Quá trình tìm ra vết tích của giá trị trong học thuyết MARX
Quá trình khám phá ra học thuyết giá trị của
Mác là một quá trình cách mạng vĩ đại. Cho
đến nay, học thuyết giá trị vẫn có giá trị to lơn
trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Nghiên cứu và vận dụng nó cho phép các nước
nói chung và Việt Nam nói riêng có các chiến
lược phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh
tranh một cách hiệu quả và bền vững
5 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 441 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quá trình tìm ra vết tích của giá trị trong học thuyết MARX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 81 - 85
81
QUÁ TRÌNH TÌM RA VẾT TÍCH CỦA GIÁ TRỊ TRONG HỌC THUYẾT MARX
Nguyễn Thị Hạnh*
Trường ĐH Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
C. Mác là một thiên tài về lý luận, về chính trị, về triết học duy vật biện chứng, về kinh tế chính trị
học và về chủ nghĩa xã hội khoa học. Các học thuyết của ông được coi là các cuộc cách mạng vĩ
đại trên cơ sở kế thừa và phát triển các giá trị tư tưởng của nhân loại. Nhắc tới kinh tế chính trị học
Mác người ta có thể sẽ nghĩ ngay tới “hòn đá tảng” - học thuyết giá trị thặng dư. Song cũng không
ai có thể không nhắc tới học thuyết giá trị - một học thuyết mà để khẳng định được nó Mác đã phải
trải qua một quá trình cách mạng lâu dài, một học thuyết được coi là khởi thuỷ cho Mác tiến hành
các cuộc cách mạng về sau trong sự nghiệp nghiên cứu kinh tế chính trị học của mình.
Từ khóa: học thuyết giá trị, giá trị, giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, kinh tế chính trị Mác - Lênin
QUÁ TRÌNH TÌM RA VẾT TÍCH CỦA GIÁ TRỊ*
Mác đặt nghiên cứu về giá trị ngay trong tiết
1, chương 1, phần thứ nhất của quyển I, bộ
Tư bản - một tác phẩm kinh điển trong khoa
học kinh tế chính trị. Trong lời tựa cho lần
xuất bản thứ nhất của quyển I này Mác đã
nói: “Mọi bước khởi đầu đều khó”, đủ thấy
học thuyết giá trị có ý nghĩa to lớn đến
nhường nào.
Về trình tự nghiên cứu: Mác đã chọn hàng hoá
- tiền tệ làm đối tượng nghiên cứu với một
trình tự lôgíc, với phương pháp khoa học đi từ
cụ thể tới trừu tượng để tìm ra cốt lõi của quan
hệ sản xuất. Đó chính là giá trị hàng hoá.
Về nội dung: Mác đã lần lượt đi từ giá trị sử
dụng đến giá trị trao đổi để đúc kết ra giá trị
của hàng hoá. Đó thực sự là một trình tự lôgíc
và khoa học. Đối tượng đầu tiên trong nghiên
cứu của Mác chính là hàng hoá. Nói cách
khác, Mác đã lấy hàng hoá là xuất phát điểm
để nghiên cứu và tìm ra bản chất của phương
thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Liệu có ai đó
sẽ đặt câu hỏi: “Tại sao Mác lại bắt đầu
nghiên cứu Phương thức sản xuất Tư bản chủ
nghĩa từ hàng hoá ?”. Thật đơn giản. Hàng
hoá là hình thức phổ biến nhất trong xã hội
Tư bản chủ nghĩa. Mác đã nhận xét rằng xã
hội Tư bản chủ nghĩa chẳng qua chỉ là đống
hàng hoá khổng lồ. Hơn nữa, sản xuất hàng
hoá lại là cơ sở ra đời của Chủ nghĩa tư bản,
*
Tel: 0986.351.114; Email: Flyingdance.708@gmail.com
từng hàng hoá là hình thái nguyên tố của của
cải trong xã hội tư bản. Chính vì thế, hàng
hoá – giá trị chính là cơ sở để phân tích kinh
tế chiính trị về phương thức sản xuất Tư bản
chủ nghĩa. Cũng tương tự, khi nghiên cứu học
thuyết giá trị của Mác hẳn nhiều người sẽ hỏi:
“Tại sao Mác lại chọn trình tự đi từ nghiên
