Giải quyết quá tải cường lực hàm ý tập trung
ngày càng tăng vào các giải pháp liên quan đến
ngư dân và cộng đồng. Không một giải pháp đơn lẻ
và đơn giản nào có thể giải quyết được vấn đề này
mà cần phải xây dựng cơ chế chính sách liên bộ -
ngành (ngành thủy sản không thể tự mình giải quyết
được). Tính phức tạp của nghề cá khiến cho việc sử
dụng tách biệt bất kỳ một phương án giải quyết quá
tải cường lực đều không hiệu quả.
Cần phải có nghiên cứu qui mô sâu rộng hơn
để đánh giá toàn diện vấn đề quá tải cường lực và
đề xuất giải pháp giải quyết liên quan đến các khía
cạnh tái tạo và bảo vệ nguồn lợi; phát triển sinh kế,
kinh tế và cộng đồng; đồng thời tái cơ cấu hoạt động
quản lý sao cho ngư dân có thể “ly ngư chứ không
ly hương”. Mặt khác, cần phải có sự tham khảo các
giải pháp mà các nước có nghề cá tương đồng với
chúng ta như Thái Lan, Đài Loan, Philipin, Trung
Quốc để giải quyết vấn đề này
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 208 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quá tải cường lực nghề cá quy mô nhỏ ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
56 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
QUÁ TẢI CƯỜNG LỰC NGHỀ CÁ QUY MÔ NHỎ Ở VIỆT NAM
OVERCAPACITY IN SMALL-SCALE FISHERIES IN VIET NAM
Tô Văn Phương1
Ngày nhận bài: 06/02/2 013; Ngày phản biện thông qua: 15/4/2013; Ngày duyệt đăng: 15/5/2013
TÓM TẮT
Nghề cá qui mô nhỏ đóng một vai trò quan trọng trong sinh kế của hàng triệu người dân ven biển Việt Nam. Số lượng
tàu thuyền khai thác, ngư dân và sản lượng khai thác tăng lên nhanh chóng trong hai thập kỷ trở lại đây. Hệ quả là nguồn
lợi bị khai thác quá mức dẫn đến quá tải cường lực trong khai thác. Nhà nước đã có các chính sách khắc phục vấn đề này
nhưng chưa hiệu quả. Quá tải cường lực nghề cá là một vấn đề không phải là mới nhưng cho đến này vẫn chưa có nhiều
công trình nghiên cứu cụ thể ở Việt Nam. Bài viết này đưa ra cái nhìn tổng quan về quá tải cường lực nghề cá quy mô nhỏ
và những giải pháp nhà nước đã triển khai, những nguyên nhân, hệ quả và thách thức trong nghề cá liên quan đến vấn đề
này và thảo luận một số giải pháp.
Từ khóa: nghề cá quy mô nhỏ, quá tải cường lực, Việt Nam
ABSTRACT
Vietnam’s fi sheries are largely classifi ed as small-scale fi sheries and play a crucial role as a source of livelihood.
The marine fi sheries in Vietnam have experienced overexploitation and declining resources As a consequence, Vietnam’s
small-scale fi sheries have experienced the consequences of overcapacity. To manage and reduce fi shing capacity, Vietnam
has taken various measures and programs. In this paper I attempt to explain what the government to do, why the fi sheries
management measures is not successful in solving the overcapacity, ending up with certain recommendations in terms of
management measures for solving the problem of overcapacity in small-scale fi sheries in Vietnam.
Keywords: small-scale fi sheries, overcapacity, Vietnam
1 ThS. Tô Văn Phương: Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, nghề cá đang bị khai thác quá mức
cả về sinh học và kinh tế ở nhiều nơi trên thế giới.
Garcia và Newton đã ước lượng đội tàu khai thác
trên toàn thế giới, năm 1998, đã dư thừa cường lực
khoảng 25 đến 53% về sản lượng kinh tế tối đa.
Cường lực khai thác tăng nhanh gấp tám lần so với
tăng trưởng về sản lượng ở qui mô toàn cầu. Do
vậy, tổ chức FAO dưới kế hoạch hành động quốc
tế về quản lý cường lực, kêu gọi tất cả quốc gia
phải thường xuyên đánh giá, kiểm tra về cường lực
khai thác để tránh quá tải cường lực (Pomeroy and
Andrew, 2011).
