Thứ tư: Gợi ý một số cách học phù hợp với PCHT của sinh viên
- Phong cách học tập thị giác: sinh viênnên dùng nhiều vật dụng trực quan như: tranh,
biểu đồ, sơ đồ, đồ thị Khi đọc tài liệu, sách, cần dùng màu sắc để làm nổi bật các điểm
quan trọng trong bài đọc, hay ghi chú bằng các mã màu để dễ ghi nhớ. Nên sử dụng sơ đồ
tư duy màu sắc trong các bài học để tổ chức thông tin cho một bài tập hoặc cho một kỳ thi
và đặt các bản đồ tư duy đó trên các bức tường trong khu vực học tập của bạn, như vậy sẽ
nắm được bài và hiểu bài nhanh hơn. Hoặc khi lên lớp cần ghi chép lại các điểm chính và
sao chép lại các thông tin có ở trên bảng, cần học ở nơi yên lặng để tránh sự ồn ào và
những nơi không có quá nhiều hình ảnh không liên quan tới bài học gây mất tập trung
- Phong cách học tập thính giác: Với những người học thính giác, trong giờ học nên
tập trung lắng nghe hoặc dùng máy ghi âm trong suốt quá trình nghe giảng thay cho
việc ghi chép. Khi học bài ở nhà cần đọc to thành tiếng các tài liệu để tiếp nhận thông
tin nhanh hơn; lên lớp tăng cường phát biểu, trao đổi thông tin bằng ngôn ngữ nói.
- PCHT xúc giác – vận động: Người học nên tự làm, tự thực hành để tiếp thu và ghi
nhớ thông tin dễ dàng hơn. Trên lớp học, cần tham gia vào các hoạt động nhóm, các trò
chơi hay giờ thực hành và thường xuyên nghỉ giải lao khi thời gian đọc quá nhiều. Bên
cạnh đó, người học xúc giác cần đi thực tế, trải nghiệm mới học hỏi, lĩnh hội kiến thức
hiệu quả nhất, chẳng hạn: sinh viên kinh tế có thể đi làm thêm, làm cộng tác viên ở các
công ty, các nhà hàng, các địa điểm kinh doanh Là sinh viên kinh tế ngoài kiến thức
lý thuyết, những chuyến đi thực địa là rất cần thiết.
- Phong cách học tập cá nhân: Người học PCHT cá nhân cần phải học ở những nơi
thật yên tĩnh; cần xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng môn học; chuẩn bị đầy đủ các tài
liệu tham khảo, sách hướng dẫn, giáo trình liên quan để thuận lợi cho việc tự nghiên
cứu; cố gắng kiên trì, xem xét kỹ trước khi giải quyết vấn đề. Cần học ở những nơi ít
người, có không gian học tập riêng.
- Phong cách học tập nhóm: Người thiên về PCHT nhóm cần: tích cực tham gia nhiều
vào các hoạt động thảo luận, trao đổi ý kiến với thầy cô bạn bè trong giờ học. Tích cực
bày tỏ ý kiến trong các cuộc thảo luận hay tương tác với những người khác. Cần tìm
những người phù hợp để tạo nhóm, tham gia nhiều vào các hoạt động tập thể, rèn luyện
các kỹ năng làm việc nhóm như: kỹ năng nêu và giải quyết vấn đề, kỹ năng thuyết trình
8 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 730 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phong cách học tập của sinh viên trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế - Nguyễn Thị Hà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 03(35)/2015: tr.79-87
PHONG CÁCH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌCKINH TẾ, ĐẠI HỌC HUẾ
NGUYỄN THỊ HÀ - NGUYỄN VĂN BẮC
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Phong cách học tập (PCHT) tổng hợp những đặc điểm nhận thức,
tình cảm và các yếu tố sinh lý mang tính tương đối ổn định của người học,
nó cho biết cách người học tương tác và đáp ứng các môi trường học tập.
