Phương pháp làm môi trường dinh dưỡng
Việc pha chế môi trường đòi hỏi phải chính xác và
cẩn thận. Đây là một
trong những khâu quan trọng bậc nhất trong công tác
nghiên cứu vi sinh vật. Nếu
môi trường không đảm bảo yêu cầu và kém phẩm
chất thì sẽ ảnh hưởng đến kết quả
nghiên cứu.
Các bước chế tạo môi trường dinh dưỡng:
a. Pha chế: cân đong thật chính xác từng thành phần
môi trường theo đúng
trình tự hướng dẫn trong tài liệu.
- Đối với môi trường lỏng: cân, đong các chất rồi hoà
tan trong nước
9 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2637 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp làm môi trường dinh dưỡng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phương pháp làm môi trường dinh dưỡng
Việc pha chế môi trường đòi hỏi phải chính xác và
cẩn thận. Đây là một
trong những khâu quan trọng bậc nhất trong công tác
nghiên cứu vi sinh vật. Nếu
môi trường không đảm bảo yêu cầu và kém phẩm
chất thì sẽ ảnh hưởng đến kết quả
nghiên cứu.
Các bước chế tạo môi trường dinh dưỡng:
100
a. Pha chế: cân đong thật chính xác từng thành phần
môi trường theo đúng
trình tự hướng dẫn trong tài liệu.
- Đối với môi trường lỏng: cân, đong các chất rồi hoà
tan trong nước.
- Đối với môi trường đặc:
+ Cân agar rồi ngâm vào nước, đung cho tan agar.
+ Cân hoá chất rồi hoà tan trong nước.
+ Trộn dung dịnh hóa chất vào agar đã tan thêm nước
vào cho đủ, khuấy và
đun cho tan đều.
b. Làm trong môi trường:
Môi trường nuôi cấy vi sinh vật cần phải trong, có
như thế mới quan sát vi
sinh vật được một cách dễ dàng. Có thể làm trong
môi trường bằng những cách sau:
Lọc qua bông, vải thưa nhiều lớp hay giấy lọc.
Dùng lòng trắng trứng gà: cứ một lít môi trường dùng
một lòng trắng trứng.
Lấy riêng lòng trắng, cho thêm một lượng nước bằng
nó rồi đánh tan cho đến khi
sủi bọt thì đổ vào môi trường và trộn đều, đun sôi 10
– 15 phút, để lắng rồi lọc.
c. Điều chỉnh pH môi trường.
Mỗi loài vi sinh vật chỉ phát triển trong một khoảng
pH nhất định. Do đó, khi
làm môi trường cần điều chỉnh pH cho thích hợp.
Người ta thường dùng các dung
dịch sau để điều chỉnh pH môi trường: HCl, H2SO4,
NaOH, NaHCO3... có nồng độ
0,1N hoặc 10%.
d. Phân phối môi trường.
Sau khi điều chỉnh pH thì phân phối môi trường vào
các bình cầu, ống
nghiệm đã chuẩn bị từ trước. Riêng đối với hộp petri
nếu không có dụng cụ để giữ
khi khử trùng thì khử trùng môi trường xong mới
phân phối vào các hộp petri.
- Đối với ống nghiệm: nếu dùng môi trường làm
thạch nghiêng thì môi
trường cần được phân phối chiếm ¼ thể tích của ống
nghiệm. Nếu làm thạch đứng
thì lượng môi trường cần được phân phối từ ½ - 1/3
thể tích ống nghiệm.
- Đối với bình cầu hay bình tam giác, lượng môi
trường được phân phối
chiếm ½ - 1/3 thể tích của bình.
- Các thao tác phân phối phải nhanh, gọn, khéo léo để
môi trường không
dính lên miệng dụng cụ hoặc nút bông và việc phân
phối cần thực hiện xong trước
khi môi trường bị đông đặc.
e. Khử trùng môi trường.
Sau khi pha chế xong thì phải khử trùng môi trường.
Có thể khử trùng bằng
một trong 3 phương pháp sau:
* Hấp bằng hơi nước sôi ở áp suất thường.
Đối với các môi trường lỏng không chịu được nhiệt
độ cao thì có thể khử
trùngở nhiệt độ thấp theo kiểu Paxtơ hay kiểu
Tyndan.
