Qua một tác phẩm văn học hãy phân tích vai trò thủ pháp ẩn dụ trong việc xây dựng hình tượng tác phẩm

Trong tiếng Việt nhóm ẩn dụ bao gồm các kiểu: ẩn dụ, ẩn dụ bổ sung, nhân hóa, vật hóa, phúng dụ, định ngữ nghệ thuật Trong các kiểu nhóm đó ẩn dụ là phương thức tiêu biểu. Vậy thể nào là ẩn dụ; ẩn dụ có vai trò trong việc sử dụng hình tượng tác phẩm như thế nào? Ẩn dụ thực chất là sự so sánh ngầm, trong đó về so sánh giản lược đi chỉ còn lại về được so sánh. Như vậy, phép ẩn dụ, hay nói cách khác thủ pháp ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa của một đối tượng này thay do đối tượng khác khi hai đối tượng có một nét nghĩa tương đồng nào đó. Có thể lấy một vài ví dụ: Chỉ có thuyền mới hiểu Biển mênh mông dường nào Chỉ có biển mới biết Thuyền đi đâu về đâu (Xuân Quỳnh) Trong đoạn thơ trên nhà thơ nói về thuyền mà thực ra không phải là thuyền, về biển cũng không phải là biển. Hình ảnh của chiếc thuyền di động khắp nơi trên biển cả mênh mông sóng vỗ. Nhờ thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ ta thấy được mối quan hệ khăng khít giữa thuyền và biển chính là hình ảnh, tâm trạng của đôi bạn tình đang yêu nhau tha thiết, đó là một sự so sánh ngầm. Thuyền và biển chính là ẩn dụ của đôi nam nữ.

doc8 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3897 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Qua một tác phẩm văn học hãy phân tích vai trò thủ pháp ẩn dụ trong việc xây dựng hình tượng tác phẩm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Qua một tác phẩm văn học hãy phân tích vai trò thủ pháp ẩn dụ trong việc xây dựng hình tượng tác phẩm BÀI LÀM Trong tiếng Việt nhóm ẩn dụ bao gồm các kiểu: ẩn dụ, ẩn dụ bổ sung, nhân hóa, vật hóa, phúng dụ, định ngữ nghệ thuật… Trong các kiểu nhóm đó ẩn dụ là phương thức tiêu biểu. Vậy thể nào là ẩn dụ; ẩn dụ có vai trò trong việc sử dụng hình tượng tác phẩm như thế nào? Ẩn dụ thực chất là sự so sánh ngầm, trong đó về so sánh giản lược đi chỉ còn lại về được so sánh. Như vậy, phép ẩn dụ, hay nói cách khác thủ pháp ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa của một đối tượng này thay do đối tượng khác khi hai đối tượng có một nét nghĩa tương đồng nào đó. Có thể lấy một vài ví dụ: Chỉ có thuyền mới hiểu Biển mênh mông dường nào Chỉ có biển mới biết Thuyền đi đâu về đâu… (Xuân Quỳnh) Trong đoạn thơ trên nhà thơ nói về thuyền mà thực ra không phải là thuyền, về biển cũng không phải là biển. Hình ảnh của chiếc thuyền di động khắp nơi trên biển cả mênh mông sóng vỗ. Nhờ thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ ta thấy được mối quan hệ khăng khít giữa thuyền và biển chính là hình ảnh, tâm trạng của đôi bạn tình đang yêu nhau tha thiết, đó là một sự so sánh ngầm. Thuyền và biển chính là ẩn dụ của đôi nam nữ. Không chỉ trong thơ ca, mà đặc biệt là trong thơ trữ tình mới có ẩn dụ. Trong ngôn ngữ, thơ ca ẩn dụ xuất hiện khi có một sự so sánh ngầm, hoặc là tên gọi sự vật được chuyển, chuyển đổi trên cơ sở so sánh nhưng thiếu các từ so sánh. Trong cuộc sống đời thường hàng ngày, ta thường được nghe người mẹ nựng con bằng ẩn du: cún con, con thỏ con… của mẹ. Những khi tức giận cũng chính người mẹ đó gọi