PCHT có tác động lớn tới kết quả và chất lượng học tập của sinh
viên.Nghiên cứu này khảo sát nhận thức và biểu hiện về PCHT của sinh viên
các chuyên ngành khác nhau của trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế. Kết
quả nghiên cứu cho thấy sinh viên nhận thức khá đúng đắn về tầm quan
trọng của PCHT.PCHT ưu thế của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Kinh tế là phong cách thiên về xúc giác – vận động và nhóm. Có mối tương
quan thuận, khá chặt giữa PCHT thính giác, xúc giác - vận động, nhóm với
kết quả học tập.Theo đánh giá của sinh viên, PCHT của họ chịu ảnh hưởng
nhiều bởi yếu tố phương pháp giảng dạy của giảng viên, tiếp theo là yếu tố
sở thích cá nhân, đến sức khỏe – thái độ - phương pháp học, tính cách bản
thân, trí thông minh, môi trường văn hóa xã hội, điều kiện môi trường học
tập. Từ những kết quả đó, nghiên cứu đã đề xuất các biện pháp giúp sinh
viên phát huy hiệu quả của PCHT ưu thế.
Từ khóa: sinh viên, phong cách học tập, Đại học Kinh tế - Đại học Huế
1. MỞ ĐẦU
Phong cách học tập được xem là tổng hợp những đặc điểm nhận thức, tình cảm và các yếu
tố sinh lý mang tính tương đối ổn định của người học, nó cho biết cách người học tương
tác và đáp ứng các môi trường học tập (Tobias, 2014). Khái niệm PCHT được chú trọng
nghiên cứu từ những năm 1980 kể từ khi Kolb (1985) đưa ra danh mục bảng hỏi khảo sát
phong cách học tập LSI (learning styles intenvory) (Noguera và Wageman, 2011). PCHT
được đặc biệt quan tâm trong lĩnh vực tâm lý và giáo dục (Morand, 1991) bởi nó được
cho là có mối quan hệ đặc biệt gần gũi với chiến lược học tập (McCarthy, 1980; Noguera
và Wageman, 2011).Trong học tập, mỗi người đều có một cách tiếp thu, lưu giữ và cách
xử lý thông tin khác nhau (Topias, 2014). Tùy theo khả năng, sở thích, tính cách của
mỗi người mà họ hình thành một PCHT riêng. PCHT là những đặc điểm tâm lý ưu thế và
bền vững của mỗi cá nhân trong quá trình học tập (Nguyễn Công Khanh, 2007). Theo
Đinh Thị Hồng Vân (2006), PCHT được chia thành 05 loại cơ bản, bao gồm: thị giác,
thính giác, xúc giác-vận động, cá nhân, và nhóm. Trong đó, người có PCHT thị
giác/không gian (visual/spatial learning style) sẽ có thể học nhanh hơn khi được nhìn thấy
sự vật, hiện tượng, hình ảnh đang học. Người có PCHT thính giác (audio learning style)
thì nhạy cảm với âm thanh và việc học sẽ hiệu quả hơn nếu có phần hỗ trợ về âm thanh
(ví dụ học trên nền nhạc). Người học có PCHT thuộc nhóm xúc giác-vận động (tactile
80 NGUYỄN THỊ HÀ - NGUYỄN VĂN BẮC
movement) thì tương tác tốt với nội dung đang học nếu được chạm vào vật thể hoặc vận
động phù hợp với nội dung kiến thức đó. PCHT cá nhân (individual) có thể thấy ở những
người học hướng nội thích tự suy luận, nghiên cứu độc lập. PCHT nhóm (interpersonal)
thể hiện ở những người học có nhu cầu trao đổi, liên hệ, thảo luận với những đối tượng
khác về các nội dung đang học để có thể tiếp thu tốt hơn.
Nếu có cách học phù hợp với PCHT thì việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức sẽ có hiệu quả cao
và việc học diễn ra một cách nhẹ nhàng, thoải mái hơn. Tuy nhiên hiện nay, tại nhiều
nước đang phát triển, PCHT của sinh viên chưa được quan tâm nghiên cứu nhiềuvà
giảngviên, sinh viên còn khá “lạ lẫm” với thuật ngữ này. Nhiều giảng viên dạydựa trên
phong cách yêu thích của mình chứ chưa để ý đến PCHT của người học. Sinh viên thì
đa phần học theo thói quen,sở thích của bản thân hoặc bắt chước theo bạn bè.
