Bài viết này bàn về phong trào làng mới của Hàn Quốc và chương trình xây
dựng nông thôn mới ở Việt Nam. Trước hết, chúng tôi sẽ đề cập đến các giai đoạn, phương
pháp và kết quả thực hiện phong trào làng mới ở Hàn Quốc và chương trình xây dựng nông
thôn mới ở Việt Nam. Nội dung thứ hai của bài viết nhấn mạnh một số điểm đáng lưu ý
trong quá trình triển khai phong trào làng mới ở Hàn Quốc để làm cơ sở cho việc nêu lên
những hàm ý đối với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
10 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 09/03/2022 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phong trào Làng mới ở Hàn Quốc và chương trình xây dựng Nông thôn mới ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tâp̣ 2, Số 1b (2016) 16-25
16
Phong trào Làng mới ở Hàn Quốc và chương trình
xây dựng Nông thôn mới ở Việt Nam1
Nguyễn Tuấn Anh*, Phạm Quang Minh**, Lê Thị Mai Trang***
Tóm tắt: Bài viết này bàn về phong trào làng mới của Hàn Quốc và chương trình xây
dựng nông thôn mới ở Việt Nam. Trước hết, chúng tôi sẽ đề cập đến các giai đoạn, phương
pháp và kết quả thực hiện phong trào làng mới ở Hàn Quốc và chương trình xây dựng nông
thôn mới ở Việt Nam. Nội dung thứ hai của bài viết nhấn mạnh một số điểm đáng lưu ý
trong quá trình triển khai phong trào làng mới ở Hàn Quốc để làm cơ sở cho việc nêu lên
những hàm ý đối với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Phong trào làng mới; xây dựng nông thôn mới.
Ngày nhận 14/10/2016; ngày chỉnh sửa 18/10/2016; ngày chấp nhận đăng 23/10/2016
1. Dẫn nhập
1Năm 1970, tại Hàn Quốc, phong trào
làng mới được bắt đầu tiến hành nhằm phát
triển khu vực nông thôn và hiện đại hóa xã
hội Hàn Quốc. Bốn mươi năm sau, tại Việt
Nam, chương trình xây dựng nông thôn mới
đã được chính thức thực hiện. Đây là hai
phong trào/chương trình phát triển kinh tế-
xã hội quan trọng ở hai quốc gia. Hai phong
trào, chương trình này đã và đang tạo nên
những thay đổi to lớn đối với nông thôn nói
riêng và cả xã hội nói chung ở Hàn Quốc và
1 Bài viết trong khuôn khổ đề tài cấp Đại học Quốc gia Hà
Nội năm 2016, mã số QG.16.18 “Nghiên cứu đánh giá
quá trình thực hiện xây dựng làng nghề gắn với xây dựng
nông thôn mới”. Các tác giả trân trọng cảm ơn Đại học
Quốc gia Hà Nội và Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu
tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) hỗ trợ thực hiện nghiên
cứu này.
* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
ĐHQG Hà Nội; Email: anhxhh@gmail.com;
tuanna.vnu@vnu.edu.vn
** Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
ĐHQG Hà Nội. Email: phqminh62@gmail.com
*** Trường Đại học Công đoàn;
Email: tranglm@dhcd.edu.vn
Việt Nam. Nhằm góp thêm một góc nhìn đối
với quá trình phát triển của xã hội Hàn Quốc
và xã hội Việt Nam, bài viết này sẽ so sánh
một số điểm nổi bật của phong trào làng mới
ở Hàn Quốc và chương trình xây dựng nông
thôn mới ở Việt Nam.
Trước hết, bài viết sẽ đề cập khái quát
năm giai đoạn phát triển của phong trào làng
mới ở Hàn Quốc và hai giai đoạn phát triển
của chương trình xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam. Qua việc bàn về đến tiến trình
thực hiện hai chương trình, phong trào này,
chúng tôi sẽ thảo luận những điểm đáng lưu
ý liên quan đến phương pháp thực hiện hai
chương trình, phong trào. Sau phần phương
pháp thực hiện chương trình, phong trào, bài
viết sẽ so sánh một số kết quả nổi bật của
phong trào làng mới ở Hàn Quốc và chương
trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.
Phần cuối cùng của bài viết sẽ nhìn lại một
số điểm đáng lưu ý của phong trào làng mới
ở Hàn Quốc đề nêu lên một số hàm ý đối với
tiến trình xây dựng nông thôn mới ở Việt
Nam.
