Nhìn lại những thành tựu của đời Trần, dấu ấn
của Trần Nhân Tông hiển hiện rõ nét ở nhiều
lĩnh vực. Điều gieo rắc vào trí nhớ của các thế
hệ sau về ông hằn rõ nhất là phương thức ứng
xử khéo léo. Xâu chuỗi những sự kiện liên
quan đến Trần Nhân Tông chúng ta thấy một
“mạch” thông suốt trong tầm vóc và vị thế
của nhà văn hóa – chính trị - tôn giáo tiêu
biểu. Hội nghị Diên Hồng được người đời
ngợi ca không phải ở giá trị của nội dung “hội
nghị” mà ở tài cố kết nhân tâm. Các phụ lão
trong dân gian được coi trọng, được tham dự
vào chính sự không bởi vì triều đình thiếu kế,
mà bởi tài dụng mưu, tài huy động sức mạnh
toàn dân tộc của vị vua khoan giản an lạc.
Với chữ Nôm, người đời sau cảm nhận tầm vị
trí quan trọng của nó bởi tài phù phép, tài
trưng dụng nó như những biểu hiện đầu tiên
của tinh thần quốc gia dân tộc. Hơn thế, Cư
trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành
đạo ca được coi là những tác phẩm có địa vị
“quan trọng nhất trong bốn bài phú đời
Trần” [1, 116] bởi ông vua tài năng và tâm
huyết đời Trần biết đãi những hạt vàng từ kho
ngôn ngữ giàu có và tinh luyện của dân tộc.
Vì vậy, với Trần Nhân Tông khoảng cách về
thời gian như ngưng đọng, chỉ có những giá
trị được ông tạo dựng là luôn hiện hữu
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 369 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương thức ứng xử với ngôn ngữ dân tộc của Trần Nhân Tông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hoàng Thị Tuyết Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 99 - 104
99
PHƯƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI NGÔN NGỮ DÂN TỘC
CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
Hoàng Thị Tuyết Mai*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thế kỷ XIII được coi là mốc quan trọng của nền văn hoá Việt và cũng là mốc phát triển của riêng
chữ Nôm. Trong giai đoạn mới hình thành thứ chữ riêng có của dân tộc này, các chính thể hành
chính quan phương có những nỗ lực khác nhau trong việc khích lệ sự hưng thịnh và hoàn thiện của
chữ Nôm. Đóng vai trò quan trọng trong nền văn hóa đặc thù giai đoạn đầu độc lập, vua Trần
Nhân Tông có cách ứng xử hết sức đặc biệt với chữ Nôm. Đấng minh quân sáng suốt của nhà Trần
đã đặc biệt hóa vị thế của chữ Nôm như là cách để định vị mình giữa chúng sinh và thần dân.
Từ khóa: Phương thức ứng xử, chữ Nôm, Văn học Nôm, thơ Nôm Trần Nhân Tông, văn học Lý Trần.
NƠI “GÁC NGỌC LẦU VÀNG” DỤNG CHỮ
NÔM ĐỂ CỦNG CỐ VƯƠNG QUYỀN *
1.Vinh danh người đuổi cá sấu bằng Văn
Nôm
Sách Đại Việt sử kí toàn thư quyển V, Kỉ nhà
Trần viết: “Bấy giờ (năm 1282) Có cá sấu
đến sông Lô. Vua sai thượng thư Hình bộ là
Nguyễn Thuyên làm văn ném xuống sông, con
cá sấu tự đi mất. Vua cho việc này giống như
việc của Hàn Dũ, cho đổi họ là Hàn Thuyên.
Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc âm. Nước ta
thơ phú dùng nhiều quốc âm, thực bắt đầu từ
đấy”. [3, 301]. Và chú thích: Hàn Dũ – Danh
sĩ đời Đường ở Trung Quốc, làm quan ở Triều
Châu, ở đấy có nhiều cá sấu, Hàn Dũ làm bài
văn vứt xuông nước, cá sấu bỏ đi.
