân được chẩn đoán xác đinh là rối loạn tâm thần liên quan sử dụng các chất dạng amphetamine theo ICD - 10 [5], điều trị nội trú tại viện Sức khỏe Tâm thần, bệnh viện Bạch Mai từ tháng 8/2011 đến tháng 8/2012. 2. Phương pháp - Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. - Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả bệnh nhân điều trị nội trú tại viện Sức khỏe Tâm thần Bạch Mai, được chẩn đoán xác đinh là rối loạn tâm thần liên quan sử dụng các chất dạng amphetamine theo ICD - 10. - Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân sử dụng chất ma túy (heroin, ATS) trong thời gian điều trị. Bệnh nhân có tổn thương thực tổn não, có tiền sử mắc bệnh tâm thần trước khi sử dụng các chất dạng amphetamine, đang mắc các bệnh cơ thể nặng: tim mạch, suy gan, suy thận, tâm phế mạn, bệnh cấp tính, nhiễm HIV/ AIDS, phụ nữ có thai. 3. Phương pháp thu thập thông tin + Công cụ nghiên cứu: Bệnh án nghiên cứu chuyên biệt dùng để nghiên cứu đặc điểm triệu chứng loạn thần. Bộ câu hỏi dành cho bệnh nhân và cho người nhà bệnh nhân. Thang đánh giá rối loạn tâm thần BPRS của Overall J.E., Gorham D.R. và cộng sự (1962, 1988). Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn tâm thần do sử dụng chất kích thích theo ICD - 10 [5]. Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng cai chất kích thích theo ICD - 10. + Kỹ thuật thu thập thông tin: Phỏng vấn bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. Khám lâm sàng, xét nghiệm cơ bản. Làm trắc nghiệm đánh giá tiến triển các rối loạn tâm thần theo thang BPRS, đồng thời đánh giá hiệu quả điều trị theo mức độ thuyên giảm triệu chứng lâm sàng theo thang CGI. - Các chỉ số, biến số nghiên cứu: Các chỉ số độc lập (tuổi, nghề nghiệp, học vấn...). Thời gian sử dụng ATS, địa điểm sử dụng ATS. Chỉ số về các triệu chứng rối loạn tâm thần do 120 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ATS. Chỉ số về triệu chứng hoang tưởng, ảo giác theo từng ngày điều trị. - Xử lý số liệu: phương pháp thống kê y học, ứng dụng phần mềm SPSS 16.0. 4. Đạo đức nghiên cứu Đề tài nghiên cứu theo phương pháp mô tả. Mọi chỉ định trong các liệu pháp điều trị hoàn toàn do các bác sĩ quyết định theo tình trạng bệnh nhân. Đối tượng nghiên cứu và người nhà đã được thông báo về mục đích của nghiên cứu, tự nguyện tham gia và không được sử dụng bất cứ dịch vụ bất hợp pháp nào trong quá trình nghiên cứu (heroin, chất gây nghiện khác). III. KẾT QUẢ Đặc điểm chung của nghiên cứu Nghiên cứu 44 bệnh nhân sử dụng ATS điều trị nội trú tại viện Sức khỏe Tâm thần: Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu 25,7 ± 5,3. Tỷ lệ nam (84%) gặp nhiều hơn nữ (16%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Số bệnh nhân giảm dần theo với lứa tuổi. Học vấn trung học cơ sở và phổ thông trung học chiếm chủ yếu (25%; 64,6%). Thời gian sử dụng ATS trung bình 2,2 ± 0,3 năm, ít nhất 4 tháng, dài nhất 7 năm. Tình trạng sử dụng từ hai loại ma túy trở lên cùng một lần hoặc các lần khác nhau tương đối phổ biến: 38,6% sử dụng với rượu, 20,5% sử dụng với heroin, 15,9% cùng với cần sa, 13,6% với ketamin. Đa số là bệnh nhân nhập viện lần đầu 40/44 (91%). 