N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tâp̣ 2, Số 1b (2016) 16-25 17
2. Các giai đoạn phát triển của phong
trào làng mới ở Hàn Quốc và quá trình
xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Phong trào làng mới/phong trào cộng
đồng mới/chiến dịch tái xây dựng lại nông
thôn (Saemaul Undong) ở Hàn Quốc được
chính thức tuyên bố bắt đầu thực hiện vào
ngày 22 tháng 4 năm 1970 (The National
Council of Saemaul Undong Movement 1997:
77). Đây là phong trào trước hết để phát
triển xã hội nông thôn Hàn Quốc. Tuy
nhiên, việc thực hiện phong trào này được
mở rộng ra khu vực đô thị và rộng khắp toàn
quốc, góp phần quan trọng làm nên sự thịnh
vượng của đất nước Hàn Quốc (Chang Soo
Choe 2005: 1). Khi bàn đến phong trào làng
mới, các học giả nhấn mạnh rằng Tổng
thống Hàn Quốc thời đó là Park Chung-Hee
đã nêu rõ tinh thần và mục tiêu cơ bản của
phong trào này như sau: “Phong trào làng
mới thể hiện nỗ lực cải thiện, hiện đại hóa
làng của chúng ta bởi chính chúng ta với
tinh thần tự lực và độc lập. Chính phủ triển
khai cuộc vận động này với sự tin tưởng
chắc chắn rằng cuộc vận động sẽ làm cho
mỗi làng ở Hàn Quốc thành một nơi thịnh
vượng, sung túc để sinh sống” (The National
Council of Saemaul Undong Movement 1997:
4). Nhìn một cách tổng thể, phong trào làng
mới hướng đến mục tiêu nâng cao đời sống
của mỗi cá nhân và cả cộng đồng làng nhằm
đạt được sự giàu có về vật chất lẫn tinh thần
(The National Council of Saemaul Undong
Movement 1997: 4). Sau tuyên bố chính thức
triển khai chiến dịch/phong trào làng mới
của Tổng thống Park Chung-Hee ngày 22
tháng 4 năm 1970, phong trào đã có nhiều
thay đổi trong quá trình phát triển. Nhìn một
cách tổng thể, phong trào làng mới đã trải
qua 5 giai đoạn, cụ thể như sau.
Giai đoạn thứ nhất được triển khai từ
năm 1970 đến năm 1973. Đây là thời gian
thiết lập nền tảng của phong trào. Những
hoạt động đáng lưu ý trong giai đoạn này là
chính phủ hỗ trợ vật chất (cụ thể là xi măng)
và dân làng bỏ công sức ra để thực hiện các
dự án cần thiết đối với làng của mình nhằm
cải thiện điều kiện sống. Ở mỗi làng, một
người đàn ông và một người phụ nữ được cử
ra để lãnh đạo dân làng xây dựng và triển
khai kế hoạch của các dự án. Hoạt động
quan trọng nữa trong giai đoạn này là các cơ
sở huấn luyện lãnh đạo phong trào được mở
để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho
phong trào và hệ thống hỗ trợ phong trào
làng mới được xây dựng từ trung ương đến
các làng (The National Council of Saemaul
Undong Movement 1997: 12-13).
Giai đoạn thứ hai được tiến hành trong
khoảng thời gian từ năm 1974 đến năm
1976. Đây là thời kỳ đẩy mạnh sự phát triển
của phong trào. Cụ thể là phong trào làng
mới được triển khai từ khu vực nông thôn đã
lan rộng ra đến các nhà máy, tổng công ty và
trở thành phong trào có quy mô trên toàn
quốc. Đi liền với việc mở rộng phong trào,
nhiều nhân lực, tài chính lẫn tổ chức đã
được huy động để thúc đẩy sự phát triển của
phong trào (The National Council of Saemaul
Undong Movement 1997: 13-14).
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn cao điểm
trong quá trình thực hiện phong trào làng
mới. Giai đoạn này được tiến hành từ năm
1977 đến năm 1979. Đặc trưng quan trọng
của giai đoạn này là mở rộng phạm vi không
gian các dự án. Việc mở rộng phạm vi
không gian các dự án được tiến hành trên cơ
sở liên kết các làng lại với nhau để có những
dự án vượt ra bên ngoài ranh giới một làng
và bao phủ cả một vùng địa lý gồm nhiều
làng. Với những dự án như thế, cư dân của
các làng có thể sử dụng những cơ sở vật chất
tốt hơn, và nhiều hơn do các dự án tạo ra.
Điểm đáng lưu ý nữa trong giai đoạn này là
sự mở rộng và nâng cao sự liên kết khu vực
nông thôn và đô thị. Điều này giúp nâng cao
hiệu quả thực tiễn của phong trào (The
N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tâp̣ 2, Số 1b (2016) 16-25 18
National Council of Saemaul Undong
Movement 1997: 14-15).
Giai đoạn thứ tư của phong trào làng mới
diễn ra từ năm 1980 đến 1989. Điểm đáng
lưu ý trong giai đoạn này là sự qua đời của
Tổng thống Park Chung-Hee. Điều này dẫn
đến thực trạng là đất nước Hàn Quốc rơi vào
giai đoạn bất ổn. Đối với phong trào làng
mới, nếu như những giai đoạn trước, phong
trào được dẫn dắt bởi chính phủ thì trong
giai đoạn này phong trào được chuyển sang
cho khu vực tư nhân. Ngày 13 tháng 12 năm
1980, đạo luật thúc đẩy tổ chức làng mới có
hiệu lực đã hướng đến mục đích hỗ trợ thúc
đẩy các tổ chức làng mới tự nguyện được
hình thành bởi khu vực tư nhân. Một điểm
cần đề cập đến trong giai đoạn này là phong
trào gặp phải tai tiếng liên quan đến việc
quản lý tài chính. Tuy vậy, phong trào đã nỗ
lực vượt qua những tác động tiêu cực này và
tiếp tục thực hiện các dự án làm đường, dự
án đào tạo về nông nghiệp phối hợp, cải
thiện việc phân bố và hoạt động của liên
minh tín dụng Saemaul (The National
Council of Saemaul Undong Movement 1997:
16).