Đóng vai trò như một bề trên sáng suốt, Trần
Nhân Tông có thái độ đặc biệt với sự kiện
chính trị - xã hội và văn hóa nêu trên. Sự kiện
có màu sắc huyền thoại về thi sĩ họ Hàn được
nhắc tới như những ý kiến được đưa ra bởi
một tầm hiểu biết hạn hẹp đã bị lấn át bởi tầm
hiểu biết có phần rộng hơn là niềm tin vào
khả năng sáng tạo gần như vô hạn của trí
tưởng tượng con người. Tám thế kỉ đã qua, sự
kiện cũ chỉ được ghi lại vài dòng lạnh lùng
trên trang giấy, nhưng kí ức tiềm ẩn của các
bậc thức giả vẫn thao thức, trở trăn cho những
gì thuộc về bản ngã văn hóa dân tộc. Câu
chuyện về thi sĩ họ Hàn đuổi “ngặc ngư”
*
ĐT: 0986222413; Email: Tuyetmaidhkh@gmail.com
bằng văn Nôm được Trần Nhân Tông phủ
màn sương huyền thoại có giá trị như những
nỗ lực tạo dựng bản sắc văn hóa và tinh thần
quốc gia dân tộc bởi “Huyền thoại là một
trong những thành tố chính yếu trong việc tạo
dựng tinh thần quốc gia, nhất là tinh thần
quốc gia tôn giáo (religions nationalism)”1.
Các thế hệ sau luôn nhắc tới sự kiện này với
những lăng kính và cách lí giải khác nhau.
Vua Tự Đức từng làm thơ ca ngợi:
Quốc ngữ văn chương thùy nhiễm hàn
Bất vong đôn bán bị nham khan
Lư giang di ngạc hà thần tốc
Bác đắc quân vương tứ tính Hàn
Dịch:
Quốc ngữ văn chương mới nhúng tay
Chẳng quên tiếng mẹ khá khen thay
Sông Lư đuổi sấu in Hàn Dũ
Nên được nhà vua đổi họ ngay. [4, 654]
Sử gia nước ngoài A.B Pôliacốp cũng ghi
nhận: “Trên cơ sở chữ tượng hình Trung
Quốc, hệ thống chữ viết dân tộc – “chữ Nôm”
được phổ biến rộng rãi. Một trong những nhà
thơ chữ Nôm tiêu biểu nhất thời gian này là
Nguyễn Thuyên” [2, 204]
Bàn luận về đoạn sử trên Nguyễn Khắc Thuần
viết: “Về sự chuẩn xác của đoạn văn này thì
chúng ta có thể ngờ vực, nhưng, việc Nguyễn
Thuyên được Trần Nhân Tông ban cho họ
Hàn là điều có thật và thơ chữ Nôm kể từ đó
được gọi là thơ Hàn luật cũng là điều hoàn
toàn có thật”. [5, 451]
Hoàng Thị Tuyết Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 99 - 104
100
Trần Ngọc Vương cho rằng:“Bằng hàng loạt
những hoạt động đối nội, hoàng đế Trần
Nhân Tông rất nhanh chóng chứng tỏ khả
năng cố kết nhân tâm, kiên nhẫn “đãi cát tìm
vàng” để tận dụng nhân tài, trước hết phục
vụ cho sự nghiệp chống ngoại xâm mà chỉ
tiên liệu sơ sài cũng biết sẽ vô cùng gian nan
ấy. Điển hình cho loại hoạt động này là các
sự kiện : sai Chiêu Văn Vương Trần Nhật
Duật chiêu dụ trịnh Giác Mật thổ tù ở đạo Đà
Giang (1280), bày tỏ “thần uy” bằng cách sai
Nguyễn Thuyên làm “văn đuổi cá sấu” ở
sông Hồng (1282)”[6, 412]
Đóng vai trò như người định hướng sáng suốt,
vua Trần Nhân Tông đã khuyến khích thứ
ngôn ngữ dân tộc bằng cách của người cai trị
thiên hạ tinh tế và có tầm nhìn chiến lược.