Nghề cá qui mô nhỏ ở Việt nam đóng một vai trò
quan trọng về nguồn sinh kế và thu nhập của hàng
triệu người ven biển. Vùng biển ven bờ đang bị khai
thác quá mức, nguồn lợi hải sản có nguy cơ bị cạn
kiệt (Danida, 2010). Tính đến năm 2010, có khoảng
84% số lượng tàu thuyền lắp máy có công suất dưới
90 CV và thuyền thủ công hoạt động chủ yếu ở vùng
nước ven bờ đã gây ra sức ép lớn lên nguồn lợi ven
bờ. Cường lực khai thác hải sản tăng nhanh trong
suốt hai thập kỷ qua, trong khi ngư trường khai thác
chưa được mở rộng, làm mất cân đối giữa cường
lực khai thác và nguồn lợi, cạnh tranh gay gắt trong
khai thác hải sản ở vùng ven bờ - nghề cá qui mô
nhỏ hoạt động. Những vấn đề trên đây là hệ quả
của quá tải cường lực khai thác trong nghề cá. Vì
vậy, hạn chế quá tải và giải pháp quản lý cường
lực khai thác là vấn đề hết sức cấp bách. Chính
phủ đã ban hành nhiều chính sách để khắc phục
vấn đề này, ngoài Luật Thủy sản năm 2003, có một
Quyết sách quan trọng nhất đó là theo Quyết định
số 10/2006/QĐ-TTg của Chính phủ “Quy hoạch
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 57
tổng thể phát triển ngành thuỷ sản đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020”, số lượng tàu thuyền
đến năm 2010 giữ ở mức 50.000 chiếc. Tuy vậy,
đến năm 2010 tổng số tàu thuyền cả nước lên đến
gần 130 nghìn chiếc.
Nghiên cứu này bước đầu mô tả về thực trạng
nghề cá quy mô nhỏ xét về khía cạnh quá tải cường
lực, các giải pháp chủ yếu mà Chính phủ ta đang
làm, tại sao nó chưa thành công, nguyên nhân do
đâu và đề xuất một số giải pháp khắc phục.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu bước đầu xác định vấn đề và thách
thức đến từ các bên liên quan trong nghề cá để giải
thích tại sao chính sách khắc phục quá tải cường
lực chưa thành công. Các vấn đề chính sẽ được
phân tích để thấy tác động của chúng, đồng thời
những kiến nghị giải quyết vấn đề quá tải cường lực
được thảo luận.
Để đạt được mục tiêu đề ra, sự kết hợp một
cách đồng thời phương pháp đánh giá chủ quan
và phân tích thống kê mô tả được sử dụng: nghiên
cứu mô tả, phân tích số liệu sơ cấp và thư cấp,
phỏng vấn điều tra. Nghiên cứu này khảo sát sơ
bộ quá tải cường lực nghề cá qui mô nhỏ tại bốn
tỉnh đại diện chính như Khánh Hòa, Bình Định, Phú
Yên và Bình Thuận.
Đánh giá dựa trên dữ liệu thứ cấp được thực
hiện để xác định thực trạng tàu thuyền nghề cá, số
lượng ngư dân, sản lượng đánh bắt, CPUE và tình
trạng nguồn lợi theo thời gian. Sử dụng đánh giá
chủ quan và các chỉ số định tính để mô tả quá tải
cường lực. Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các cơ
quan quản lý, báo cáo, bài báo khoa học và số liệu
thống kê khác.
Đánh giá dựa trên dữ liệu sơ cấp được thực
hiện để xác định những nguyên nhân và tác động
của quá tải cường lực, bao gồm cả thực thi các
chính sách quản lý.
Thế nào là quá tải cường lực?
Quá tải cường lực là vấn đề mà ở đó cường lực
đánh bắt cao hơn nhiều so với mục tiêu đánh bắt.
Quá tải cường lực đề cập đến một thực tế “có quá
nhiều ngư dân khai thác nguồn lợi thủy sản quá ít
trong một thời gian dài” - “too many fi shers chasing
too few fi sh” (Pomeroy, 2011; Pascoe và Gréboval,
2003). Xác định cường lực trong khai thác thủy sản
có bị quá tải hay không là rất quan trọng. Một số
phương đánh giá cường lực khai thác như bảng 1:
Bảng 1. Tóm tắt các phương pháp đánh giá cường lực trong nghề cá
Phương pháp đánh giá cường lực khai thác
Phương pháp dựa trên đầu ra Phương pháp dựa trên đầu vào
Không chính thống Chính thống Bao gồm kích cỡ đội tàu, công suất,
tấn trọng tải, kỹ thuật và kinh nghiệm
của thuyền trưởng, thuyền viên; trang
thiết bị tìm kiếm cá.Các phân tích chủ quan
1. Phân tích bao lớp dữ liệu
2. Đỉnh điểm tới đỉnh điểm
3. Đánh giá biên sản xuất Stochastic
Tuy nhiên, do bản chất của nghề cá qui mô nhỏ
nên phương pháp định tính là phù hợp cho nhận
biết vấn đề, trong khi phương pháp định lượng
không thể sử dụng được (Pomeroy, 2011; FAO,
2004). Các chỉ số định tính được dùng để xác định
quá tải cường lực trong nghề cá như sau:
Đánh giá chủ quan
Thông tin nghề cá được thu thập như đánh
giá chủ quan từ nhà khoa học, ngư dân và những
bên liên quan khác đến nghề cá trong nhiều năm.