Giai đoạn thứ năm được tiến hành từ
năm 1990 đến năm 1998. Đây là giai đoạn
phát triển tự chủ, chú trọng vào củng cố nền
tảng của sự tự quản và tự lực, đáp ứng nhu
cầu của tự do hóa và địa phương hóa, nỗ lực
vượt qua khủng hoảng kinh tế. Giai đoạn
này cũng chú trọng khuyến khích công dân
chuyển tình yêu cộng đồng láng giềng thành
thực tế đi liền với việc phục vụ người khác,
đồng thời với việc thúc đẩy quan niệm về
việc chia sẻ vận mệnh chung và phục hồi
đạo đức trong cộng đồng (The National
Council of Saemaul Undong Movement 1997:
17).
Ngoài năm giai đoạn phát triển ở trên, từ
năm 2013, trung tâm Korea Saemaul
Undong đã mở ra một thời kỳ mới với khẩu
hiệu: “Làm việc cùng nhau vì hạnh phúc
quốc gia thông qua Saemaul Undong thứ
hai” (Saemaul Undong Center 2016: 12). Như
vậy, phong trào làng mới đã trải qua các giai
đoạn phát triển với những đặc điểm riêng
của phong trào trong mỗi giai đoạn trên cơ
sở tinh thần, tư tưởng, mục tiêu, dự án, tổ
chức, và hoạt động của phong trào. Nhìn
một cách tổng thể, phong trào làng mới
được đánh giá là có vai trò không thể bàn
cãi đối với quá trình phát triển của Hàn
Quốc.
Bốn mươi năm sau thời điểm phong trào
làng mới được tuyên bố thực hiện ở Hàn
Quốc, chương trình xây dựng nông thôn mới
ở Việt Nam đã được triển khai. Cho đến nay
đã có nhiều văn bản khác nhau của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về xây dựng nông thôn
mới. Văn bản quan trọng đầu tiên cần đề cập
đến là Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa X “Về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn”. Nghị quyết đã khẳng định mục
tiêu: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu
hạ tầng kinh tế-xã hội hiện đại; cơ cấu kinh
tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý,
gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã
hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá
dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường
sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở
nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được
tăng cường” (Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X 2008).
Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết này, ngày 16
tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành “Quyết định về việc ban hành Bộ
tiêu chí quốc gia về nông thôn mới”. Bộ tiêu
chí có 19 tiêu chí về nông thôn mới. 19 tiêu
chí này thuộc 5 lĩnh vực: Quy hoạch, hạ tầng
kinh tế xã hội, kinh tế và tổ chức sản xuất,
văn hóa-xã hội-môi trường, hệ thống chính
trị (Thủ tướng Chính phủ 2009). Sau đó,
N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tâp̣ 2, Số 1b (2016) 16-25 19
ngày 4 tháng 6 năm 2010, Thủ tưởng Chính
phủ đã ban hành “Quyết định phê duyệt
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020”
(Thủ tướng Chính phủ 2010) và Ban chỉ đạo
Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới đã có “Kế hoạch
triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-
2020” vào ngày 20 tháng 9 năm 2010 (Ban
chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới 2010).
Cho đến nay, chương trình xây dựng nông
thôn mới ở Việt Nam đã đi được chặng đầu
tiên (2010-2015). Trong giai đoạn này,
Chương trình xây dựng nông thôn mới đã
triển khai 11 nội dung, bao gồm: Quy hoạch
xây dựng nông thôn mới, phát triển hạ tầng
kinh tế-xã hội, chuyển dịch cơ cấu, phát
triển kinh tế, nâng cao thu nhập, giảm nghèo
và an sinh xã hội, đổi mới và phát triển các
hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở
nông thôn, phát triển giáo dục-đào tạo ở
nông thôn, phát triển y tế, chăm sóc sức
khỏe cư dân nông thôn, xây dựng đời sống
văn hóa, thông tin và truyền thông nông
thôn, cấp nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn, nâng cao chất lượng tổ chức
Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị-xã hội
trên địa bàn, giữ vững an ninh, trật tự xã hội
nông thôn (Thủ tướng Chính phủ 2010).
Trong giai đoạn 2016-2020, những nội dung
trên sẽ tiếp tục được triển khai ở các địa
phương trong cả nước. Trên thực tế, quá
trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010-2015 đã làm thay đổi làng xã trên
nhiều phương diện. Phần viết tiếp theo đề
cập đến phương pháp thực hiện của phong
trào làng mới ở Hàn Quốc trong sự so sánh
với giải pháp chủ yếu để thực hiện chương
trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.