cứu giá trị sử dụng của hàng hoá?”. Điều này
không khó lý giải bởi lẽ giá trị sử dụng là biểu
hiện dễ thấy nhất của hàng hoá. Hàng hoá là
sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu
cầu nào đó của con người và được sản xuất
ra để trao đổi, để bán. Ngay trong định nghĩa
về hàng hoá đã cho thấy thuộc tính hay nhân
tố đầu tiên của hàng hoá chính là khả năng
thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
Đó chính là giá trị sử dụng của hàng hoá. Giá
trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của
vật phẩm mà nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu
nào đó của con người. Bất kể hàng hoá nào
cũng đều có giá trị sử dụng. Về mặt chất, giá
trị sử dụng trước hết là tính hữu ích, là công
dụng của hàng hoá. Bất kể hàng hoá nào được
tạo ra đều mang công dụng riêng, ví dụ như
quần áo dùng để mặc, xe cộ để đi lại Giá trị
sử dụng của mỗi hàng hoá đều do những
thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hoá đó
quyết định. Tuy nhiên, mỗi vật thể lại có thể
có nhiều thuộc tính tự nhiên khác nhau, do
đó, nó có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
Việc phát hiện và tận dụng từng thuộc tính tự
nhiên có ích phụ thuộc vào trình độ phát triển
của xã hội. Tất nhiên, giá trị sử dụng là một
Nguyễn Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 81 - 85
82
phạm trù vĩnh viễn. Giá trị sử dụng xác định
mặt chất của hàng hoá bởi nó cho biết hàng
hoá đó là gì. Có công dụng gì. Mác đã chỉ rõ:
“là những giá trị sử dụng, các hàng hoá
khác nhau trước hết về chất”. Giá trị sử
dụng chỉ được thể hiện đầy đủ trong tiêu
dùng, nó là nội dung vật chất của của cải,
không kể hình thức xã hội của của cải đó như
thế nào vì chỉ khi tiêu dùng hàng hoá thì giá
trị sử dụng mới được thực hiện. Xét về mặt
lượng, một hàng hoá có thể có nhiều giá trị sử
dụng mà việc tìm ra các giá trị sử dụng ấy là
nhiệm vụ của lịch sử, phụ thuộc vào trình độ
phát triển của khoa học kỹ thuật và công
nghệ. Trong xã hội hiện đại, bên cạnh những
hàng hoá hữu hình còn có những hàng hoá vô
hình. Đó là hàng hoá dịch vụ. Với loại hàng
hoá này, giá trị sử dụng tồn tại dưới hình thái
phi vật thể, quá trình sản xuất cũng đồng thời
là quá trình tiêu dùng các loại hàng hoá này.
Xã hội ngày càng phát triển thì hàng hoá dịch
vụ càng đóng vai trò quan trọng. Ngày nay, ở
hầu hết các nước phát triển, khu vực dịch vụ
luôn chiếm giữ tỷ trọng lớn. Tựu chung lại,
một vật khi đã là hàng hoá thì nhất thiết phải
có giá trị sử dụng. Tuy nhiên, không phải bất
kỳ vật gì có giá trị sử dụng cũng là hàng hoá,
ví như không khí, nước tự nhiên, ánh sáng
mặt trớirất hữu ích nhưng đều không phải
là hàng hoá. Một vật phẩm chỉ có thể là hàng
hoá theo đúng nghĩa khi và chỉ khi nó vừa có
giá trị sử dụng, lại vừa là sản phẩm do con
người tạo ra có khả năng đem ra trao đổi, bán
trên thị trường. Vì thế, trong kinh tế hàng hoá,
một vật mang giá trị sử dụng bao giờ cũng
mang giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan
hệ về lượng, là tỷ lệ trao đổi giữa hai hàng
hoá đem ra trao đổi. Mác viết: “ Giá trị trao
đổi trước hết biểu hiện ra như một quan hệ về
số lượng, là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử
dụng loại này được đổi với những giá trị sử
dụng loại khác”. Mác cũng đưa ra ví dụ: 1
quactơ lúa mì = x. xi đánh giày. Tất nhiên, tỷ
lệ này không giống nhau ở mọi lúc, mọi nơi.