Sinh viên năm thứ nhất là những người mới bước vào môi trường đại học, những kiến
thức mới lạ, các phương pháp dạy học khác với phổ thông đã khiến không ít sinh viên gặp
nhiều khó khăn trong việc tổ chức hoạt động học tập của mình. Một trong những lý do cơ
bản của thực trạng này là do sinh viên chưa biết các thế mạnh trong cách học của bản
thân. Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi tiến hành khảo sát PCHT của sinh viênnăm thứ
nhất trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế (ĐHKT – ĐHH) và từ đó đề xuất các cách học
phù hợp với PCHT của sinh viên, nhằm giúp sinh viênnâng cao hiệu quả học tập.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để nghiên cứu PCHT của sinh viên, chúng tôi tiến hành khảo sát ý kiến của 300 sinh
viên (gồm 110 nam và 190 nữ thuộc 6 ngành học khác nhau) và 15 giảng viên. Phương
pháp nghiên cứu chính được sử dụng là điều tra bằng bảng hỏi nhằm khảo sát, tìm hiểu
thực trạng PCHT của sinh viên năm thứ nhất, trường ĐHKT – ĐHH. Năm loại phong
cách cơ bản bao gồm: thị giác, thính giác, xúc giác-vận động, cá nhân, nhóm và được
phân thành 3 nhóm: nhóm PCHT ưu thế (38 - 50 điểm), nhóm PCHT ít ưu thế (25-37
điểm), nhóm PCHT không rõ ràng (0-24 điểm). Ngoài ra, nghiên cứu còn sử dụng
phương pháp quan sát và phương pháp phỏng vấn sâu.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Mức độ nhận thức của sinh viên về phong cách học tập của bản thân
Số liệu ở bảng 1 cho thấy hơn 50% sinh viên năm thứ nhất trường ĐHKT Huế có khả
năng nhận biết được PCHT của bản thân, trong đó, 11% sinh viên khẳng định biết rất rõ
và 43,7% biết về phong cách học của mình. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ sinh
viên “không biết” và “biết không rõ ràng” về PCHT của cá nhân mình. Cụ thể, có
41,7% sinh viênhơi đoán biết nhưng không rõ ràng và 3,6% sinh viên hoàn toàn không
biết gì về PCHT của bản thân.
Như vậy, phần lớn sinh viên hận thức khá tốt về PCHT của bản thân nhưng vẫn còn một
bộ phận không nhỏ sinh viên không biết rõ về PCHT của mình, đây là khó khăn cản trở
sinh viên sử dụng hiệu quả PCHT của bản thân vào hoạt động học tập.
PHONG CÁCH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNGĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐẠI HỌC HUẾ 81
Bảng1. Nhận thức của sinh viên về phong cách học tập của bản thân
3.2. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của phong cách học tập
Số liệu ở bảng 2 cho thấy đa số sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của PCHT với
hoạt động học tập. Phần lớn sinh viên cho rằng PCHT có ý nghĩa rất quan trọng đối với
việc dạy và học. Việc xác định được PCHT sẽ giúp cho giảng viên hiểu rõ người học,
tiến hành hoạt động dạy học phù hợp với từng đối tượng và giúp cho người học hình
thành được cách học phù hợp với thế mạnh của mình, tổ chức quá trình tự học có hiệu
quả, phát huy được thế mạnh và khắc phục điểm yếu của bản thân. Có nhiều sinh viên
đồng ý “PCHT giúp người học tổ chức quá trình tự học hiệu quả, phát huy điểm mạnh
và khắc phục điểm yếu của bản thân” (chiếm 22,7%). Bên cạnh đó, có 13% sinh viên
nhận thấy PCHT có thể giúp người học hình thành được cách học phù hợp với thế mạnh
của mình và 6,3% ý kiến lại cho rằng xác định được PCHT sẽ giúp giáo viên hiểu rõ
người học và tiến hành hoạt động dạy học phù hợp với từng đối tượng.
Bảng 2.Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của phong cách học tập
STT Ý nghĩa của PCHT Số lượng Tỉ lệ
1 Giúp giáo viên hiểu rõ người học và tiến hành hoạt động dạy học phù hợp với từng đối tượng 19 6,3
2 Giúp người học hình thành được cách học phù hợp với thế mạnh của mình 39 13,0
3 Giúp người học tổ chức quá trình tự học hiệu quả, phát huy được thế mạnh và khắc phục điểm yếu của bản thân 68 22,7
4 Cả ba nội dung trên 174 58,0
Tổng 300 100,0
Như vậy, phần lớn sinh viên đã đánh giá cao tầm quan trọng, ý nghĩa của PCHT đối với
hoạt động học tập và điều này có lợi đối với chất lượng học tập ở sinh viên. Tuy nhiên, còn
nhiều sinh viên nhận thức, đánh giá chưa đầy đủ về ý nghĩa của PCHT và điều này cho thấy
khả năng hiểu biết của sinh viên về PCHT còn nhiều hạn chế. Do đó, sinh viên chưa thực sự
quan tâm, hứng thú tìm hiểu và sử dụng PCHT trong hoạt động học tập của bản thân. Vấn
đề này ít nhiều cũng ảnh hưởng không tốt đến kết quả học tập của sinh viên.