Cách đánh giá được sử dụng như quan sát dựa
trên phỏng vấn nhóm, khảo sát, ý kiến chuyên gia
(Delphi), phương pháp đánh giá nhanh
Các chỉ số định tính về quá tải cường lực
Đánh giá định tính dựa trên các phương pháp
khoa học nhằm giảm thiểu sai số và vai trò đánh giá
chủ quan. Mục tiêu quan trọng của phương pháp
này là sử dụng tối đa thông tin thích hợp như đặc
điểm sinh học, kinh tế và xã hội nghề cá; tình trạng
sinh học nghề cá; tỷ lệ sản lượng đánh bắt so với
sản lượng mục tiêu; tỷ lệ TAC/mùa vụ; xung đột
trong nghề cá; sản lượng đánh bắt trên một đơn
vị cường lực khai thác (CPUE), giá trị trên một đơn
vị cường lực (VPUE). Đây là những chỉ số thường
dùng để đánh giá quá tải cường lực trong nghề cá
đa loài như ở Việt Nam.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng nghề cá qui mô nhỏ ở Việt Nam
Việt Nam có 3.260 km bờ biển với gần 4.000
hòn đảo và hơn 1 triệu km2 vùng đặc quyền kinh
tế (EEZ) trải dài qua 29 tỉnh thành ven biển, chiếm
hơn một nửa dân số của cả nước. Lĩnh vực thủy
sản đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế như: việc làm, nhu cầu dinh dưỡng và nguồn thu
lớn ngoại tệ. Đã có gia tăng nhanh chóng suốt 2
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
58 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
thập kỷ qua cả về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.
Ngành thủy sản đứng thứ 3 trong các ngành kinh
tế trọng yếu của đất nước sau công nghiệp dầu
khí và dệt may. Năm 2010, tổng giá trị xuất khẩu
đạt 4,94 tỉ USD, chiếm 4,5% GDP của cả nước
(Fistenet, 2010). Không dễ phân loại nghề cá Việt
Nam thành nghề cá quy mô nhỏ và quy mô lớn.
Nhưng theo các tài liệu trong cũng như ngoài nước
đồng thời theo một số nhà khoa học và quản lý nghề
cá, thì nghề cá Việt Nam được xem là nghề cá quy
mô nhỏ (Pomeroy, 2009; Danida, 2010).
Số lượng tàu thuyền khai thác đã tăng nhanh
chóng từ 44.000 năm 1991 lên tới gần 130.000
chiếc vào năm 2010, với tổng công suất là 6,17 triệu
CV (trung bình gia tăng 4,8%/năm) (Long và Dung,
2010) được biểu diễn như hình 1.
Hình 1. Biểu đồ khuynh hướng gia tăng năng lực khai thác từ
1990 - 2009
Chú thích: number of vessel: số lượng tàu thuyền
Total HP: tổng công suất (CV)
Hình 2. Biểu đồ thề hiện khuynh hướng sản lượng đánh
bắt (tấn và %)
Chú thích: Production OS: sản lượng xa bờ
Production NTS: sản lượng gần bờ
Production growth: tăng trưởng
Đặc biệt, số lượng tàu thuyền dưới 0,5 tấn
không cần phải đăng ký (theo Điều 16.1 của Luật
thủy sản) được cho rằng chiếm một tỷ lệ lớn. Vì vậy,
đội tàu hiện tại có thể lớn hơn nhiều so với số liệu
thống kê được biểu diễn như hình 1. Số lượng tàu
cá tăng nhanh trong năm 2008, khoảng 30.000 tàu
(Danida, 2010), do nhiều nguyên nhân, trong đó
có nguyên nhân ngư dân đăng ký để được hưởng
chế độ đãi ngộ cho nghề khai thác theo Quyết định
298 của Chính phủ. Trong thời gian từ 1990 - 2000,
số tàu thuyền dưới 45CV hoạt động gần bờ tăng
khoảng 2.300 chiếc/năm (Pomeroy, 2009). Hơn
nữa, khoảng 72% tổng tàu thuyền gắn máy nhỏ hơn
45CV và 86% tàu thuyền được xác định là khai thác
gần bờ. Phần lớn hoạt động ở vùng nước 4-5 hải lý
và ở độ sau dưới 50m (FAO, 2004; Pomeroy, 2010).