Đọc kĩ năm dòng sử ngắn ngủi chúng ta thấy
có hai lần xuất hiện bóng dáng của chính thể
quan phương mà Trần Nhân Tông là người
tạo tác. Lần thứ nhất “Vua sai thượng thư
Hình bộ là Nguyễn Thuyên làm văn ném
xuống sông”, nghĩa là việc sáng tác thơ và
làm thơ là do ý chí của đấng chí tôn, là chủ ý
của chính thể hành chính. Việc sử dụng chữ
Nôm và sáng tác thơ Nôm lúc này hẳn là phổ
biến lắm và có tác dụng lớn lắm đối với
vương quyền và thần quyền nên những sự
kiện lớn và gây lo lắng cho nhiều người phải
viện đến thơ Nôm (chứ không phải thơ chữ
Hán). Hơn nữa, màu sắc huyền bí của sự kiện
cùng với sự linh diệu của thứ văn “độc” này
dường như có sự trợ giúp của đấng siêu
nhiên. Với mục đích chính trị, bản thân vua
Trần Nhân Tông không chỉ coi trọng và đề
cao chữ Nôm mà còn “cấp” cho thứ chữ này
những thuộc tính và quyền năng siêu phàm có
màu sắc tâm linh nhằm củng cố vương quyền
và khẳng định vị thế của người dụng chữ
Nôm sáng tác. Hơn thế, chữ Nôm được ngầm
định như là một phần linh diệu, bí hiểm của
hình sông, dáng núi, của vang vọng thẳm sâu
tinh anh và thần thái núi sông. Tại thời điểm
này, chữ Nôm là cái gì thiết thân, gần gũi
nhưng cũng đầy huyễn hoặc của phần sâu xa
tiềm thức mà chỉ học giả Nguyễn Thuyên mới
đủ tài để “đối thoại” với các đấng bậc siêu
nhiên linh ứng.
Khi cá sấu bỏ đi, lần thứ hai vua lại bày tỏ uy
thế bằng cách ban cho thi nhân họ Hàn – họ
của một danh sĩ đời Đường ở Trung Quốc.
Vinh danh người sáng tác bằng chữ Nôm là
một cách khuyến khích thứ chữ dân tộc một
cách khéo léo và rõ ràng nhất. Đó cũng là
cách ban thưởng của một nước có văn hiến,
hiểu Thi Thư, biết Lễ Nhạc giống như trong
sử chính thống của thiên triều (Trung Quốc).
Vả chăng, sự kiện này có tính “công thức”
giống như trong điển chế, nó rất phù hợp với
tư duy hồi cổ của các nước nằm trong khu
vực đồng văn, luôn lấy quá khứ làm qui
chuẩn cho mọi hành xử trong thiên hạ. Màu
sắc cổ kính và chất Đông phương của sự kiện
có giá trị văn hóa khu vực rõ nét. Nó như một
minh họa về cách tư duy kiểu phương Đông:
tất thảy các sao đều phải chầu về ngôi sao tử
vi đế tọa - bậc chí tôn (Trung Quốc). Với sự
kiện này, sợi dây liên hệ giữa nước phiên
thuộc và thiên triều truyền thống vẫn được kết
nối bởi những qui chuẩn văn hóa phổ quát,
song nước Nam đã là nước Nam – một mảnh
riêng biệt về lãnh thổ và văn hiến. Khát vọng
khẳng ðịnh dân tộc với những ýu thế của
riêng mình nhý nguồn mạch xuyên suốt, thẩm
thấu các lĩnh vực của ðời sống xã hội thời Lý
- Trần. Với chữ Nôm, ông vua cai trị thời
Trần đã khéo léo tạo nên một “kênh” thông
tin đặc biệt, tạo những dư âm có lợi cho nước
Nam trong mối quan hệ với nước láng giềng
Trung Quốc.
Hơn nữa, cách hành xử này cũng rất hợp lý
nếu soi chiếu dưới góc độ Nho giáo.Việc nhà
vua sai bề tôi đuổi “ngặc ngư” bằng thứ văn
“độc” chứng tỏ quyền uy tối thượng của đấng
chí tôn. Nó là cách khẳng định ngầm rằng
dưới bầu trời Nam lúc này ông vua đã có
quyền tối cao. Sức mạnh của người cai trị
ngai vàng là phép cộng của cả vương quyền
và thần quyền. Cho nên, sự kiện này có ý
nghĩa như một phức thể văn hóa.
Với Trần Nhân Tông chữ Nôm không những
được coi trọng mà nó vừa là sản phẩm sáng
tạo riêng có của nước Nam, là sản phẩm tuyệt
vời của trí tuệ dân tộc nằm trong “mạch”
chung của ngôn ngữ Đông phương mà Trung
Hoàng Thị Tuyết Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 99 - 104
101
Quốc luôn là cái nôi kiến tạo. Với nước ta
ngày đầu độc lập, việc bảo vệ chính quyền tự
chủ là bất di bất dịch, song giữ mối quan hệ
hòa hảo, uyển chuyển, linh hoạt, với Trung
Quốc là vô cùng cần thiết. Là người đứng đầu
đất nước, một đất nước đã và đang và luôn
phải tìm những bằng chứng rõ ràng cho sự
độc lập của mình bên cạnh Trung Quốc, Trần
Nhân Tông đã vinh danh nền văn hóa của đất
nước mình bằng phương tiện rất đỗi dân tộc
một cách khôn khéo.