STT Mức độ nhận thức Số lượng Tỉ lệ
1 Biết rất rõ về PCHT của mình 33 11,0
2 Biết PCHT của mình 131 43,7
3 Hơi đoán biết về PCHT của mình 125 41,7
4 Không biết PCHT của mình 11 3,6
Tổng 300 100
82 NGUYỄN THỊ HÀ - NGUYỄN VĂN BẮC
3.3. Biểu hiện phong cách học tập của sinh viên
Số liệu từ bảng 3 cho thấycác PCHT đều nằm mức giới hạn điểm của PCHT ưu thế và
PCHT ít ưu thế, không có phong cách không rõ ràng. PCHT ưu thế là PC xúc giác - vận
động và PC nhóm (38 - 50 điểm), các PC nhìn - nghe - cá nhân nằm trong giới hạn điểm
của PC ít ưu thế (25 - 37 điểm).Tuy nằm cùng trong một mức điểm nhưng điểm trung
bình (ĐTB) của mỗi PCHT rất khác nhau. Cùng nằm trong giới hạn điểm PCHT ưu thế
nhưng PCHT xúc giác - vận động có ĐTB là 41,22 và điểm thấp nhất là 26, điểm cao
nhất là 50, cao hơn so với PCHT nhóm (ĐTB là 39,25 và điểm thấp nhất là 18, điểm cao
nhất là 50). Tương tự ở nhóm PCHT ít ưu thế: PC thị giác có ĐTB cao nhất (31,47),
điểm thấp nhất là 16 và cao nhất là 48; PCHTcá nhân ĐTB là 29,51 điểm, điểm thấp
nhất là 10 và cao nhất là 50; PCHT thính giác có ĐTB là 29,43, điểm thấp nhất là 10 và
điểm cao nhất là 46.
Bảng 3. Phong cách học tập của sinh viên năm thứ nhất
STT Phong cách học tập Điểm thấp nhất
Điểm cao
nhất
Điểm trung
bình
Độ lệch
chuẩn
1 Thị giác 16 48 31,47 5,935
2 Thính giác 10 46 29,43 6,284
3 Xúc giác - vận động 26 50 41,22 4,821
4 Cá nhân 10 50 29,51 7,481
5 Nhóm 18 50 39,25 5,564
Như vậy, PCHT ưu thế nổi bật của sinh viên qua bảng hỏi là PCHT xúc giác – vận động và
nhóm. Tuy nhiên, trong thực tế, sinh viên lại tự xác định PCHT ưu thế của họ là cá nhân và
nhóm. Điều này chứng tỏ sinh viên chưa nhận thức đúng về PCHT thực sự của bản thân,
nhận thức của các em còn thiếu chính xác, mang tính chất “suy đoán” nhiều hơn.
Kết quả nghiên cứu còn cho thấy có sự khác biệt về PCHT ở một số ngành học. Cụ
thể, trong PCHT thị giác có sự khác biệt rõ rệt về điểm trung bình giữa ngành kinh
doanh thương mại và quản trị nhân lực (ĐTB khác biệt = -4,040;p = 0,009 < 0,05),
giữa ngành quản trị nhân lực và hệ thống thông tin quản lý (ĐTB khác biệt = 3,089;p
= 0,0021 < 0,05). Ở PCHT thính giác có sự khác biệt giữa ngành kinh tế và kinh
doanh thương mại (ĐTB khác biệt = 2,180;p= 0,040 < 0,05). Ở PCHTxúc giác – vận
động chỉ có sự khác biệt giữa ngành quản trị kinh doanh và marketing (ĐTB= 2,478;
P=0,032 < 0,05). Trong PCHTcá nhân có sự khác biệt giữa ngành kinh tế và hệ thống
thông tin quản lý (ĐTB= 3,395;p = 0,031 <0,05).