Đồ thị trên hình 2 cho thấy, mặc dù sản lượng
liên tục tăng, nhưng tỷ lệ tăng trưởng giảm dần.
Tỷ lệ tăng trưởng có thể xuống còn 0%, hoặc tăng
trưởng âm trong những thập kỷ tới. Mặc dù thống
kê chính thức như hình 2 cho biết sản lượng đánh
bắt ít hơn 2 triệu tấn, thì nhiều nhà khoa học và
quản lý nghề cá tin rằng mức độ thực sự có lẽ lớn
hơn nhiều, ước tính khoảng 2,5 triệu tấn năm 2004
(DoFi, 2011; Danida, 2010). Theo Pomeroy (2010),
khoảng 82% tổng trữ lượng khai thác nằm ở độ
sâu dưới 50m (tức là nó đến từ hoạt động khai
thác gần bờ). Hệ quả là, sản lượng khai thác gần
bờ cao hơn sản lượng bền vững tối đa, hàm ý rằng
nguồn lợi vùng bờ đang bị khai thác quá mức và áp
lực khai thác vẫn đang tăng lên do nhiều ngư dân
tham gia vào nghề cá mỗi năm. Ước tính số lượng
ngư dân làm việc toàn thời gian ở các cộng đồng
ven biển là 550.000, tăng khoảng 25.000 người/
năm và thủy sản được coi là nguồn thu nhập chính
của 4,3% hộ dân trên cả nước và lao động chính
chiếm khoảng 5,1% lực lượng lao động toàn quốc
(Pomeroy, 2009).
Hình 3 cho thấy, tổng sản lượng khai thác trên
một đơn vị tàu thuyền tăng liên tục, nhưng năng
suất khai thác (CPUE) - sản lượng đánh bắt trên
một đơn vị công suất tàu (CV) - giảm liên tục. Cụ
thể, CPUE đã giảm từ 1,1 tấn/CV năm 1991 xuống
còn 0,34 tấn/CV năm 2005 và chỉ còn khoảng
0,3 tấn/CV năm 2009 - một sự suy giảm khá nhanh
trong nghề cá của một nước (Pomeroy, 2010).
Hình 3. Mối quan hệ giữa năng suất khai thác và tàu thuyền
Chú thích: Production/vessel: sản lượng/tàu thuyền;
Production/HP: sản lượng/CV
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 59
2. Chính sách nghề cá liên quan đến quá tải
cường lực
Chính sách liên quan đến quá tải cường lực
đã được thực thi khi Chính phủ nhận ra vấn đề từ
giữa những năm 1990, ví dụ: chính sách hạn chế áp
lực khai thác gần bờ và phát triển khai thác xa bờ,
chương trình đóng tàu công suất nhỏ hơn 20CV đã
bị cấm từ năm 1998 và một số chính sách khác. Tuy
nhiên, áp lực khai thác thủy sản ven bờ vẫn ngày
một gia tăng, khai thác quá mức dẫn đến suy giảm
nguồn lợi ngày một nghiêm trọng.
Một chính sách quan trọng nhằm hạn chế quá
tải cường lực trong nghề cá đó là Chiến lược quy
hoạch tổng thể phát triển thủy sản đến năm 2010 và
định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng chính
phủ phê duyệt thông qua Quyết định số 10/2006/
QĐ-TTg ban hành ngày 11/01/2006. Theo quy
hoạch, số lượng tàu thuyền giữ ở mức 50.000 chiếc
(năm 2010), trong đó số tàu công suất dưới 45CV là
30.000 chiếc và lao động nghề cá ngữ mức 0,5 triệu
người. Tuy nhiên, mục tiêu cắt giảm đội tàu theo quy
hoạch đã không thực hiện được. Trên thực tế, số
lượng tàu thuyền không những không giảm mà còn
tăng lên nhanh, xấp xỉ 130.000 tàu năm 2010. Một
số nguyên nhân và thách thức chính được chi tiết ở
nội dung dưới đây.