2. Khuyến khích lệ “giảng cả âm nghĩa”
chữ Hán như là một biện pháp thúc đẩy sự
hưng thịnh của chữ Nôm
ĐVSKTT viết:
(Khoảng năm Mậu Tí, năm thứ 4, 1288)
“Vua bảo ty Hành khiển giao hảo với Viện
Hàn lâm. Lệ cũ, phàm có tuyên ra lời nói của
vua thì viện Hàn lâm đưa trước bản thảo tờ
chiếu cho ty Hành khiển để học tập trước, đến
khi tuyên đọc thì giảng cả âm nghĩa cho dân
thường dễ hiểu, .” [3, 316]
Đời Trần chữ Hán tồn tại nơi triều chính
nhưng nó vẫn thiếu cội rễ để tồn tại trong đời
sống dân chúng một cách thiết thân. Nhu cầu
về một thứ chữ dân tộc đã và đang hiển hiện
xung quanh một đất nước nhỏ bé nhưng bắt
đầu có vị thế và ngày càng khẳng định mãnh
liệt sự tồn tại của mình. Đó đây, nơi đám dân
đen khắp nẻo kia, chữ Hán chẳng may may
đụng chạm đến ngõ ngách của những rung
cảm sâu thẳm nhất và đời thường nhất. Trần
Nhân Tông hiểu được những chống chếnh của
ngôn ngữ chữ Hán và sự diệu vợi của những
qui tắc trong ngôn ngữ vay mượn nên duy trì
việc diễn Nôm những văn bản mang tính chất
nhà nước. Lê Mạnh Thát cho rằng: “việc
đọc những chiếu chỉ triều đình không chỉ
bằng tiếng Hán mà cả bằng tiếng Việt, tiếng
nói hàng ngày của người Đại Việt thời bấy
giờ, nhằm cho mọi tầng lớp người dân thuộc
nhiều thành phần xã hội khác nhau có thể
hiểu được nội dung những chính sách liên hệ
đến số phận của họ”2. Hơn thế, chính nhà vua
lúc ngâm vịnh nhàn tản cũng dùng chữ Nôm
để “giãi bày những rung cảm sâu kín của
lòng mình”3. Khía cạnh này khiến cho ông
vua thiên tử này gần gũi với dân chúng hơn
và cũng thúc đẩy chữ Nôm phát triển phong
phú hơn.
Cách ứng xử ấy (việc diễn Nôm những văn
bản nhà nước) tồn tại chính thức như bao thứ
nghi lễ cung đình khác chứng tỏ nó vô cùng
cần thiết. Hơn nữa ứng xử bằng lệ4 nghĩa là
thói quen đó đã có những kiểm chứng lịch sử
và kinh nghiệm đủ để kiêu hãnh cho sự tồn tại
của mình. Nó là bằng chứng chính đáng cho
hiện tượng song ngữ trong đời sống và sáng
tác văn chương của Việt Nam thời trung đại.
Đây cũng là một biểu hiện tất yếu của ý thức
yêu chuộng quốc âm, ý thức dân chủ, nhu cầu
dùng tiếng Việt để biểu hiện tình cảm thực
của mình “dù học tập văn từ của Trung Hoa,
mà vẫn nói năng, ca vịnh không rời với tiếng
nói của mình” (Phạm Đình Toái)5.