Điều đáng nói ở đây là dựa trên cơ sở nào để
có được tỷ lệ ấy? Rõ ràng hai hàng hoá đem
ra trao đổi hoàn toàn khác nhau về giá trị sử
dung. Như vậy giữa những hàng hoá này phải
có cái gì đó chung, giống nhau và tương đối
bằng nhau trong quan hệ so sánh. Mác đã tìm
ra được đáp án. Cái chung, cái giống nhau đó
chính là hao phí lao động đã mất đi để sản
xuất ra các loại hàng hoá đó. Hay mỗi hàng
hoá được sản xuất ra đều chứa đựng lao động
đã hao phí của con người. Mác gọi hao phhí
lao động ấy là giá trị của hàng hoá. Như vậy,
giá trị chính là lao động của người sản xuất
hàng hoá kết tinh trong hàng hoá, là cơ sở của
trao đổi. Đến đây ta hiểu rằng giá trị trao đổi
chính là bước chuyển tiếp quan trọng để tìm
ra giá trị. Giá trị trao đổi là biểu hiện bên
ngoài của giá trị còn giá trị là nội dung bên
trong, là biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa
những người sản xuất hàng hoá. Về mặt
lượng, Lượng giá trị được xác định bằng thời
gian lao động để sản xuất ra hàng hoá. Thời
gian lao động gồm có thời gian lao động cá
biệt và thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động cá biệt là thời gian cần
thiết để một người lao động cá biệt sản xuất
ra hàng hoá, nó cho biết giá trị cá biệt của
hàng hoá. Do mỗi người sản xuất cá biệt sản
xuất ra hàng hoá trong những điều kiện thời
gian khác nhau nên thời gian lao động cá biệt
là khác nhau, để trao đổi trên thị trường thì
không thể dựa trên thời gian lao động cá biệt
mà cần tới khái niệm thời gian lao động xã
hội cần thiết. Mác viết: “chỉ có lượng lao
động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử
dụng mới quyết định đại lượng giá trị của giá
trị sử dụng ấy”. Thời gian lao động xã hội cần
thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một
hàng hoá trong điều kiện bình thường của xã
hội, tức là với một trình độ khéo léo trung
bình và cường độ lao động trung bình so với
hoàn cảnh xã hội nhất định. Thời gian lao
động xã hội cần thiết xác định giá trị xã hội
của hàng hoá.
Trong lịch sử kinh tế chính trị, trước Mác đã
có nhiều quan niệm về giá trị lao động.
William Petty đã xác định giá trị do lao động
tạo ra, nhưng do chịu ảnh hưởng nặng nề của
phái trọng thương nên sau đó ông lại quy tất
cả các ngành về một ngành duy nhất là ngành
khai thác bạc. Adam Smith thì đưa ra hai khía
niệm về giá trị. Thứ nhất, theo A.Smith, giá
Nguyễn Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 81 - 85
83
trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá
quyết định. Lao động là thước đo thực tế của
mọi giá trị. Với định nghĩa này ông là người
đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao
động. Tuy nhiên, định nghĩa thứ hai mà ông
đưa ra lại rất luẩn quẩn. Ông cho rằng giá trị
do lao động mà người ta có thể mua được
bằng hàng hoá này quyết định. Từ đó ông kết
luận giá trị do lao động tạo ra chỉ đúng trong
nền kinh tế hàng hoá giản đơn, còn trong nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa giá trị do các nguồn
thu nhập tạo thành và được xác định = tiền
lương + lợi nhuận + địa tô. Rõ ràng quan
niệm này xa rời với lý thuyết giá trị - lao
động. David Ricardo dựa trên cơ sở kế thừa
và phát triển lý thuyết của A.Smith, ông cho
rằng chỉ có một định nghĩa duy nhất về giá trị.