- Kiểu Paxtơ: dựa trên cơ sở phần lớn vi sinh vật
không bào tử chết ở 60 –
70OC trong khoảng 15 – 30 phút, hoặc 70 – 80OC
trong khoảng 5 – 10 phút. Như
vậy, theo kiểu này là người ta hấp ở nhiệt độ hơi
nước sôi khoảng 30 – 40 phút.
Khử trùng bằng phương pháp này chỉ có các tế bào
sinh dưỡng bị tiêu diệt, các bào
tử vẫn có khả năng sống sót cho nên phương pháp
này chỉ dùng để khử trùng sữa,
bia và một số thực phẩm khác.
- Kiểu Tyndan: Đây là phương pháp khử trùng triệt
để ở nhiệt độ thấp bằng
cách hấp gián đoạn. Theo phương pháp này người ta
hấp 3 -4 lần ở nhiệt độ hơi
nước sôi (1000C) mỗi lần 30 – 40 phút. Lần nọ cách
lần kia 24 giờ, giữa hai lần hấp
lấy môi trường ra đểvào tủ ấm có nhiệt độ thích hợp
với nhiệt độ nảy mầm của bào
tử vi sinh vật (thường là 28 – 300C). Sở dĩ làm như
vậy vì những bào tử còn sống
sót trong lần hấp trước, khi gặp nhiệt độ thích hợp sẽ
nảy mầm và chúng sẽ bị tiêu
diệt ở lần hấp tiếp sau đó.
* Hấp bằng hơi nước sôi ở áp suất cao (dùng nồi áp
suất – autoclave).
Để khử trùng các loại môi trường (không chứa các
loại đường dễ bị phá huỷ)
thông thường người ta sử dụng nồi hấp (autoclave)
khử trùng ở 1 atm trong thời
gian 20 phút. Nếu môi trường đựng trong các bình
lớn từ 1 lit trở lên thì khử trùng
trong 30 phút. Đối với những môi trường chứa đường
dễ bị biến chất ở nhiệt độ cao
thì có thể khử trùng ở 0,5 – 0,6atm trong 15 phút.
Khi khử trùng bằng nồi áp suất cần lưu ý những điểm
sau:
- Các dụng cụ (bình cầu, bình tam giác, ống
nghiệm...) cần có nút bông chặt
vừa phải, bên ngoài có bọc bao làm bằng giấy dầu
hay giấy báo để tránh hơi nước
làm ướt nút bông.
- Phải kiểm tra mức nước trong nồi áp suất đã đủ
chưa (xem ở vạch ngang
ghi trên ống thuỷ tinh lắp bên ngoài nồi hấp).
- Khi đóng các khoá nồi hấp cần vặn từng đôi một đối
xứng nhau để nắp
không bị vênh, không bị hở. Khi mở cũng phải mở
từng đôi đối xứng nhau.
- Phải loại hết không khí trong nồi ra mới khoá van
thoát hơi nước nước để
áp suất trong nồi tăng lên. Có thể loại bỏ hết không
khí trong nồi bằng một trong
các cách sau:
+ Đóng khoá thoát hơi nước để tăng áp suất trong nồi
lên khoảng 0,5atm rồi
mở van thoát hơi để áp suất hơi nước đó tống tất cả
không khí lạnh ra khỏi nồi, cho
đến khi áp suất trở về không thì đóng van lại và tiếp
tục cho tăng áp suất đến mức
cần thiết.
+ Mở van thoát hơi nước ngay từ đầu khi hơi nước
bắt đầu thoát ra thành một
luồng hơi trắng khá mạnh, đều thì đóng khoá lại và
cho tăng áp suất đến mức cần
thiết.
- Khi khử trùng xong, ngắt điện cho áp suất hạ xuống
0, để nhiệt độ trong nồi
giảm hẳn mới được mở nắp lấy môi trường ra.
* Lọc qua màng lọc vi khuẩn.
Phương pháp này thường dùng đối với một số môi
trường không thích hợp
với biện pháp khử trùng bằng nhiệt độ cao (môi
trường huyết thanh, dung dịch
albumin...).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phương pháp làm môi trường dinh dưỡng.pdf