con là: quỷ sứ, đồ quỷ, thằng ranh con… Không chỉ trong thơ ca mới có ẩn dụ mà trong cuộc sống hàng ngày ta vẫn thường sử dụng ẩn dụ, để so sánh ngầm. Trong tác phẩm văn học, thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng hình tượng tác phẩm. Để có tính hình thượng cao trong tác phẩm tác giả phải sử dụng thủ pháp ẩn dụ, nhằm so sánh hình ảnh này với hình ảnh khác. Trong cuộc sống thường nhật, ta thường được nghe nói: “thế là vốn liếng nói đem nướng vào cuộc đỏ đen mất rồi”. Không chỉ có danh từ hoặc cụm danh từ mới có thể dùng làm ẩn dụ. Đôi khi chỉ cần chuyển nghĩa động từ làm vị ngữ là có thể kéo theo một loạt từ chuyển nghĩa. Ở ví dụ trên ta có thể thấy rõ điều dó. Nhưng nopí đến ẩn dụ là phải nói đến thơ ca, đặc biệt là thơ trữ tình. Thơ trữ tình mới thực sự là “vương quốc của các ẩn dụ”. Ở đây co thể là một địa hạt khai phá nghệ thuật không bao giờ cũ mòn bởi vì mỗi bài thơ là một tâm trạng, mỗi bài thơ có mã riêng của nó và do vậy từ dùng phải mang ý nghĩa khác. Nếu như “thuyền” - “bến” trong ca dao lúc nào đó đã mòn sắc thái biểu cảm thì với Xuân Diệu lại là: Người giai nhân: bến đợi dưới cây già. Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt, Và Chế Lan Viên thì ngược lại: Để lòng anh hóa bến Nghe thuyền em ra đi. Nếu Xuân quỳnh lấy “thuyền” và “biển” làm ẩn dụ thì Xuân Diệu lại là “biển” và “bờ”: Cũng có lúc rào rạt Muốn nghiến nát bờ em. Vậy là cũng một đối tượng ta có nhiều cách diễn đạt khác nhau (thuyền - biển, mận - đào, núi Mường Hung - dòng sông Mã v.v…) và một ẩn dụ có thể dùng cho nhiều đối tượng khác nhau. Ẩn dụ không chỉ có giá trị hình tượng, phương tiện xây dựng hình tượng mà còn hàm chứa sức mạnh biểu cảm. Bởi vì ẩn dụ thể hiện những hàm ý mà người đọc phải suy ra mới hiểu được. Ẩn dụ thể hiện phong cách sáng tạo nghệ thuật của tác giả, phong cách thời đại và phong cách dân tộc. Ẩn dụ của ca dao khác ẩn dục của Truyện Kiều, của thơ Hồ Xuân Hương, còn Lục Vân Tiên v.v… ẩn dụ của Huy Cận khác Chế Lan Viên. Chế Lan Viên khác Tố Hữu… Nghiên cứu ẩn dụ của một tác giả ta sẽ có những “trường phong cách” khác nhau và có thể bao quát thế giới thơ ca của tác giả đó. Ẩn dụ bổ sung hay còn gọi là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, tức là sự thay đổi một cảm giác này bằng một cảm giác khác trong nhận thức cũng như trong diễn đạt bằng ngôn ngữ. Trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, ta thường nghe nói: “tôi thấy nóng”, “thấy lạnh”, “thấy thơm”, “thấy đói cồn cào” hoặc “tôi nghe mệt”, “nghe lạnh”, “nghe đói” và “một giọng nói ấm áp”, “tiếng cười giòn tan”, “giọng khê nồng nạc”, “một từ ngữ sáo mòn”, “một câu chuyện nhạt phèo”, hoặc là “một lời mát mẻ”, “một khúc cà mùi mẫn”, “một giọng điệu thối hoắc”, “không ngửi được” v.v… Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác xuất hiện không nhiều lắm trong lời nói nhưng rất có giá trị xây dựng hình tượng văn thơ Nguyễn Tuân sử dụng ẩn dụ bổ sung để viết những câu văn tuyệt vời ca ngợi miền Tây Bắc của Tổ quốc: - Chao ơi, trông con sông, vui như thấy nắng ròn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. - Mà bên nước tôi thì đang bừng lên cái nắng bốn giờ chiều, cái nắng đậm