Giá trị do lao động sản xuất tạo ra, lao động là
nguồn gốc của giá trị. Đó là một bước tiến
mới đưa kinh tế chính trị cổ điển lên đến đỉnh
cao. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của tư duy siêu
hình nên D.Ricardo cũng như các nhà kinh tế
chính trị cổ điển khác đã chưa thể vượt qua
được những hạn chế của mình, chưa đưa ra
một cách chính xác về học thuyết giá trị. Chỉ
với những nghiên cứu và khẳng định khoa
học của Mác thì học thuyết trị mới được hiểu
một cách đầy đủ và đúng đắn nhất. Khi xây
dựng lý thuyết giá trị - lao động, công lao to
lớn và điểm mấu chốt giúp Mác đưa lý thuyết
này đạt đến đỉnh cao là ông đã phát hiện ra
tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng
hoá. Mác đã khẳng định: “Tôi là người đầu
tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao
động sản xuất hàng hoá và khoa học kinh tế
chính trị xoay quanh quan điểm này”. Thực
vậy, sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị
sử dụng và giá trị lao do lao động sản xuất
hàng hoá có tính chất hai mặt. Đó là lao động
cụ thể và lao động trừu tượng. Lao động cụ
thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ
thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất
định. Mõi lao động cụ thể có mục đích riêng,
phương tiện riêng, phương pháp riêng và kết
quả riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt
các loại lao động cụ thể khác nhau. Ví dụ như
lao động cụ thể của người thợ dệt khác với
lao động cụ thể của người thợ mộc. Mỗi lao
động cụ thể khác nhau về chất, chính vì vậy
mà mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử
dụng nhất định. Khác với lao động cụ thể, lao
động trừu tượng lao động của người sản xuất
khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó,
hay đó chính là sự tiêu phí sức lao động nói
chung của người sản xuất hàng hoá. Như vậy,
lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng
hoá. Thực chất của giá trị hàng hoá là lao
động xã hội, trừu tượng của người sản xuất
hàng hoá kết tinh trong hàng hoá, nó là phạm
trù kinh tế xác định, biểu hiện quan hệ xã hội
giữa những người sản xuất. Có thể khẳng
định rằng: chính sự thống nhất và mâu thuẫn
giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng
đã tạo nên sự thống nhất và mâu thuẫn giữa
giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá. Đây
quả thực là một phát hiện vĩ đại của Mác, đưa
học thuyết giá trị - lao động đạt đến đỉnh cao,
đưa khoa học kinh tế chính trị lên vị trí xứng
tầm trong lịch sử và thời đại.
Ý NGHĨA CỦA HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ
Ý nghĩa lý luận
Toàn bộ quá trình nghiên cứu và tìm ra một
cách đầy đủ về giá trịi của Mác được coi như
một quá trình cách mạng vô cùng ý nghĩa. Xét
về mặt lý luận, học thuyết giá trị đã phản ánh
chính xác quan hệ xã hội giữa những người
sản xuất trong Chủ nghĩa tư bản. Hơn nữa,
cũng như sự xuất hiện của tiền là chìa khoá để
giải quyết mâu thuẫn của quá trình trao đổi,
học thuyết giá trị của Mác đã giúp các nhà
kinh tế học tìm ra chìa khoá giải quyết bế tắc
trong kinh tế hhọc. Việc phát hiện ra tính chất
hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá đã
đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một
cơ sở khoa học thực sự giúp các nhà kinh tế
học giải thích được hiện tượng phức tạp diễn
ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược
khi khối lượng của cải vật chất ngày càng
tăng lên đi liền với khối lượng giá trị của nó
giảm xuống. Hơn nữa, tính chất hai mặt của
lao động sản xuất hàng hoá phản ánh tính chất
tư nhân và tính chất xã hội của người sản xuất
hàng hoá. Lao động cụ thể của từng người sản
xuất độc lập là biểu hiện của lao động tư nhân
nhưng lao động trừu tượng của họ lại là biểu
hiện của lao động xã hội. Trong nền sản xuất
hàng hoá, lao động tư nhân và lao động xã hội
không phải là hai loại lao động khác nhau mà
chỉ là hai mặt đối lập của một lao động thống
nhất. Giữa lao động tư nhân và lao động xã
hội có mâu thuẫn với nhau. Đó là mâu thuẫn
cơ bản của sản xuất hàng hoá, biểu hiện ở hai
Nguyễn Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 81 - 85
84
điểm sau: Một là, sản phẩm do người sản xuất
hàng hoá tạo ra có thể không ăn khớp hoặc
không phù hợp với nhu cầu của xã hội dẫn tới
sự mất cân đối trên thị trường hàng hoá, gây
ra khủng hoảng “sản xuất thừa”. Hai là, hao
phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể
cao hơn hoặc thấp hơn chi phí lao động mà xã
hội có thể chấp nhận được. Như vậy, mâu
thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã
hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong
nền sản xuất hàng hoá. Mâu thuẫn đó còn
được thể hiện ở mâu thuẫn giữa giá trị sử
dụng và giá trị của hàng hoá.