Có một mâu thuẫn tồn tại trong thời Lý Trần,
đó là khát vọng độc lập và nỗ lực không mệt
mỏi để khẳng định nền tự chủ nhưng không
dễ dàng thoát khỏi sự bủa vây của những yếu
tố ngoại lai mà ngôn ngữ là biểu hiện rõ ràng
nhất. Bản thân vua Trần Nhân Tông cũng
cùng lúc duy trì khoa cử (dùng chữ Hán) và
dùng lệ giảng âm nghĩa chữ Nôm như giải
pháp tình thế để ngày một ngày hai chữ Nôm
có cơ hội để trưởng thành. Hơn ai hết Trần
Nhân Tông đã khuyến khích chữ Nôm phát
triển không chỉ ở chốn dân gian mà ngay tại
nơi bệ rồng thăm thẳm. Triều đình của nhà
Trần vốn gần gũi với rặng tre của dân chúng6
và cách hành xử hào phóng, khai mở ấy
chúng ta cũng tìm thấy ở lĩnh vực sử dụng
ngôn ngữ. Với đời vua Trần Nhân Tông, Chữ
Nôm có vị thế và cơ hội để phát triển không
kém thua chữ Hán.
CHỐN “DẬT SĨ TIÊU DAO” DỤNG CHỮ
NÔM ĐỂ KÍ THÁC TÂM TƯ
Chữ Nôm đã được chọn như điểm về của cảm
hứng thẩm mĩ Phật giáo – thứ cảm hứng quan
trọng bậc nhất của văn học Lý Trần bởi ông
vua – thi sĩ – phật hoàng Trần Nhân Tông.
Với Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm
tuyền thành đạo ca, Trần Nhân Tông đã tôn
vinh chữ Nôm như phương tiện đắc dụng để
kí thác tư tưởng của mình.
Hoàng Thị Tuyết Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 99 - 104
102
Trần Nhân Tông có sáng tác chữ Hán, song
ông chỉ ghi dấu ấn bản thể mình như một thi
nhân lỗi lạc bởi những sáng tác bằng chữ
Nôm. Triết lí sâu xa của lẽ sống con người
được kí thác bằng văn Nôm – thứ văn chương
ở góc độ nào đó là của riêng người Việt. Nó
cũng là thứ ngôn ngữ khu biệt với chữ Hán
bởi những qui ước rất Việt Nam trên dòng
chảy chung của nguyên tắc tạo chữ của người
Hán. Trên cái nền chung về văn hóa và ngôn
ngữ của nền văn minh Trung Hoa, người Việt
Nam sau khi có tiếng nói riêng về chính trị đã
kịp tạo cho mình tiếng nói riêng về văn hóa,
văn học. Chính việc coi trọng chữ Nôm và
dùng nó diễn đạt khu vực riêng của cảm thức
người Việt đã giúp cho người Trung Quốc
hiểu rằng hơn nghìn năm đồng hóa vẫn không
thể biến đất nước bé nhỏ Việt Nam thành một
phần lệ thuộc vào mình. Việt Nam vẫn là Việt
Nam, bất luận quá khứ đau thương và vết hằn
lịch sử in đậm hàng ngàn năm lịch sử. Ý thức
quyết liệt ấy được minh chứng bằng ngôn ngữ
văn chương và bằng cảm hứng “cư trần” vốn
là sản phẩm của thuyết lí Phật giáo từ Ấn Độ
qua phương Bắc đưa vào nhưng màu sắc của
nó đã biến đổi theo cương vực và lãnh thổ của
người Nam.
Trước đó dù thư tịch Phật giáo có một số văn
bia: Vân Bản tự chung minh (chùa Vân Bản),
Chúc thánh Báo Ân tự bi (Chùa Báo
Ân).Nhưng chỉ đến Cư trần lạc đạo phú và
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca chúng ta mới
có những sáng tác bằng văn chương đúng
nghĩa và tương đối qui mô bằng ngôn ngữ dân
tộc. Hai tác phẩm này có đề cập đến những
vấn đề cốt lõi của Thiền Tông có ý nghĩa như
đuốc tuệ soi đường cho nhiều thế hệ người
Việt giai đoạn Lý Trần. Con đường đạt đạo
mà Cư trần lạc đạo phú chỉ ra có ý nghĩa
quan trọng và chi phối đời sống của hàng
triệu người Việt trong những thế kỉ bản lề của
dân tộc. Vị trí của văn học Nôm trong sáng
tác của Trần Nhân Tông có ý nghĩa như là
mốc đầu tiên cho sự kết tinh của ngôn ngữ và
tinh thần dân tộc.