Có thể thấy, sinh viên trường Kinh tế thường năng động, hăng hái trong học tập hơn sinh
viên ở những môi trường khác. Hơn nữa với những đặc điểm đặc trưng của các ngành học
kinh tế luôn đòi hỏi người học phải linh hoạt, nhạy bén trước các tình huống thực tiễn xảy
ra khi kinh doanh và những kỹ năng cần có như làm việc nhóm, thuyết trình, giao
tiếpBên cạnh đó, khi học một số môn học chuyên ngành kinh tế, người học cần phải
trực tiếp tìm hiểu ở những địa điểm kinh doanh hay đi thực tế ở những nơi liên quan đến
PHONG CÁCH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNGĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐẠI HỌC HUẾ 83
môn học để nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm, cập nhật thông tin, nắm bắt kiến thức
một cách đầy đủ nhất. Chẳng hạn như: ngành marketing, hệ thống thông tin quản lý, kinh
doanh thương mại Hơn nữa, ở trường kinh tế, khi giảng dạy, giảng viên thường xuyên
sử dụng phương pháp chia nhóm học tập và yêu cầu sinh viên thâm nhập thực tế để viết
bài thu hoạch, làm bài tiểu luậnVì vậy, PCHT xúc giác – vận động và nhóm sẽ là
những PCHT phù hợp và mang lại hiệu quả cho hoạt động học tập của sinh viên.
3.4. Mối tương quan giữa phong cách học tập và kết quả học tập của sinh viên
Kết quả ở bảng 4 cho thấy, có mối tương quan thuận, khá mạnh giữa PCHT thính giác,
xúc giác - vận động, nhóm với kết quả học tập. Hệ số tương quan giữa kết quả học tập
với PCHT thính giác (r= 0,193, p= 0,001) với PCHT xúc giác – vận động(r= 0,635, p =
0,000), với PCHT nhóm (r= 0,436, p = 0,000) cho thấy rõ mối quan hệ khá chặt chẽ
giữa kết quả học tập và các loại PCHT này. Điều này chứng tỏ sinh viên càng thiên về
các PCHT đóthì kết quả học tập sẽ cao.Như vậy, ta có thể khẳng định rằng trong việc
học ngành kinh tế, những sinh viên có PCHT ưu thế là xúc giác-vận động và nhóm sẽ
học thuận lợi hơn so với những sinh viên có PCHT thị giác, cá nhân.
Bảng 4. Tương quan giữa phong cách học tập và kết quả học tập của sinh viên
Stt Cặp biến xét tương quan Hệ số tương quan (r) Mức ý nghĩa thống kê (p)
1 PCHT thị giác - KQHT 0,06
0,27
2 PCHT thính giác - KQHT 0,19**
0,00
3 PCHTxúc giác vận động - KQHT 0,64**
0,00
4 PCHT cá nhân - KQHT -0,09
0,14
5 PCHT nhóm - KQHT 0,44** 0,00
Ghi chú: **: Tương quan nhị biến có ý nghĩa ở mức 0,01
Kết luận này càng được củng cố khi kết quả điều tra cho thấy rằng PCHT mà sinh viên
tự xác định (cá nhân) chưa mang lại hiệu quả cao. Có 60% sinh viên cho rằng PCHT cá
nhân của các em ít hiệu quả và khoảng 21% tự đánh giá là PCHT “không có hiệu quả”,
trong khi chỉ có 15,7% sinh viên cho là “có hiệu quả” và chỉ có 3% là “rất hiệu quả”
(xem bảng 5). Đây là thực tế đáng lo ngại cho hoạt động học tập của sinh viên. Việc
không xác định rõ PCHT ưu thế sẽ khiến sinh viên gặp nhiều khó khăn trong tiếp nhận
và xử lý các thông tin học tập. Do đó, cần có sự hướng dẫn, điều chỉnh PCHT cho sinh
viên ngay từ đầu năm học.
Bảng 5. Đánh giá của sinh viên về hiệu quả của phong cách học tập hiện tại
đối với hoạt động học tập
STT Mức độ Số lượng Tỉ lệ Thứ bậc
1 Rất hiệu quả 9 3,0 4
2 Hiệu quả 47 15,7 3
3 Ít hiệu quả 180 60,0 1
4 Không hiệu quả 64 21,3 2
Tổng 300 100
84 NGUYỄN THỊ HÀ - NGUYỄN VĂN BẮC
Từ những kết quả nghiên cứu trên, ta có thể thấy rõ việc xác định PCHT ưu thế sẽ mang
lại hiệu quả và tạo được lợi thế cho sinh viên năm thứ nhất, trường Đại học Kinh tế -
Đại học Huế trong hoạt động học tập.