Ý nghĩa thực tiễn
Từ khi ra đời đến nay, học thuyết giá trị của
Mác vẫn mang ý nghĩa to lớn không chỉ trên
phương diện lý luận mà còn cả ở phương diện
thực tiễn. Thứ nhất, sự xuất hiện của học
thuyết giá trị như chiếc chìa khoá giúp các
nhà kinh tế học giải quyết các bế tắc, các mâu
thuẫn trong thực tiễn kinh tế học. Từ đó có
các giải pháp kinh tế hữu ích kịp thời để phát
triển kinh tế. Thứ hai, với sự ra đời của khái
niệm thước đo giá trị, các nhà kinh tế học
cũng như những người sản xuất có thể hiểu rõ
các nhân tố tác động đến giá trị hàng hoá, từ
đó cho ra những giải pháp thiết thực tác động
tới quá trình sản xuất đảm bảo về chất lượng
cũng như nâng cao giá trị của hàng hoá.
Đối với Việt Nam, nghiên cứu và vận dụng
học thuyết giá trị cho phép Việt Nam có thể
xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế một cách lành mạnh và bền
vững. Nghiên cứu học thuyết giá trị còn cho
phép Việt Nam vận dụng và xem xét nâng cao
năng lực cạnh tranh hàng hoá trên thị trường
quốc tế về mọi mặt như sản phẩm, chi phí,
dịch vụ, phương thức thanh toán Trong
những năm qua, Việt Nam chú trọng nâng cao
năng lực cạnh tranh, phát triển kinh tế dựa
trên những ưu thế sẵn có như nguồn nhân
công rẻ, dồi dào, chăm chỉ; nguồn tài nguyên
phong phú, nên nông nghiệp mạnh với đa
dạng các mặt hàng nông sản Báo cáo Năng
lực cạnh tranh toàn cầu 2010 - 2011 của WEF
cho thấy, Việt Nam đạt điểm số năng lực cạnh
tranh (GCI) 4,3 điểm, tăng so với mức 4,0
điểm trong báo cáo 2009 - 2010 và mức 4,1
điểm trong báo cáo 2008 - 2009. Cùng với sự
cải thiện điểm số này, thứ hạng của Việt Nam
trong xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu
đã tăng lên vị trí thứ 59 trong tổng số 139 nền
kinh tế được xếp hạng trong báo cáo năm nay,
từ vị trí 75/133 trong báo cáo năm ngoái, và
vị trí 70/134 của báo cáo năm 2008. Tuy
nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh
tế, Việt Nam vẫn chỉ chú trọng phát triển kinh
tế theo “chiều rộng” mà chưa chú trọng tới
“chiều sâu”. Để nâng cao hơn nữa năng lực
cạnh tranh quốc gia cũng như phát triển kinh
tế bền vững Việt Nam cần chú trọng tới các
giải pháp phát triển theo chiều sâu, chú trọng
tới hiệu quả đầu tư thay vì đầu tư dàn trải,
phát triển kinh tế xanh, thay vì khai thác tài
nguyên sẵn có
KẾT LUẬN
Quá trình khám phá ra học thuyết giá trị của
Mác là một quá trình cách mạng vĩ đại. Cho
đến nay, học thuyết giá trị vẫn có giá trị to lơn
trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Nghiên cứu và vận dụng nó cho phép các nước
nói chung và Việt Nam nói riêng có các chiến
lược phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh
tranh một cách hiệu quả và bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, 2009
[2]. Trần Văn Phòng (2008) Một số chuyên đề
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tập II, , Nxb Lý luận chính trị.
[3]. Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb Chính trị
quốc gia, 2003
[4]. Bộ Tư bản, C.Mác, Nxb Chính trị, 1991
[5]. www.vneconomy.vn
[6]. www.dddn.com.vn
[7]. www.google.com
Nguyễn Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 81 - 85
85
SUMMARY
TRACE PROCESS OF VALUE THEORY IN MARX
Nguyen Thi Hanh*
College of Education - TNU
K.Marx is a genius on theoretical, political, philosophical dialectical materialism, economics and
politics of scientific socialism. His theories are regarded as the greatest revolution on the basis of
inheriting and developing the values of human thought. Referring to Marxist political economy one
can learn to think of "rock" - the theory of surplus value.But no one can not mention the value theory
- a theory that asserts it to Marx went through a long process of revolution, a theory is considered
Marx origins to conduct the next revolution in business economic studies of their politics.
Keywords: theory of value, value, use value, exchange value, Marx’s political econmy
*
Tel: 0986.351.114; Email: Flyingdance.708@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33227_37053_3082012152711tap80so04_nam2011_split_16_9275_2052422.pdf