2. Đặc điểm lâm sàng 2.1. Đặc điểm rối loạn tâm thần Bảng 1. Rối loạn hoạt động Rối loạn hoạt động n % Rối loạn hoạt động ý chí - Không 1 2,3 - Giảm hoạt động 10 22,7 - Tăng hoạt động 11 25,0 - Kích động 22 50,0 Rối loạn hoạt động bản năng - Chán ăn 43 97 - Khó ngủ 15 34,1 - Mất ngủ 29 65,9 - Giảm ham muốn tình dục 25 56,8 - Tăng ham muốn 1 2,3 Bảng 1 cho thấy, người bệnh có tình trạng kích động (50%), tăng hoạt động (25%). Trong các rối loạn hoạt động bản năng, chán ăn chiếm tỷ lệ cao (97%), mất ngủ (65,9%), tăng ham muốn tình dục 2,3%. TCNCYH 82 (2) - 2013 121 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Biểu đồ 1. Các triệu chứng dương tính theo thang BPRS Biểu đồ 1 cho thấy các triệu chứng dương tính ở bệnh nhân nghiên cứu biểu hiện rầm rộ, cấp tính. Các triệu chứng lời nói không thích hợp chiếm tỷ lệ cao (54,5%), ảo giác mức độ trung bình (25%), ảo giác mức độ nặng (47,8%), hoang tưởng bị theo dõi 43,2% ở mức độ trung bình và 36,4% mức độ nặng. Tình trạng kích động đi kèm với hoang tưởng ảo giác làm cho bệnh cảnh lâm sàng càng thêm phức tạp, dễ liên quan đến vấn đề an ninh xã hội [6]. Biểu đồ 2. Các triệu chứng âm tính theo thang BPRS Trái ngược với mức độ nặng của triệu chứng dương tính, biểu đồ 2 cho thấy phần lớn các triệu chứng âm tính ở mức độ từ nhẹ, rất nhẹ (29,5 -– 34,2%) đến trung bình (18,7% - 25%), chỉ có 2,3% có chậm chạp tâm thần vận động và lười vệ sinh cá nhân mức độ nặng. 34,2% 29,5% 29,5% 29,5% 18,7% 25% 2,3% 0 2,3% Lười vệ sinh cá nhân Cảm xúc cùn mòn Thu rút cảm xúc Chậm chạp tâm thần  vậnđộng Nhẹ, rất nhẹ Trung bình Nặng, rất nặng 25% 29,5% 122 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2.2. Đặc điểm hội chứng cai ATS Biểu đồ 3. Các triệu chứng cai ATS theo DSM - IV Biểu đồ 3 cho thấy triệu chứng cai cũng gặp hầu hết ở các bệnh nhân nhóm nghiên cứu, phổ biến là cáu gắt (77,7%), mệt mỏi (79,5%), mất ngủ (95,5%). Đặc biệt có tỷ lệ các biểu hiện trầm cảm khá cao (61,4%). Bảng 3. Tiến triển các hội chứng tâm thần chủ yếu trong quá trình điều trị Tên hội chứng và mức độ Khi vào viện Khi vào viện p n1 % n2 % Hội chứng trầm cảm 0,05 - Nhẹ 4 9,1 0 - Vừa 5 11,4 7 15,9 - Nặng 6 13,6 0 Hội chứng kích thích suy nhược 0,05 - Nhẹ 16 36,4 19 43,2 - Vừa 21 47,7 1 2,3 - Nặng 5 11,4 0 Hội chứng paranoid 0,05 - Nhẹ 3 6,8 5 11,4 - Vừa 15 34,1 2 4,5 - Nặng 9 20,5 1 2,3 Hội chứng cai - Nhẹ 11 25,0 6 13,6 - Vừa 24 54,5 2,4,5 - Nặng 3 6,8 0 0,05 77,3% 79,5% 4,5% 95,5% 2,3% 34% 61,4% Bồn  chồn, cáu  gắt Mệt mỏi Ngủ nhiều Mất ngủ Thèm ăn Ác mộng Trầm cảm Triệu chứng cai ATS TCNCYH 82 (2) - 2013 123 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 3 cho thấy hội chứng cai ATS được cải thiện rõ rệt ở thời điểm sau khi ra viện so với khi vào viện, khác nhau có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Bảng 4. Tiến triển các triệu chứng loạn thần chủ yếu trong quá trình điều trị Triệu chứng Khi vào viện Khi ra viện p n % n % Hoang tưởng 30 68,2 8 26,7 0,05 Ảo giác 32 72,7 9 28,1 0,01 Kích động 22 50,0 2 7,2 0,01 Kết quả bảng 4 cho thấy, hầu hết các triệu chứng loạn thần thuyên giảm và mất đi trong vòng 1 tuần điều trị ở 2 thời điểm khác