Với Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca chữ Nôm đã đủ sức chuyển tải
những nội dung tư tưởng khác nhau và mang
vẻ đẹp của riêng nó. Chữ Nôm được lựa chọn
để phát biểu những tư tưởng trìu tượng và khó
nắm bắt một cách giản dị và dễ hiểu. Chữ
Nôm là ngôn ngữ sáng tác, tức là nó đã được
chuyên nghiệp hóa và đáp ứng được những
đòi hỏi về kĩ xảo nhất định trong đời sống và
nhất là trong nghệ thuật. Cư trần lạc đạo phú,
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca xét trong lịch
sử văn học dân tộc là những tác phẩm khởi
đầu cho dòng văn học Nôm. Giá trị của nó
ngoài việc biểu đạt những vấn đề thuộc về tôn
giáo còn có ý nghĩa như là sự khẳng định tinh
thần tự cường của một dân tộc và tầm nhìn xa
trông rộng của một ông vua đem chính ngôn
ngữ dân tộc để truyền tải những vấn đề rất
cao siêu.
Chính chữ Nôm được Trần Nhân Tông chọn
để diễn đạt tư tưởng Cư trần lạc đạo chứ
không phải chữ Hán. Điều này vô cùng quan
trọng đối với tác phẩm. Việc lựa chọn ngôn
ngữ sáng tác là một cách bày tỏ quan niệm
sáng tác của tác giả và cấu thành nên đời sống
nội tại của chính tác phẩm. Sự thống nhất về
tư tưởng cộng hưởng với sự thống nhất về
phương tiện diễn đạt là cầu nối lí tưởng cho
đa số nhân dân ít học tiếp nhận. Phương thức
truyền đạt của Cư trần lạc đạo phú tự bản
thân nó có giá trị tôn vinh nét đẹp và sự đắc
dụng của Việt ngữ. Chữ Nôm với Trần Nhân
Tông là phương tiện lí tưởng và hiệu quả, tiện
dụng và trong sáng, đẹp đẽ và giản dị, trang
trọng và gần gũi trong việc bày tỏ vẻ đẹp nội
tâm và sự sự chứng ngộ chân lí Thiền Tông.
Sau cuộc sống nhập thế tích cực chốn gác tía
lầu son Trần Nhân Tông đã dành khoảng lặng
để chiêm nghiệm trầm tư nơi cõi Phật. Nhà
vua đã soi nhìn thế giới chân như bằng bằng
cảm quan phấn chấn, tự tin. Sự chứng ngộ
viên mãn là đích soi chiếu cho những rung
cảm thẩm mĩ và điểm tựa cho những trải
nghiệm sâu lắng của bậc chân tu, hơn thế,
người khai sáng dòng thiền Trúc Lâm. Chữ
Nôm trong Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm
tuyền thành đạo ca dễ hiểu, dung dị, đời
thường giúp người đọc cảm nhận một cõi
tâm linh trong trẻo, thuần thành đạt đến chỗ
cứu cánh giác ngộ.
Hoàng Thị Tuyết Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 99 - 104
103
TRẦN NHÂN TÔNG TRONG DÒNG
NGHIÊNG KHÔNG THỜI GIAN
Nhìn lại những thành tựu của đời Trần, dấu ấn
của Trần Nhân Tông hiển hiện rõ nét ở nhiều
lĩnh vực. Điều gieo rắc vào trí nhớ của các thế
hệ sau về ông hằn rõ nhất là phương thức ứng
xử khéo léo. Xâu chuỗi những sự kiện liên
quan đến Trần Nhân Tông chúng ta thấy một
“mạch” thông suốt trong tầm vóc và vị thế
của nhà văn hóa – chính trị - tôn giáo tiêu
biểu. Hội nghị Diên Hồng được người đời
ngợi ca không phải ở giá trị của nội dung “hội
nghị” mà ở tài cố kết nhân tâm. Các phụ lão
trong dân gian được coi trọng, được tham dự
vào chính sự không bởi vì triều đình thiếu kế,
mà bởi tài dụng mưu, tài huy động sức mạnh
toàn dân tộc của vị vua khoan giản an lạc.
Với chữ Nôm, người đời sau cảm nhận tầm vị
trí quan trọng của nó bởi tài phù phép, tài
trưng dụng nó như những biểu hiện đầu tiên
của tinh thần quốc gia dân tộc. Hơn thế, Cư
trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành
đạo ca được coi là những tác phẩm có địa vị
“quan trọng nhất trong bốn bài phú đời
Trần” [1, 116] bởi ông vua tài năng và tâm
huyết đời Trần biết đãi những hạt vàng từ kho
ngôn ngữ giàu có và tinh luyện của dân tộc.