3. Thách thức liên quan đến quá tải cường lực
3.1. Thực thi các hỗ trợ nghề cá
Hỗ trợ cho nghề cá rõ ràng có tác động tiêu
cực đến giải pháp quản lý cường lực. Thực vậy,
theo Danida (2010), có hai loại hình hỗ trợ ước tính
khoảng 317 triệu USD tính đến năm 2009. Loại “hỗ
trợ tốt” chiếm khoảng 49 triệu USD, trong khi loại “hỗ
trợ xấu” chiếm khoảng 268 triệu USD2. Theo đó, các
chính sách miễn thuế tài nguyên, giảm 50% lệ phí
đăng ký tàu đóng mới và đặc biệt là chính sách trợ
giá xăng dầu năm 2008 cho ngư dân. Thực tế cho
thấy rằng, để đủ các điều kiện được Chính phủ trợ
giá (tức là phải hoạt động liên tục ít nhất 6 tháng).
Điều này có tác động gián tiếp gây ra sự gia tăng
đột biến nhóm tàu nhỏ cần đăng ký (ước lượng tăng
khoảng 30.000 chiếc trong 2 năm từ 2008 - 2010)
(Danida, 2010). Ngoài ra, trợ giá xăng dầu đã vô tình
khôi phục những con tàu vốn đang nằm bờ hoặc chờ
phá hủy hoặc chuyển loại hình hoạt động khác do
giá xăng dầu tăng cao (kế cả tàu thuyền xa bờ), trợ
cấp đã tạo điều kiện cho họ quay trở lại khai thác.
2 Theo UNEP và cộng sự (2009), loại hỗ trợ tốt được hiểu là các hỗ trợ không đi ngược lại chính sách giảm thiểu quá tải
cường lực (như chương trình MPAs, thông tin nghề cá, bảo hiểm cho tàu khai thác xa bờ). Trong khi loại hỗ trợ xấu đi ngược
lại với chính sách giảm thiểu cường lực, chẳng hạn như hỗ trợ giá xăng dầu, miễn thuế tài nguyên
Tương tự như vậy, do lợi ích thu được thấp, nhiều
tàu cá cỡ nhỏ đã nằm bờ, nhưng để nhận được
trợ giá, họ cần phải chứng minh rằng mình đang
hoạt động. Hơn nữa, tàu công suất lớn khai thác
xa bờ được trợ giá lại trở về vùng nước gần bờ tạo
sự cạnh tranh với tàu cỡ nhỏ. Theo báo cáo của
Tổng cục thủy sản, giai đoạn 2006 - 2010, có ít nhất
14.000 tàu đã nằm bờ trước khi trợ giá xăng dầu có
hiệu lực (DoFi, 2011).
3.2. Thách thức từ phía ngư dân
Trình độ dân trí của ngư dân tương đối thấp,
chỉ có khoảng 2,0% có trình độ đại học và cao đẳng,
39,1% ở bậc tiểu học, 38,1% bậc trung học cơ sở,
16,5% trung học phổ thông và đặc biệt có 3,1%
không biết chữ (Hao, 2009). Hệ quả là họ không
nhận thức đầy đủ về quá tải cường lực. Khi được
hỏi “Anh/chị nghĩ gì về chính sách cắt giảm tàu
thuyền của Chính phủ?”; 98% ngư dân Bình Thuận
và Phú Yên, 97% ngư dân Khánh Hòa và 95% ngư
dân Bình Định phản đối chính sách này bởi vì họ
quen với cuộc sồng ổn định từ nhỏ, họ sợ không thể
làm được nghề khác khi “ra khỏi” nghề cá. Trình độ
thấp cản trở họ tiếp cận công nghệ khai xa bờ và tìm
kiếm nghề nghiệp thay thế Cần nhấn mạnh rằng,
rất khó tìm kiếm nghề thay thế trong cộng đồng
nghề cá, do vậy nghề cá quy mô nhỏ dường như
được xem là “sinh kế cuối cùng - employer of last
resort” ở cộng đồng ven biển Việt Nam.
3.3. Cạnh tranh và xung đột trong hoạt động đánh bắt
Theo khảo sát ở 4 tỉnh nghiên cứu, do tình trạng
khai thác quá mức và suy giảm nguồn lợi, thu nhập
từ hoạt động khai thác giảm tới 70% so với 10 năm
trước, đôi khi không đủ chi phí khai thác. Hậu quả
là xung đột giữa các tàu khai thác gần bờ với nhau,
giữa tàu được phép đánh bắt gần bờ và xa bờ
ngày một tồi tệ. Ngư dân phản ánh, do không thể
khai thác ở vùng nước như quy định, đội tàu có
công suất lớn (trên 45CV) đi vào vùng nước ven bờ
cạnh tranh với tàu thuyền nhỏ. Cạnh tranh càng cao
và áp lực khai thác ngày càng tăng do hàng trăm
tàu đóng mới đi vào hoạt động mỗi năm; đã đưa tình
trạng khai thác ngày càng tồi tệ hơn; nơi họ sẽ phải
sử dụng bất kỳ công nghệ, kỹ thuật khai thác nào đó
để tồn tại. Để cải thiện tình hình này, cần thiết phải
tìm ra chính sách quản lý thích hợp để kiếm soát số
lượng tàu thuyền, giảm áp lực vùng biển ven bờ.