nhau, có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). IV. BÀN LUẬN Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu: Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu 25,7 ± 5,3, đây là độ tuổi lao động, chính vì vậy hậu quả về xã hội rất lớn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với kết quả của nghiên cứu khác trên thế giới là 27,11 ± 7,62 [6], Trịnh Tất Thắng (2012) tìm thấy tuổi trung bình 26,77± 5,81. Tỷ lệ bệnh nhân nữ sử dụng ATS là 16%, tương đối nhiều so với các chất gây nghiện khác như rượu, opiats. Theo Trịnh tất Thắng có tới 22,8% là nữ, Nguyễn Mạnh Hùng là 21,74%. Đa số những người sử dụng ATS có học vấn thấp, từ cấp III trở xuống và không có nghề hoặc nghề tự do (63,6%). Chỉ 1 đối tượng có trình độ đại học và đang là công chức nhà nước (2,3%). Nhiều bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đã bỏ học khi đang học trung học phổ thông. Thời gian sử dụng ATS thường gặp nhất là 1 - 3 năm (54,5%), trên 3 năm (20,4%). Tuy nhiên, có tới 25% sử dụng dưới 1 năm, đây là điểm khác biệt với một số nghiên cứu nước ngoài. Kết quả này có thể do ATS mới phổ biến tại Việt Nam trong vài năm gần đây [3], mặt khác trình độ hiểu biết về ATS của lớp trẻ Việt Nam còn hạn chế (cho rằng ATS không gây nghiện) dẫn tới sử dụng tần suất cao, liều cao. Tần suất sử dụng hàng ngày trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm đa số (56,8%), sử dụng hàng tuần 38,6% và hàng tháng là 4,5%. Theo Christian và CS (2007) nghiên cứu trên người nghiện ATS tại Mỹ: tần suất sử dụng ATS hiện tại cao hơn và liên quan chặt chẽ với loạn thần [7]. ATS thường sử dụng qua đường uống, hút, hít hay tiêm chích. Tuy nhiên, tại Việt Nam, hình thức sử dụng phổ biến nhất là đường hút hoặc nuốt. Tầm quan trọng của cách thức sử dụng không chỉ do sinh khả dụng của thuốc (nồng độ ATS trong máu), mà còn do ảnh hưởng của ATS với hoạt động của não (Chesher 1993). Mô hình “chơi cho đã – binge use” hoặc “chạy tốc độ - speed run” (tần suất cao, liều cao) là mô hình sử dụng ATS nguy hiểm nhất. Một cuộc “chạy tốc độ” với ATS có thể kéo dài suốt cả ngày hoặc hàng tuần. Sử dụng ATS lặp lại theo cách này dẫn đến nồng độ ATS quá cao trong cơ thể, làm 124 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC tăng nguy cơ các hiệu ứng độc hại và loạn thần (Chesher 1993). Đặc điểm loạn thần: Đa số bệnh nhân vào viện trong tình trạng như một cấp cứu tâm thần trong trạng thái loạn thần rõ rệt hoặc trầm cảm có ý tưởng và hành vi tự sát. Người bệnh nhập viện vì lý do kích động gặp nhiều nhất (22%). Đặc biệt trong giai đoạn bị nhiễm độc, sử dụng ATS rất dễ liên quan với các hành vi bạo lực. Chính vì vậy, loạn thần do sử dụng ATS có thể là yếu tố dẫn đến tình trạng gia tăng tội phạm hình sự [7]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy loạn thần do sử dụng ATS chủ yếu là hoang tưởng chiếm tỷ lệ 68,2 %, ảo giác 72,7% . Ảo giác hay gặp nhất là ảo thanh (56,8%), ngoài ra còn có ảo thị (22,5%) và ảo xúc (5%). Kết quả này phù hợp với Lý Trần Tình (2012) hoang tưởng bị hại 63,63%, hoang tưởng bị theo dõi 42,42%, ảo giác hay gặp nhất là: ảo thị 72,73%, ảo thanh 39,39%. Theo Trịnh Tất Thắng, 80,6% các trường hợp có hoang tưởng. Kết quả này không tương đồng với kết quả của M. Srisurapanont và cộng sự (2003, n = 168) với hoang tưởng bị theo dõi 44,6%, ảo thanh 22,8% có lẽ là do nghiên cứu của M. Srisurapanont đã đánh giá triệu chứng sau nhiều ngày điều trị. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với đa số tác giả khác, theo Santo (1992) có ít nhất 75% bệnh nhân có hoang tưởng và/hoặc ảo giác do sử dụng ATS. Một số nghiên cứu cho rằng đặc điểm chính của loạn thần do sử dụng ATS là hoang tưởng bị hại, hoang tưởng liên hệ, ảo thanh và ảo thị (Ellinwood, 1967). Loạn thần ATS rất giống với tâm thần phân liệt paranoid (Davis Schlemmer, 1980; Baker và Dawe, 2005). Phần lớn bệnh nhân có các triệu chứng loạn thần giảm dần trong vài ngày. Bảng 4 cho thấy, các triệu chứng thuyên giảm nhanh trong tuần đầu điều trị, chỉ có tỷ lệ nhỏ các trường hợp hoang tưởng và ảo giác thuyên giảm không hoàn toàn (7,2%). Tuy nhiên một số nghiên cứu đã xác định thời gian hồi phục lâu hơn. Iwanami (1994) nhận xét rằng các rối loạn tâm thần mất đi trong vòng một tuần (39%), 1 đến 2 tuần (16%), 6% từ 2 tuần đến một tháng và 10% loạn thần từ 1 đến 3 tháng. Khoảng 1/4 số người sử dụng methamphetamine tại bệnh viện tâm thần ở Đài Loan vẫn còn biểu hiện loạn thần tới hơn một tháng sau khi ngừng thuốc và gần 13% bị loạn thần tới hơn 6 tháng (Chen, Lin Sham, 2003). Kết quả của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu: trầm cảm chiếm 51 - 92%, lo âu 60 - 76%, ảo giác 28 - 67%, hoang tưởng 33 - 78%, khí sắc không ổn định 44 - 80%, bạo lực 17 - 72%, kích động hoảng sợ 9 - 35%, ý tưởng tự sát 13 - 47% (Kaamieniecki và CS, 1998). Biểu hiện lâm sàng các triệu chứng âm tính được đánh giá theo thang BPRS trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, triệu chứng âm tính chịu ảnh hưởng của tình trạng bệnh cấp tính với tỷ lệ rất thấp, 2,3% ở mức độ nặng về lười vệ sinh cá nhân và chậm chạp vận động, 25% cảm xúc cùn mòn và thu rút cảm xúc mức độ trung bình. Triệu chứng âm tính trong nhóm nghiên cứu chiếm tỷ lệ cao nhất là lười vệ sinh cá nhân (34%) với mức độ nhẹ và rất nhẹ. Mặc dù các triệu chứng âm tính không nặng nề như các triệu chứng dương tính, nhưng sự có mặt của các triệu chứng âm tính chiếm tỷ lệ đáng kể trong số 20% bệnh nhân nghiên cứu (M. Srisurapanont và cộng sự, 2003). Đặc điểm hội chứng cai: hội chứng cai ATS chủ yếu là các triệu chứng tâm thần với cảm giác mệt mỏi tột độ và khó chịu. Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy khí sắc trầm buồn (61,4), mệt mỏi, cảm giác kiệt sức TCNCYH 82 (2) - 2013 125 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC (79,5%), mất ngủ (95,5%), ngủ nhiều (4,5%), bồn chồn, bứt rứt khó chịu (77,3%), tăng cảm giác thèm ăn (2,3%), những giấc mơ đáng sợ và sống động (ác mộng) (34%). Ngoài ra người bệnh còn có cảm giác bị theo dõi, hoặc cảm xúc giận dữ. Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu khác, theo Jenner & Saunders (2004), triệu chứng cai có thể giống với triệu chứng nhiễm độc cấp tính, đặc biệt là kích động mạnh. Theo Jenner Saunders (2004), thời gian và mức độ nặng của hội chứng cai ATS điển hình vẫn còn chưa rõ ràng. Nghiên cứu của McGregor và cộng sự (2005) cho thấy, phần lớn các triệu chứng cai thuyên giảm và hết trong vòng một tuần sau điều trị, với sự cải thiện của giấc ngủ và sự ngon miệng sau 1 đến 2 tuần. Nhận xét kết quả điều trị: trong nghiên cứu của chúng tôi, an thần kinh cổ điển Haloperidol được sử dụng nhiều nhất (65,8%) dạng tiêm, với liều giảm dần trong các ngày tiếp theo, khi tình trạng loạn thần cấp đã hết, chuyển dùng các thuốc an thần kinh mới là Risperidone (38,5%), Olanzapine (38,5%) và Seroquel (23%). Thuốc Benzodiazepin chỉ cần sử dụng trong một thời gian ngắn. Thời gian điều trị trung bình ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 7,3 ± 2,5 ngày. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với một số tác giả, theo Bùi Quang Huy (2011) quá trình điều trị cần kéo dài trong 4 tuần, theo Lý Trần Tình là 25,5 ± 15,5 ngày. Điều này liên quan đến sự phụ thuộc một phần vào quy định của mỗi cơ sở và bệnh viện khác nhau. V. KẾT LUẬN Tiến hành nghiên cứu 44 bệnh nhân có rối loạn tâm thần do sử dụng ATS điều trị tại viện Sức khỏe Tâm thần, chúng tôi rút ra một số kết luận: Bệnh nhân chủ yếu là nam giới (91%), nhóm tuổi hay gặp nhất từ 20 - 29 tuổi (70,5%). Lâm sàng: ảo giác hay gặp nhất là ảo thanh (56,8%), ảo thị (22,5%) và ảo xúc (5%). Hoang tưởng xuất hiện ở 68,2%, trong đó hay gặp nhất là hoang tưởng bị hại (90%), hoang tưởng bị theo dõi (83,3%). Điều trị các triệu chứng loạn thần bằng an thần kinh (92,2%), chủ yếu là Haloperidol (65,8%). Phần lớn các triệu chứng loạn thần thuyên giảm và mất hẳn sau khi những ảnh hưởng cấp tính của ATS giảm xuống, thường là trong một vài ngày. Lời cám ơn Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia đã tạo điều kiện giúp đỡ chúng tôi thực hiện đề tài này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kathleen M. Grant, Tricia D. LeVan, Sandra M (2012). Methamphetamine- Associated Psychosis; J Neuroimmune Pharmacol. 7, 113 - 139. 2. Sato, M., Chen, C.C., Akiyama, K. & Otsuki, S (1983). Acute exacerbation of paranoid psychotic state after long-term absti- nence in patients with previous methampheta- mine psychosis. Biological Psychiatry, 18(4), 429 - 440. 3. Srisurapanont M, Kittiratanapaiboon P, Jarusuraisin N. (2004). Treatment for am- phetamine psychosis (Cochrane Review). In: The Cochrane Library, Issue 3, Chichester, UK: John Wiley & Sons, Ltd. 1 - 12. 4. Zweben, J.E., Cohen, J., Christian, D et al (2004). American Academy of Addiction Psychiatry. Psychiatric symptoms in metham- phetamine users. The American Journal on Addictions, 13, 181 - 190. 126 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 5. Nguyễn Việt (1995). Phác đồ điều trị nghiện ma túy bằng thuốc hướng thần. Kỷ yếu hội nghị khoa học về các phương pháp điều trị nghiện ma túy, Bộ Y tế, Viện Sức khoẻ Tâm thần, Hà Nội, 96 - 100. 6. Tổ chức Y tế Thế giới (1992). Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng chất. Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi. Hà Nội, 1 - 10. 7. Văn phòng kiểm soát ma tuý và phòng chống tộ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfroi_loan_tam_than_o_nhung_nguoi_su_dung_chat_dang_amphetamin.pdf
Tài liệu liên quan