3. Phương pháp thực hiện của phong trào
làng mới ở Hàn Quốc và giải pháp chủ
yếu để thực hiện chương trình xây dựng
nông thôn mới ở Việt Nam
Phương pháp thực hiện phong trào làng
mới ở Hàn Quốc là một trong những yếu tố
quan trọng làm nên thành công của phong
trào làng mới. Có nhiều điểm đáng lưu ý khi
bàn về phương pháp làng mới. Điểm đáng
lưu ý đầu tiên là việc kết hợp giữa hỗ trợ của
chính phủ và tự lực của dân làng. Liên quan
đến vấn đề này, nhà nghiên cứu Do Hyun
Han (2012) đã nhấn mạnh rằng phong trào
này bắt đầu bởi một chương trình được tiến
hành ở khu vực nông thôn mùa đông năm
1970-1971, trong đó chính phủ hỗ trợ vật
chất cụ thể là xi măng còn dân làng đóng
góp sức lao động và đất đai để thực hiện các
dự án phát triển cộng đồng làng. Cách làm
này đã mang lại những thành công ban đầu
và được vận dụng để triển khai các dự án
phức hợp, đa dạng (Do Hyun Han 2012).
Liên quan đến phương pháp thực hiện phong
trào làng mới ở Hàn Quốc, các dự án trong
khuôn khổ phong trào được triển khai theo
quy trình ba bước: Lựa chọn những dự án
cần thiết, thực hiện các dự án, và đánh giá
kết quả các dự án. Nhiều tiêu chí đã được
đưa ra khi lựa chọn các dự án để thực hiện
chẳng hạn như dự án phải cần thiết đối với
người dân và cộng đồng địa phương, dự án
phải thúc đẩy tiềm năng của cộng đồng địa
phương, dự án phải có tác động lâu dài, lan
tỏa và có thể thực hiện được xét về mặt tiền
bạc, nhân lực và thời gian (The National
Council of Saemaul Undong Movement 1997:
46).
Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu để thực
hiện chương trình xây dựng nông thôn mới
cũng có những điểm giống với phương pháp
thực hiện phong trào làng mới ở Hàn Quốc.
Theo “Quyết định phê duyệt Chương trình
mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tâp̣ 2, Số 1b (2016) 16-25 20
mới giai đoạn 2010-2020” thì các giải pháp
để thực hiện chương trình xây dựng nông
thôn mới có những điểm nổi bật sau đây.
Thứ nhất, thực hiện cuộc vận động xã hội
sâu rộng về xây dựng nông thôn mới. Cụ thể
là tổ chức phát động, tuyên truyền, phổ biến,
vận động từ trung ương đến cơ sở, để mọi
tầng lớp nhân dân hiểu và cả hệ thống chính
trị tham gia. Thêm nữa, các mô hình, điển
hình tiên tiến, sáng kiến và kinh nghiệm hay
về xây dựng nông thôn mới được phổ biến
và nhân rộng, và phong trào thi đua xây
dựng nông thôn mới trong toàn quốc được
phát động. Thứ hai, thực hiện đa dạng hóa
các nguồn vốn huy động để triển khai thực
hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.
Các nguồn vốn đến từ ngân sách nhà nước,
doanh nghiệp, sự đóng góp tự nguyện của
nhân dân, và các khoản viện trợ không hoàn
lại của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước, và các nguồn vốn hợp
pháp khác. Thứ ba, Ban giám sát cộng đồng
gồm đại diện của Hội đồng nhân dân, Mặt
trận tổ quốc xã, các tổ chức xã hội và đại
diện của cộng đồng dân cư hưởng lợi công
trình do dân bầu thực hiện giám sát các công
trình cơ sở hạ tầng xã theo quy định hiện
hành về giám sát đầu tư của cộng đồng. Thứ
tư, cán bộ chuyên trách để triển khai chương
trình mục tiêu quốc gia được đào tạo. Đội
ngũ cán bộ chuyên trách ở các cấp từ Trung
ương đến địa phương được xây dựng để
triển khai có hiệu quả chương trình. Thứ
năm, hợp tác quốc tế trong xây dựng nông
thôn mới qua việc vận động, hợp tác với
các tổ chức quốc tế hỗ trợ tư vấn và kỹ thuật
cho chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới. Tranh thủ hỗ trợ vốn
và vay vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế
và các đối tác phát triển quốc tế để tăng
nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới. Thứ
sáu, Ban Chỉ đạo Trung ương để chỉ đạo
thực hiện chương trình được thành lập. Văn
phòng điều phối Chương trình giúp Ban Chỉ
đạo ở Trung ương đặt tại Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn. Ở các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn là cơ quan thường
trực điều phối, giúp Ban Chỉ đạo tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương thực hiện
Chương trình trên địa bàn (Thủ tướng Chính
phủ 2010).
Nhìn lại phương pháp thực hiện phong
trào làng mới ở Hàn Quốc và chương trình
xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam, chúng
ta thấy một số điểm tương đồng sau đây.
Thứ nhất, việc vận động quần chúng thực
hiện phong trào được coi trọng. Cả ở Hàn
Quốc lẫn ở Việt Nam, việc vận động quần
chúng thay đổi nhận thức và tham gia phong
trào đã được tiến hành sâu rộng. Thứ hai, cả
hai chương trình, phong trào đều dựa trên
phương pháp nhà nước và nhân dân cùng
làm. Điều này được thể hiện cụ thể trên
nhiều phương diện từ đóng góp tiền bạc cho
đến công lao động.