Vì vậy, với Trần Nhân Tông khoảng cách về
thời gian như ngưng đọng, chỉ có những giá
trị được ông tạo dựng là luôn hiện hữu.
1
Dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn, Văn học trung đại Việt
Nam – Quan niệm con người và tiến trình phát triển,
NXB Khoa học xã hội, 2005, tr.121.
2ttp://triethoc.edu.vn/index.phpoption=com_content&vi
ew=article&id=191:mt-s-vn-t-tng-trn-nhan -
tong&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224
3
Trường hợp Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền
hành đạo ca đề cập bên dưới.
4
Xem Hoàng Thị Tuyết Mai, Phương thức ứng xử với
ngôn ngữ và văn hóa thời Lý Trần, Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, số 325 (2011), tr.20.
5
Phạm Đình Toái (1817 - 1901) quê Nghệ An, đỗ Cử
nhân 1842, làm quan đến án sát Sơn Tây, bị thăng giáng
nhiều lần. Ngoài “Quỳnh Lưu tiết phụ truyện” bằng chữ
Hán, ông chủ yếu dùng thơ lục bát điêu luyện để diễn
Nôm một số thiên trong Kinh truyện nho gia, nhiều thơ
cổ điển Trung Quốc. Nổi tiếng vì có công nhuận
sắc “Đại Nam quốc sử diễn ca”, đã uốn nắn, rút gọn từ
1.887 câu còn 1.027 câu lục bát, làm cho tác phẩm trở
thành cô đọng, cổ kính mà lưu loát, hấp dẫn.
6
Tinh thần khai phóng, khoan hòa của nhà Trần là một
mạch chảy thông suốt. Chẳng hạn, sự kiện vua Trần
Thánh Tông từng bảo người tôn thất rằng: “Thiên hạ là
thiên hạ của Tổ tông, người nối nghiệp Tổ tông nên
cùng với anh em trong họ cùng hưởng phú quý... ; sự
kiện rước linh cữu Trần Nhân Tông năm Canh Tuất
(1310) dân tình xem đông đến mức phải tể tướng dẹp
người, hữu ty dùng kế mới đi được... ; sự kiện vua cảm
tình sự hộ tùng của những người hầu hạ trong lúc loạn
ly mà răn bảo các vệ sĩ không được la đuổi gia đồng của
các vương hầu...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đào Duy Anh (1975), Chữ Nôm - Nguồn
gốc, cấu tạo, diễn biến, NXB KHXH.
[2]. A.B Pôliacốp (1975), Sự phục hưng của
nước Đại Việt thế kỉ X – XIV, NXB Chính trị
quốc gia, Viện lịch sử quân sự Việt Nam.
[3]. Nhiều tác giả (2009), Đại Việt sử kí toàn thư
trọn bộ, NXB Văn hóa – thông tin.
[4]. Nguyễn Quyết Thắng - Nguyễn Bá Thể
(1993), Từ điển nhân vật lịch sử VN, NXB
Văn hóa.
[5]. Nguyễn Khắc Thuần (2007), Tiến trình văn
hóa Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỉ XIX,
NXB Giáo dục.
[6]. Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn
từ các tọa độ chữ, NXB Tri thức.
Hoàng Thị Tuyết Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 99 - 104
104
SUMMARY
KING TRAN NHAN TONG AND NOM SCRIPT: A FEUDAL ATTITUDE
AND POLICIES TOWARDS THE NATIONAL LANGUAGE
Hoang Thi Tuyet Mai*
College of Sciences – TNU
The thirteenth century is considered as the milestone of Vietnamese culture and of the Nom scripts
as well. In the early stage of this new-born national script, the feudal reigns made different efforts
to encourage and develop it. Playing an essential role in the cultural foundation in the early stage
of independence, KingTran Nhan Tong of Tran dynastyplaces an importance onNom script. He
supports and developsNom script as a significant way to self-actualize to his people.
Key words: Feudal attitudes and policies, Nom Script, Nom Literature, Nom Poetry of Tran Nhan
Tong, literature in the Ly Tran dynasties.
Phản biện khoa học: PGS.TS. Trần Ngọc Vương – Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn Hà Nội
*
ĐT: 0986222413; Email: Tuyetmaidhkh@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_41485_45256_85201416175318_276_2048515.pdf