Tuy nhiên, vấn đề thật khó giải quyết khi số lượng
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
60 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
tàu thuyền phải giảm trong khi không được làm tổn
thương - vulnerable đến ngư dân nghèo.
Theo ngư dân tại phạm vi nghiên cứu, “miếng
cơm” của họ ngày hôm nay đắt đỏ và khó khăn hơn
trước, trong khi thực phẩm ngày mai đang bị đe
dọa. Họ sống trong vòng luẩn quẩn liên quan đến
đói nghèo. Đối với ngư dân nghề cá qui mô nhỏ, có
thể nói “họ là ngư dân bởi vì họ nghèo” và “họ nghèo
bởi vì họ là ngư dân” (Pomeroy, 2011). Ở Việt Nam,
chúng ta có thể có cả hai vế song hành trong cùng
một thời gian.
3.4. Vấn đề của Quyết định số 10
Như đã đề cập ở trên, chiến lược cắt giảm tàu
thuyền không những không thành công mà chúng
đã tăng lên gần 130.000 chiếc vào năm 2010.
Có một số nguyên nhân cho vấn đề này, cụ thể
như sau:
Thứ nhất, khoảng 90% cán bộ quản lý nghề cá
cấp tỉnh tại phạm vi nghiên cứu khi được hỏi đều
cho rằng: Chính phủ không có văn bản hướng dẫn
nào để thực thi Quyết định này ở cấp địa phương.
Cơ quan quản lý địa phương không biết cơ cấu lại
tàu thuyền như thế nào là hợp lý, không biết loại tàu
thuyền nào nên được cắt giảm và phải cắt giảm bao
nhiêu để đáp ứng với mục tiêu đề ra. Hơn nữa, cơ
quan cấp tỉnh đã không triển khai các quy định về
giảm thiểu quá tải cường lực, vì họ sợ sẽ gây ra khó
khăn cho ngư dân địa phương mình. Đặc biệt, trong
báo cáo kế hoạch chiến lược của Tổng cục Thủy
sản kế hoạch 5 năm phát triển nghề cá giai đoạn
2010 - 2015, chúng ta không có bất kỳ qui định, văn
bản hướng dẫn cụ thể nào liên quan đến giảm thiểu
quá tải cường lực, mà chỉ quan tâm đến việc làm thế
nào để tăng sản lượng đánh bắt.
Thứ hai, có một sự mâu thuẫn, chồng chéo
và thiếu phối hợp giữa định hướng chiến lược của
ngành thủy sản (ví dụ: cắt giảm 50% tàu thuyền khai
thác) và kế hoạch chiến lược phát triển ở cấp tỉnh
(ví dụ: thiết lập mục tiêu tăng trưởng cao về sản
lượng khai thác). Theo khảo sát, gần như 100% ngư
dân không biết chính sách của Chính phủ về cắt
giảm tàu thuyền khai thác. Lý giải cho điều này, có
thể cán bộ địa phương không tuyên truyền sâu rộng
đến ngư dân và họ miễn cưỡng thực hiện các chính
sách có thể ảnh hưởng bất lợi đến cộng đồng ngư
dân địa phương họ. Hơn nữa, họ kỳ vọng rằng ngư
dân sẽ cố gắng khai thác nhiều cá nhất có thể để
đáp ứng được mục tiêu tăng trưởng sản lượng mà
quên đi các nỗ lực giảm thiểu quá tải cường lực.
Thực vậy, có sự hiểu sai về sản lượng khai thác
tăng trưởng hàng năm tương đồng với sự phát triển
kinh tế. Gia tăng sản lượng hàng năm đã trở thành
một chỉ số quan trọng để đo lường thành công về
phát triển ngành thủy sản, đồng thời cũng là tiêu chí
quan trọng để xét “thành tích” cho các cán bộ và cơ
quan quản lý trong thực thi công việc.