4. Một số kết quả chính của phong trào
làng mới ở Hàn Quốc và chương trình
xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Kết quả của phong trào làng mới ở Hàn
Quốc và chương trình xây dựng nông thôn
mới ở Việt Nam được thể hiện trên nhiều
phương diện khác nhau. Một số kết quả nổi
bật có thể kể đến cụ thể như sau.
Trước hết là về mặt kinh tế, phong trào
làng mới đã hiện đại hóa nông thôn Hàn
Quốc (The National Council of Saemaul
Undong Movement 1997: 48). Điểm đáng lưu
ý ở đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hàn
Quốc, thu nhập trung bình của hộ gia đình
sống ở khu vực nông thôn cao hơn thu nhập
trung bình của hộ gia đình sống ở khu vực
đô thị. Cụ thể là năm 1974, ba năm sau khi
thực hiện phong trào làng mới, thu nhập
bình quân của hộ gia đình sống ở khu vực
nông thôn là 674.000 Korean won, trong khi
N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tâp̣ 2, Số 1b (2016) 16-25 21
đó thu nhập bình quân của hộ gia đình sống
ở khu vực đô thị chỉ là 644. 000 Korean won
(The National Council of Saemaul Undong
Movement 1997: 48). Nếu tính sau mười năm
thực hiện phong trào làng mới, tức là năm
1979, thu nhập bình quân hộ gia đình ở khu
vực nông thôn Hàn Quốc đã tăng lên
2.227.500 Korean won (The National Council
of Saemaul Undong Movement 1997: 23).
Những chỉ báo quan trọng khác của sự phát
triển kinh tế ở nông thôn mà phong trào làng
mới mang lại là việc cơ giới hóa nông
nghiệp, củng cố quản lý sản xuất nông
nghiệp, và gia tăng năng suất trong sản xuất
nông nghiệp (The National Council of
Saemaul Undong Movement 1997: 49-50).
Một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự thành
công về mặt kinh tế của phong trào làng mới
là cuối thập kỷ 1970, Hàn Quốc không còn
phải đối mặt với thiếu hụt lương thực do
nguyên nhân nguồn cung trong nước (Asian
Development Bank 2012: vii). Điều đặc biệt
quan trọng cần phải nhấn mạnh ở đây là
phong trào làng mới đã tạo nên sự phát triển
mạnh cơ sở hạ tầng ở nông thôn Hàn Quốc
như đường sá, cầu cống, hệ thống cung cấp
nước, nhà cửa, hệ thống lưới điện, v.v
Điều này góp phần vào việc phát triển kinh
tế hộ gia đình và tạo môi trường sống tốt ở
khu vực nông thôn Hàn Quốc (The National
Council of Saemaul Undong Movement 1997:
22).
Ở Việt Nam quá trình xây dựng nông
thôn mới đã tạo nên những biến đổi, phát
triển kinh tế và tổ chức sản xuất ở làng xã.
Chỉ báo đầu tiên phản ánh sự phát triển kinh
tế mà chương trình nông thôn mới góp phần
mang lại là thu nhập của dân cư tăng lên, tỷ
lệ hộ nghèo giảm. Cụ thể, mức thu nhập
bình quân đầu người vùng nông thôn đã đạt
24,4 triệu đồng/năm, tăng khoảng 1,9 lần so
với năm 2010. Trong 5 năm thực hiện
chương trình nông thôn mới số hộ nghèo ở
nông thôn giảm mạnh, chỉ còn 8,2% (VPĐP
NTM Trung ương 2015). Chương trình xây
dựng nông thôn mới đã phát triển hệ thống
hạ tầng nông thôn mạnh mẽ trên các phương
diện như: Sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu,
quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội-
môi trường, quy hoạch phát triển các khu
dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư
hiện có; nâng câp hệ thống giao thông, thủy
lợi, nhà văn hóa, chợ nông thôn, bưu điện,
nhà ở dân cư. Chẳng hạn như khu vực nông
thôn của tỉnh Tuyên Quang-một tỉnh miền
núi thuộc vùng Tây Bắc của Việt Nam-trong
5 năm thực hiện chương trình nông thôn mới
3.173,319 km đường giao thông nông thôn
đã được xây dựng và hoàn thiện (Ủy ban
Nhân dân tỉnh Tuyên Quang-Ban chỉ đạo
Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng
nông thôn mới 2016: 2). Hoặc là ở tỉnh Bạc
Liêu-một tỉnh thuộc miền Tây Nam Bộ của
Việt Nam, sau 5 năm thực hiện chương trình
xây dựng nông thôn mới, 144 nhà văn hóa
ấp đã được xây dựng mới, 29 trạm y tế xã đã
được nâng cấp (Ủy ban Nhân dân tỉnh Bạc
Liêu 2016: 12).
Thứ hai, về mặt xã hội, cơ hội giáo dục
và hưởng thụ văn hóa của người dân Hàn
Quốc được nâng cao nhờ vào phong trào
làng mới. Chẳng hạn, trong lĩnh vực giáo
dục, nếu giai đoạn 1969-1979 chỉ có khoảng
12% đến 13% chủ hộ gia đình nông thôn có
học vấn trung học hoặc cao hơn thì đến năm
1979 con số này tăng lên 30% (The National
Council of Saemaul Undong Movement 1997:
50). Lối sống nông thôn cũng được hiện đại
hóa với nhiều hộ gia đình có thiết bị điện tử,
máy móc nông nghiệp. Điều đáng lưu ý ở
đây là dân chủ hóa đời sống xã hội được
thúc đẩy và vị thế của phụ nữ được gia tăng
(The National Council of Saemaul Undong
Movement 1997: 50-51).