đà của mùa thu biên giới, cái thứ năng hanh đang sấy khô gió Tây Trang và đang mài sắc thêm tiếng động của hoa lau phất vờ trong bóng núi. Những câu văn như thế không chỉ làm cho người đọc được thấy mà còn được nghe, được ngắm, được ngửi cả bầu không gian xung quanh. Trong thi ca Việt Nam, ẩn dụ bổ sung xuất hiện với các nhà thơ lãng mạn chịu ảnh hưởng của các nhà thơ lãng mạn Pháp. Xuân Diệu đưa cái mới vào thơ bằng những cảm quan và những biểu đạt rất mới: Này lắng nghe em khúc nhạc thơm Say người như rượu tối tân hôn… Hãy tự buông cho khúc nhạc hường… Dẫn vào thế giới của Du dương Ngừng hơi thở lại xem trong ấy Hiển hiện hoa và phảng phất hương Háy uống thơ tan trong khúc nhạc Ngọt ngào than gọi thở xa khơi… (Huyền diệu) Khúc nhạc của nhà thơ không chỉ nghe bằng tai mà, “nghe” cả bằng mắt, bằng lan da, bằng lưỡi… “thấm vào tâm hôn”; lúc này mọi giác quan được huy động đến tột cùng và dẫn đến sự giao thoa, xuyên thấm, lẫn lộn. Phải là nghệ sĩ mới có cái “nghe” kì diệu ấy và cũng là lúc chính nhà thơ làm cho độc giả trở thành nghệ sĩ. Nhưng “Huyền diệu” vẫn còn là cái thô sơ, phải đến “Nguyệt cầm” thì mới thật huyền diệu. Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân. Nhờ phương thức ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mà thơ ông có cả họa, nhạc hay chính tâm hồn nghệ sĩ hóa thành nhạc, thành họa và thơ! Dường như ngôn ngữ đưa ta vào một thế giới mới, một thế giới huyền diệu hơn, phong phú hơn và đánh thức trong ta những cảm quan nghệ thuật hằng ấp ủ trong lòng mỗi người. Có hiểu được Xuân Diệu ta mới hiểu được Đoàn Phú Tứ: Màu thời gian Sớm nay tiếng chim thanh Trong gió xanh Dìu vương hương ấm thoáng nhân tình Ngàn xưa không lạnh nữa, Tấn Phi Ta lặng dâng nàng Trời mây phảng phất nhuốm thời gian Màu thời gian không xanh Màu thời gian tím ngắt Hương thời gian không nồng Hương thời gian thanh thanh v.v… Ẩn dụ bổ sung và ẩn dụ tượng trưng đến Đoàn Phú Tứ thì đã thấy khó khăn cho giác quan và xúc cảm lắm rồi. Thế giới dường như không được mở rộng ra mà thu hẹp lại đóng kín với những kỉ niệm và những quan niệm rất riêng tư. Tìm đến chính luận, những ẩn dụ của Chế Lan Viên tuôn như suối chảy và cũng là lúc ông tìm được nguồn mạch cho thơ. Ông không chỉ tìm trong những danh từ, danh ngưqx mà có lúc chỉ cần chuyển đổi một số động từ là có thể kéo theo hàng loạt ẩn dụ khác. Em đi như chiêu đi Gọi chim vườn bay hết Em về tựa mai về Rừng non xanh lộc biếc Em ở, trời trửa ở Nắng sáng màu xanh che… (Tình ca ban mai). Chỉ với một số động từ “đi”, “về”, “ở” và các danh từ “chiều”, “mai”, “trưa”, “tối”, cũng đủ làm nên một khúc tình ca có cả hai chiều: chuyển động và tĩnh tại, li biệt và hội ngộ, chờ đợi và tin tưởng. Có tài liệu gọi nhân cách hóa là những ẩn dụ, khi chuyển đổi từ những vật vô sinh sang hữu sinh, hoặc là từ thế giới vật chất sáng thế giới ý thức của con người. Vật hóa là hướng chuyển ngược lại từ người đến động vật hoặc đồ vật. Ta vẫn thường nghe nói: điếu cày kêu sòng sọc, gió rít từng đợt, gió thì thầm, con đường lượn vòng quanh, đá đổ mồ hôi, cái bụng muốn đi mà cái chân không muốn bước, cái ghế kê chân lên bàn, sách nằm trên nóc tủ v.v… Trong văn thơ, ta bắt gặp