Cuối cùng, sự thiếu vắng chương trình hỗ trợ
ngư dân chuyển đổi nghề (ví dụ: hỗ trợ về tài chính,
kỹ thuật khai thác xa bờ hoặc dạy nghề). Chúng
ta chưa nhất quán về chính sách, cụ thể là nội dung
của Quyết định 298 năm 2008 nói về hỗ trợ xăng
dầu cho tàu thuyền nghề cá qui mô nhỏ nhằm tạo
điều kiện khuyến khích ngư dân mở rộng hoạt động
khai thác, đã mâu thuẫn với tinh thần của Quyết
định số 10 năm 2006 với mục tiêu cắt giảm tàu
thuyền khai thác. Một bên thì động viên và khuyến
khích tàu thuyền đi khai thác trong khi bên còn lại thì
yêu cầu phải cắt giảm tàu thuyền để hạn chế hoạt
động khai thác.
3.5. Vấn đề Kiểm tra, Giám sát và Kiểm soát (MCS)
Có thể nói quá tải cường lực nghề cá quy mô nhỏ
ở Việt Nam có mối quan hệ mật thiết với MCS. Bởi
vì, MCS đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế
các hoạt động đánh bắt không báo cáo, không theo
quy định và bất hợp pháp (IUU fi shing activities).
Nhưng trên thực tế, có quá nhiều tàu thuyền không
đăng ký, không có giấy phép khai thác mà vẫn hoạt
động, hạn chế trong kiểm soát của các cơ quan
quản lý liên quan. Nghề cá Việt Nam được xem
như là một trong những nghề cá yếu nhất về MCS
(Pramod, 2011). Nguyên nhân chính của thực trạng
này là do:
Thứ nhất, cơ cở hạ tầng chưa đáp ứng được
cho vùng biển rộng lớn với hơn 1 triệu km2 vùng
đặc quyền kinh tế (EEZ). Pháp luật hiện hành chưa
được thực thi nghiêm túc do ngân sách cấp cho tàu
tuần tra còn hạn chế. Các công cụ MCS tiên tiến
và cơ chế quản lý như kiểm tra bến cảng, sử dụng
quan sát viên và hệ thông giám sát tàu thuyền (VMS)
chưa phải là một phần quan trọng trong chiến lược
phát triển nghề cá ở thời điểm này của Việt Nam.
Thứ hai, cán bộ kiểm ngư ở nước ta còn mỏng
và tàu thuyền khai thác hiếm khi bị kiểm tra trên
biển, do chi phí cho một lần tuần tra là khá cao.
Ngoài ra, hoạt động MCS chưa thực sự hiệu quả khi
mà cả ngư dân và cán bộ kiểm ngư đều chưa thực
hiện tốt quyền hạn và nghĩa vụ của mình.
4. Giải pháp quản lý quá tải cường lực
Từ thực trạng nghề cá qui mô nhỏ và những
thách thức liên quan đến quá tải cường lực, cần có
giải pháp đồng bộ liên quan đến cộng đồng và ngư
dân nhằm quản lý quá tải cường lực hiệu quả, cụ
thể như sau:
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 61
Các nhà quản lý nghề cá cần phải xác định
được loại tàu, số lượng tàu cắt giảm, tiêu chí và
nguyên tắc cắt giảm tàu thuyền. Đồng thời, các
chính sách phục vụ nghề cá cần được nhất quán,
đặc biệt liên quan đến giảm thiểu quá tải cường lực.
Tăng cường tuyên truyền sâu rộng về chính
sách giảm thiểu quá tải cường lực cho các bên liên
quan (ngư dân, chính quyền địa phương, cán bộ
quản lý các cấp).
Tăng cường chính sách hỗ trợ ngư dân chuyển
đổi nghề thay vì trợ giá xăng dầu sẽ tác động đến áp
lực khai thác thủy sản ven bờ.
Tăng cường hơn nữa cả về cơ sở vật chất và
cơ chế hoạt động của MCS (kiểm tra, giám sát và
kiểm soát hoạt động khai thác thủy sản).
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghề cá qui mô nhỏ ở Việt Nam đang bị khai
thác quá mức và suy giảm nguồn lợi như là hệ quả
của quá tải cường lực trong một thời gian dài. Đây
là vấn đề nan giải và là thách thức lớn khi mà các
chính sách của Chính phủ đều chưa mang lại hiệu
quả, thậm chí còn dẫn đến tình trạng tồi tệ hơn trong
nghề cá (sự phụ thuộc cao của ngư dân vào nghề
cá, thiếu vắng cơ hội việc làm phi nghề cá, các chính
sách quản lý chưa nhất quán, tăng nhanh số lượng
ngư dân và tàu thuyền dẫn đến xung đột trong hoạt
động khai thác, hoạt động MCS còn nhiều bất cập).