Ở Việt Nam, phong trào xây dựng nông
thôn mới đã tạo nên đời sống văn hóa mới ở
các làng xã. Những biến đổi này bắt nguồn
từ quá trình các địa phương thực hiện tiêu
N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tâp̣ 2, Số 1b (2016) 16-25 22
chí liên quan đến giáo dục, y tế, văn hóa,
môi trường trong Bộ tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới (Thủ tướng Chính phủ 2009).
Quá trình hướng đến các mục tiêu này đã
mang lại những thay đổi ở nhiều làng xã về
phương diện giáo dục, y tế, văn hóa. Đơn cử
như ở tỉnh Nam Định, toàn tỉnh đã phổ cập
giáo dục mầm non, tiểu học và trung học cơ
sở; 99% số trẻ ở độ tuổi đến lớp mẫu giáo,
100% số trẻ học mẫu giáo 5 tuổi vào tiểu
học, 90% số học sinh tốt nghiệp trung học
cơ sở và trung học phổ thông (Ủy ban Nhân
dân tỉnh Nam Định 2016: 9).
Thành tựu thứ ba của phong trào làng
mới ở Hàn Quốc là tạo nên sự thay đổi tinh
thần, thái độ của người dân theo hướng tích
cực. Cụ thể là phong trào đã chuyển tinh
thần, tư tưởng “chủ bại” kéo dài trong người
dân Hàn Quốc sang tinh thần “có thể làm”
với hy vọng mới, tầm nhìn chung, lòng nhiệt
tình và tự nguyện để xây dựng cuộc sống tốt
đẹp hơn (Asian Development Bank 2012:
vii). Minh chứng cho điều này là kết quả
nghiên cứu năm 1970 với 52,0% số người
được khảo sát có suy nghĩ tích cực về “tự
lực”, “nỗ lực của bản thân”. Năm 1975, kết
quả khảo sát chỉ ra rằng 82,0% những người
được hỏi thể hiện mong muốn làm việc
chăm chỉ hơn để có những kết quả tốt hơn.
Thêm nữa, nếu như năm 1970 chỉ có 48,9%
số người được hỏi nói những người xung
quanh họ và bản thân họ sẵn lòng chấp nhận
cách nghĩ mới, công nghệ mới, và phương
pháp mới thì con số này tăng lên 80,5% vào
năm 1975 (The National Council of Saemaul
Undong Movement 1997: 52).
Ở Việt Nam, sau 5 năm triển khai thực
hiện, chương trình xây dựng nông thôn mới
đã được người dân hưởng ứng và trở thành
phong trào rộng khắp cả nước. Một trong
những điểm đáng lưu ý về tinh thần thái độ
của người dân trong quá trình xây dựng
nông thôn mới là từ chỗ số đông còn tư
tưởng trông chờ, ỷ lại vào đầu tư của Nhà
nước đã chuyển sang chủ động, tự tin tham
gia tích cực vào xây dựng nông thôn mới.
Thêm nữa, đội ngũ cán bộ vận hành chương
trình, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cơ sở, đã
được nâng lên rõ rệt về năng lực. Đội ngũ
này cũng có nhận thức đầy đủ hơn và tổ
chức thực hiện chương trình có hiệu quả
hơn, nhất là trong việc xây dựng dự án, vận
động quần chúng và tổ chức, thực hiện dự
án trong khuôn khổ chương trình xây dựng
nông thôn mới (VPĐP NTM Trung ương
2015).
Đánh giá vể kết quả của phong trào làng
mới ở Hàn Quốc, nhà nghiên cứu Do Hyun
Han cho biết các cuộc khảo sát ở phạm vi
quốc gia cho thấy hầu hết người dân Hàn
Quốc tự hào cho rằng chiến dịch hiện đại
hóa nông thôn này là một trong những
trường hợp thành công nhất của lịch sử Hàn
Quốc hiện đại. Phong trào làng mới hay
phong trào cộng đồng mới này là một mô
hình thành công của xóa đói giảm nghèo,
thay đổi thái độ/cách mạng tinh thần, và
hiện đại hóa nông thôn. Phong trào này tạo
lực đẩy cho hiện đại hóa nông thôn và tăng
trưởng kinh tế của Hàn Quốc thập niên
1970. Thành công của phong trào đã đóng
góp lớn cho sự phát triển của các khu vực
nông thôn và tạo động lực cho người dân
mong muốn về sự thịnh vượng, giàu có hơn
trong tương lai (Do Hyun Han 2012). Đánh
giá thành công của phong trào Saemaul
Undong ở Hàn Quốc, nhà nghiên cứu Reed
(2010) cũng cho rằng một lý do quan trọng
để học hỏi phong trào này là phong trào đạt
được thành công trong khoảng thời gian rất
ngắn, chỉ trong thập kỷ 1970. Trong thời
gian ngắn như vậy mà phong trào đã nâng
cao thu nhập, cải thiện đời sống ở các vùng
nông thôn và giảm khoảng cách nông thôn-
đô thị. Trong khi đó, hiện nay có rất nhiều
thất bại trên thế giới trong việc phát triển
N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tâp̣ 2, Số 1b (2016) 16-25 23
cộng đồng nông thôn. Vì vậy, phong trào
làng mới cần được quan tâm nghiên cứu
(Reed 2010).