lối nhân hóa trong các sử thi, trường ca Đam San, Xinh Nhã phản ánh tư duy của người thời cổ. Trong thơ ca truyền miệng của dân gian cũng vậy, nhân hóa là phương thức thể hiện tình cảm đầy thi vị: Núi cao chi lắm núi ơi Núi che mặt trời chẳng thấy người thương (Ca dao) Người con gái tương tư người yêu, “bồi hồi như đứng đống lửa như ngồi đống than”, nhưng lại không nói trực tiếp mà dùng ngoại cảnh để nói nỗi lòng: Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Đèn thương nhớ ai Mà đền không tắt Mắt thương nhớ ai Mà mắt không yên… (Ca dao Bên cạnh phép nhân hóa ta còn thấy phép vật hóa, tức là cách chuyển nghĩa những từ ngữ thuộc trường từ vựng chỉ người sang trường của đồ vật, loài vật. Trong ngôn ngữ hàng ngày, ta thường gọi những em bé gái thân quen là cái: cái Lan, cái Huệ… Một người nào đó hay xu nịnh bị người khác gọi là “hót” hay tán gái là “gáy” v.v… thậm chí bị gọi đến mức thô tục: “sủa”, “liếm gót giày”, “ăn bẩn” v.v… Trong văn chương dùng vật hóa để châm biếm, đùa vui nhưng không phải là dung tục. Có thể nào ngờ người con gái trong ca dao lại có cái tưởng tượng di dỏm như thế này: Người tình ta đề trên cơi Nắp vàng đậy lại để nơi giường thờ Đêm qua ba bốn lần mơ Chiêm bao thì thấy dậy sờ thì không (Ca dao) Phúng dụ là hệ thống những ẩn dụ, nhân hóa được sử dụng để biểu đạt một nội dung triết lý hay bài học luân lí mà người nói không muốn trình bày trực tiếp. Trong ca dao, những bài Con cò mà đi ăn đem, Con mèo mà trèo cây cau v.v… là những bài viết theo lối phúng dụ được trẻ em và người lớn ưa thích. Rõ ràng là những còn vật rất gần gũi với con người ở nông thôn, những phong tục tập quán lề thói ở nông thôn ai cũng hiểu những những bài ca dao đó nêu lên những nghịch lí trong cuộc sống và giải quyết một cách có nhân bản không phải là dễ dàng. Phúng dụ là phương thức chủ yếu của các truyện ngụ ngôn. Nhiều truyền ngụ ngôn nổi tiếng của Êdôp thời cổ, truyện ngụ ngôn La Phôngten ở Pháp, truyện Trê Cóc, Trinh thử, Luc súc tranh công v.v… của ta thời trước, Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài thu hút người đọc như là những tác phẩm nghệ thuật ưu tú. Bác Hồ viết những bài ca tuyên truyền vận động cách mạng cũng bằng lối phúng dụ: Con cáo tổ ong, Nhóm lửa, Bài ca sợi chỉ v.v… Tóm lại, nhóm ẩn dụ (ẩn dụ, ẩn dụ bổ sung, nhân hoá, phúng dụ) thực chất là phương thức chuyển nghĩa theo mối liên tưởng tương đồng giữa hai sự vật, trong đó cái được so sánh gọi tên thay cho cái so sánh. Đó là cơ chế chuyển tử trường nghĩa náy ang một trường nghĩa khác. Ta thấy được vai trò thủ pháp ẩn dụ là rất quan trọng trong việc xây dựng hình tượng tác phẩm. Giá trị của ẩn dụ không chỉ ở một hình tượng và biểu cảm mà còn ở chỗ phát hiện bề sâu, bề xa của sự vật theo cách nhìn của tác giả. Sự đổi mới trên gợi hàm chứa một nội dung biểu đạt và sức sáng tạo nghệ thuật. Ẩn dụ không chỉ có giá trị hình tượng, phương tiện xây dựng hình tượng mà còn hàm chứa sức mạnh biểu cảm. Bởi vì ẩn dụ thể hiện những hàm ý mà người đọc phải suy ra mới hiểu được./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQua một tác phẩm văn học hãy phân tích vai trò thủ pháp ẩn dụ trong việc xây dựng hình tượng tác phẩm.doc