Tất cả những thách thức trên đòi hỏi phải có một giải
pháp đồng bộ nhằm giải quyết hiệu quả vấn đề quá
tải cường lực trong nghề cá qui mô nhỏ Việt Nam.
Giải quyết quá tải cường lực hàm ý tập trung
ngày càng tăng vào các giải pháp liên quan đến
ngư dân và cộng đồng. Không một giải pháp đơn lẻ
và đơn giản nào có thể giải quyết được vấn đề này
mà cần phải xây dựng cơ chế chính sách liên bộ -
ngành (ngành thủy sản không thể tự mình giải quyết
được). Tính phức tạp của nghề cá khiến cho việc sử
dụng tách biệt bất kỳ một phương án giải quyết quá
tải cường lực đều không hiệu quả.
Cần phải có nghiên cứu qui mô sâu rộng hơn
để đánh giá toàn diện vấn đề quá tải cường lực và
đề xuất giải pháp giải quyết liên quan đến các khía
cạnh tái tạo và bảo vệ nguồn lợi; phát triển sinh kế,
kinh tế và cộng đồng; đồng thời tái cơ cấu hoạt động
quản lý sao cho ngư dân có thể “ly ngư chứ không
ly hương”. Mặt khác, cần phải có sự tham khảo các
giải pháp mà các nước có nghề cá tương đồng với
chúng ta như Thái Lan, Đài Loan, Philipin, Trung
Quốc để giải quyết vấn đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn phòng Chính phủ (2006), Quyết định số 10/2006/QĐ-TTg ban hành ngày 11/01/2006 của Thủ tưởng Chính phủ;
2. Văn phòng Quốc hội (2003), Luật Thủy sản, Hà Nội năm 2003;
3. Fistenet (2010), Tải về từ www.fi stenet.gov.vn/.../1trung-tam-thong-tin-thong-ke.2010;
4. VASEP (2011), Tải về từ
5. DANIDA (2010), The Fisheries Sector in Vietnam: A Strategy Economic Analysis. University of Copenhagen and Ministry
of Planning and Investment of Vietnam. Vietnam;
6. DoFi (2011), Directorate of Fisheries. Vietnam: Fisheries and Aquaculture Sector Study: Final Report. Hanoi, Vietnam;
7. FAO/FishCode (2004), Report of the National Conference on Responsible Fisheries in Vietnam, Hanoi, Vietnam, 29-30
September 2003, FAO/FishCode review, No.9. Rome: UN Food and Agriculture Organization;
8. Hao, T.V (2009), Recommendations for policies systems of sustainable management in coastal fi shing activities. The
Research Institute for Aquaculture No.3 (RIA3). Nha Trang, Vietnam;
9. Long, N. and N. D. Dung (2010), Review of Vietnam’s legal, policy and institutional arrangements in light of WCPFC
requirements. Hanoi, VietNam;
10. MoFi (2005), Vietnam fi sheries and aquaculture sector study: Final report Ministry of Fisheries and World Bank. Vietnam;
11. Pascoe, S. and D. Gréboval (eds) (2003), Measuring Capacity in Fisheries: Selected Papers. FAO Fisheries Technical Paper,
No. 445. Rome, Italy;
12. Pomeroy, R., Andrew, N (2011), Small-scale fi sheries management: Frameworks and Approaches for the Developing World.
The British Library, London, UK;
13. Pomeroy, R (2010), Presentation about overcapacity in South-east Asian: Workshop in Vietnam. May, 2010. Vietnam;
14. Pomeroy, R., Kim Anh, N.T & Thong, H.X (2009), Small-scale marine fi sheries policy in Vietnam. Marine Policy, 33:
419-428;
15. Pramod, G (2011), Evaluations of Monitoring, Control and Surveillance in marine fi sheries of 41 countries, MCS Case
Studies Report, Fisheries Centre, University of British Columbia, Canada, May 2011, 222 p;
16. UNEP, VIFEP, WWF (2009), Fisheries Subsidies, Supply Chain and Certifi cation in Vietnam. Report produced with support
of the United Nations Environment Programme Division of Technology, Industry and Economics (DTIE);
17. Ward, J.M., Kirkley, J.E., Metzner, R. & Pascoe. S (2004), Measuring and Assessing Capacity in Fisheries. 1. Basic concepts
and management options. FAO Fisheries Technical Paper, No. 433/1. FAO, Rome.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- qua_tai_cuong_luc_nghe_ca_quy_mo_nho_o_viet_nam.pdf