Ở Việt Nam, khi đánh giá về chương
trình xây dựng nông thôn mới, tại Hội nghị
toàn quốc tổng kết 5 năm thực hiện Chương
trình nông thôn mới giai đoạn 2010-2015
ngày 08 tháng 12 năm 2015, Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã
khẳng định: Sau 5 năm triển khai thực hiện,
chương trình đã đạt được những kết quả rất
to lớn, bộ mặt nông thôn đã đổi thay tích
cực, phong trào xây dựng nông thôn mới đã
được người dân hưởng ứng và trở thành
phong trào rộng khắp cả nước. Tại hội nghị
này, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam cũng nhấn
mạnh: Phong trào xây dựng nông thôn mới
thời gian qua thực sự là một phong trào cách
mạng sâu rộng, huy động được sự tham gia
của toàn dân và thành công, kết quả đạt
được cũng vì mục tiêu cuối cùng là xây
dựng đời sống mới, chăm lo lợi ích thiết
thực, nhiều mặt cho người nông dân. Thủ
tướng Chính phủ Việt Nam cũng cho rằng:
Nhìn tổng thể sau 5 năm triển khai thực
hiện, Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới đã được triển khai tích
cực, đúng hướng, đạt được nhiều kết quả
quan trọng, được nhân dân đồng tình, ủng
hộ và tham gia tích cực (VPĐP NTM Trung
ương 2015). Dưới một góc nhìn nhất định,
có thể nói rằng, chủ trương, chính sách xây
dựng nông thôn mới là nhân tố quan trọng
bậc nhất tạo nên sự phát triển làng xã ở Việt
Nam hiện nay. Trong tiến trình này, nông
thôn Việt Nam đã và đang biến đổi sâu sắc
trên nhiều phương diện khác nhau, từ lao
động, việc làm và tổ chức sản xuất, đến văn
hóa, giáo dục, môi trường; và an ninh, chính
trị, quản lý làng xã.
5. Từ xây dựng làng mới ở Hàn Quốc đến
một số hàm ý liên quan đến xây dựng
nông thôn mới ở Việt Nam
Cho đến nay, chương trình xây dựng
nông thôn mới ở Việt Nam đã có nhiều
thành tựu sau 5 năm thực hiện. Tuy nhiên,
để phát huy hơn nữa hiệu quả của chương
trình xây dựng nông thôn mới trong thực tế
thì từ thành công của phong trào xây dựng
làng mới ở Hàn Quốc, chúng tôi muốn nêu
lên một số hàm ý đối với quá trình xây dựng
nông thôn mới ở Việt Nam như sau.
Thứ nhất, như đã đề cập đến ở trên, trong
phong trào làng mới ở Hàn Quốc, việc triển
khai các dự án dự án phải dựa trên cơ sở xác
định sự cần thiết của dự án đối với người
dân và cộng đồng địa phương. Thêm nữa, dự
án phải thúc đẩy tiềm năng của cộng đồng
địa phương, đồng thời có tác động lâu dài,
lan tỏa và đặc biệt là có tính khả thi về tài
chính, nhân lực và thời gian. Với bài học
quan trọng này, chúng tôi cho rằng quá trình
thực hiện chương trình xây dựng nông thôn
mới ở Việt Nam nên tiến hành dựa trên cơ
sở triển khai các dự án cần thiết đối với từng
làng xã/địa phương cụ thể. Tùy vào bối cảnh
của từng làng xã để xác định sự cần thiết của
các dự án, xây dựng kế hoạch và triển khai
dự án. Không nên rập khuôn đồng loạt các
dự án giống nhau ở tất cả các địa phương,
vùng miền. Thêm nữa, các dự án được triển
khai ở địa phương phải có hiệu quả thực sự,
tránh việc dự án đã hoàn thành nhưng không
được sử dụng, hoặc hiệu quả sử dụng hạn
chế. Điều đặc biệt lưu ý nữa là tính khả thi
của các dự án. Nói cách khác, các dự án khi
xây dựng kế hoạch và triển khai phải cân
nhắc cẩn trọng nguồn tài chính, nhân lực và
thời gian để tránh việc nợ nần hoặc đặt gánh
nặng quá mức lên cư dân địa phương.
Thứ hai, như đã đề cập đến ở trên trong
giai đoạn thứ ba của phong trào làng mới ở
Hàn Quốc, phong trào đã mở rộng đơn vị cơ
N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tâp̣ 2, Số 1b (2016) 16-25 24
bản của phong trào và phạm vi của các dự
án. Tức là nếu như trong giai đoạn trước,
các làng riêng lẻ là những đơn vị cơ bản
thực hiện phong trào thì trong giai đoạn này
có sự liên kết giữa các làng để các dự án có
thể bao phủ một vùng địa lý rộng lớn. Điều
này cho chúng ta một gợi ý quan trọng đối
với quá trình thực hiện xây dựng nông thôn
mới ở Việt Nam là việc xây dựng nông thôn
mới ở Việt Nam nên coi trọng việc liên kết
giữa các xã trong quá trình thực hiện các dự
án để có thể kết nối nguồn lực và tạo nên
hiệu quả rộng của các dự án vượt ra bên
ngoài phạm vi từng xã.
Thứ ba, phong trào làng mới ở Hàn Quốc
đã đặc biệt coi trọng liên kết khu vực nông
thôn và khu vực đô thị chặt chẽ hơn để có
thể tạo cộng đồng kết nối rộng nhằm phát
triển nông thôn và cả đô thị. Điều này đưa
đến gợi ý là ở Việt Nam, việc xây dựng
nông thôn mới cần chú trọng đẩy mạnh sự
kết nối nông thôn-đô thị trên các phương
diện khác nhau, nhất là hoạt động thương
mại, tiêu thụ nông sản. Đây là cơ sở quan
trọng để có thể gia tăng giá trị sản phẩm
nông nghiệp, thúc đẩy phát triển sản xuất ở
khu vực nông thôn.
Tài liệu trích dẫn
Asian Development Bank. 2012. "Saemaul Undong
Movement in the Republic of Korea: Sharing
Knowledge on Community-Driven Development."
Mandaluyong City, The Philippines.
(
29881/saemaul-undong-movement-korea.pdf).
Truy cập tháng 2 năm 2016.
Ban Chấp hành Trung ương. 2008. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa
X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cổng
thông tin điện tử Bộ Tư pháp.
(
0lut/view_detail.aspx?itemid=24601). Truy cập
tháng 8 năm 2016.
Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới. 2010. Kế hoạch triển
khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010-2020. Cổng thông
tin điện tử chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới
(
wDocument/View_Detail.aspx?ItemID=1294&Pa
ge=1). Truy cập tháng 7 năm 2016.
Chang Soo Choe. 2005. "Key Factors to Successful
Community Development: The. Korean
Experience." Institute of Developing Economies-
Japan External Trade Organization (DE-JETRO
Discussion Paper No.39).
(
Dp/pdf/039.pdf). Truy cập tháng 2 năm 2016.
Do Hyun Han. 2012. "The Successful Cases of the
Korea’s Saemaul Undong (New Community
Movement)." Korea Saemaulundong Center;
Ministry of Public Administration and Security
(MOPAS), Republic of Korea.
(
%20English_The%20successful%20Cases%20of
%20the%20Korea's%20saemaul%20Undong%20
(New%20Comminity%20Movement).pdf). Truy
cập tháng 2 năm 2016.
Reed, P Edward. 2010. "Is Saemaul Undong a Model
for Developing Countries Today?" Paper
prepared for International Symposium in
Commemoration of the 40th Anniversary of
Saemaul Undong Hosted by the Korea Saemaul
Undong Center September 30, 2010.
(https://asiafoundation.org/resources/pdfs/Saemaul
UndongReedSept2010FINAL.pdf). Truy cập
tháng 2 năm 2016.
Saemaul Undong Center. 2016. “Korea’s
Development Experience Saemaul Undong”.
(
view?boardType=KOREA&seqNo=601). Truy
cập tháng 8 năm 2016.
The National Council of Saemaul Undong
Movement. 1997. "Saemaul Undong in Korea."
Seoul, Korea.
(
view?boardType=KOREA&seqNo=320). Truy
cập tháng 2 năm 2016.
Thủ tướng Chính phủ. 2009. "Quyết định về việc ban
hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới."
Cổng thông tin điện tử Chương trình mục tiêu
N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tâp̣ 2, Số 1b (2016) 16-25 25
quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-
2020
(
wDocument/View_Detail.aspx?ItemID=1222&Pa
ge=1). Truy cập tháng 4 năm 2015.
Thủ tướng Chính phủ. 2010. "Quyết định Phê duyệt
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010-2020." Cổng thông
tin điện tử Chính phủ Nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam
(
nhphu/hethongvanban?class_id=1&_page=2&m
ode=detail&document_id=95073), truy cập tháng
2 năm 2013.
Ủy ban Nhân dân tỉnh Bạc Liêu. 2016. "Báo cáo kết
quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới (giai đoạn 2010-2015) gắn
với Tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bạc Liêu."
Ủy ban Nhân dân tỉnh Nam Định. 2016. "Báo cáo
tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010-2015; phương
hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020."
Ủy ban Nhân dân tỉnh Tuyên Quang-Ban chỉ đạo
Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông
thôn mới. 2016. "Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông
thôn mới tỉnh Tuyên Quang, giai đoạn 2011-2015;
phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020.".
VPĐP NTM Trung ương. 2015. "Hội nghị toàn quốc
tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình nông thôn
mới giai đoạn 2010-2015." Cổng thông tin điện tử
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới
(
ew_Detail.aspx?ItemID=79). Truy cập tháng 7
năm 2016.
View publication stats
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phong_trao_lang_moi_o_han_quoc_va_chuong_trinh_xay_dung_nong_thon_moi_o_viet_nam_5991_2066594.pdf