3.5. Nhận thức của sinh viên về các yếu tố ảnh hưởng tới phong cách học tập
Số liệu ở bảng 6 cho thấy theo đánh giá của sinh viên, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến
PCHT và mức độ ảnh hưởng của chúng là không giống nhau. Yếu tố ảnh hưởng nhiều
nhất là phương pháp giảng dạy của giảng viên, tiếp theo là yếu tố sở thích cá nhân, đến
sức khỏe - thái độ - phương pháp học, tính cách bản thân, trí thông minh, môi trường văn
hóa xã hội, điều kiện môi trường học tập. Giới tính là yếu tố ít ảnh hưởng nhất đến PCHT.
Bảng 6. Nhận thức của sinh viên về các yếu tố ảnh hưởng đến phong cách học tập
Stt Yếu tố ảnh hưởng
Mức độ
Không
ảnh hưởng
Ít
ảnh hưởng
Ảnh hưởng
nhiều
SL % SL % SL %
1 Sở thích cá nhân 20 6,7 93 31,0 187 62,3
2 Trí thông minh 18 6,0 119 39,7 163 54,3
3 Môi trường văn hóa xã hội 26 8,7 114 38,0 160 53,3
4 Phương pháp giảng dạy của giảng
viên 17 5,7 79 26,3 204 68,0
5 Các điều kiện của môi trường học
tập 22 7,3 129 43, 0 149 49,7
6 Tính cách bản thân 28 9,3 97 32,3 175 58,3
7 Sức khỏe, thái độ, xu hướng 24 8,0 90 30,0 186 62,0
8 Giới tính 180 60,0 92 30,7 28 9,3
4. ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP TÁC ĐỘNG
Với mục đích nhằm giúp sinh viên nhận thức và xây dựng được PCHT phù hợp, chúng
tôi đề xuất một số biện pháp như sau:
Thứ nhất: Nâng cao nhận thức cho sinh viên về PCHT của bản thân.
Để nâng cao nhận thức cho sinh viên về PCHT các nhà quản lý giáo dục cần lồng ghép
PCHT vào các chương trình, hoạt động trong trường học để sinh viên có cơ hội tiếp xúc và
tìm hiểu PCHT một cách chính xác, khoa học nhất. Bổ sung thêm nguồn tài liệu về PCHT
trong hệ thống thư viện ở các trường học, để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu của
giảng viên và sinh viên. Hay lồng ghép vào các môn học để đưa vào giảng dạy trực tiếp trên
lớp học, chẳng hạn như môn Tâm lý học... Đồng thời nhà trường cần tổ chức các buổi diễn
thuyết, tọa đàm về PCHT giúp SV lĩnh hội được nhiều thông tin và kiến thức hơn.
Thứ hai: Làm cho giảng viên nhận biết được PCHT của sinh viên để điều chỉnh cách
dạy phù hợp
Các nhà quản lý giáo dục cần tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, các đợt tập huấn, bồi
PHONG CÁCH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNGĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐẠI HỌC HUẾ 85
dưỡng chuyên môn về PCHT cho đội ngũ giáo viên nói chung và giảng viên nói
riêng.Cần xây dựng chủ trương yêu cầu dạy học phù hợp với đặc điểm, cách học của sinh
viên.
Thứ ba: Cố vấn học tập cần tư vấn giúp đỡ sinh viên lựa chọn PCHT
Giảng viên, đặc biệt là các cố vấn học tập cần giúp sinh viên hiểu được những đặc điểm,
đặc trưng mà chuyên ngành mà các em đang theo học. Giúp sinh viên nhận biết những
điểm mạnh hay điểm hạn chế của PCHT hiện tại của các em đối với chuyên ngành học
của mình.
Thứ tư: Gợi ý một số cách học phù hợp với PCHT của sinh viên
- Phong cách học tập thị giác: sinh viênnên dùng nhiều vật dụng trực quan như: tranh,
biểu đồ, sơ đồ, đồ thị Khi đọc tài liệu, sách, cần dùng màu sắc để làm nổi bật các điểm
quan trọng trong bài đọc, hay ghi chú bằng các mã màu để dễ ghi nhớ. Nên sử dụng sơ đồ
tư duy màu sắc trong các bài học để tổ chức thông tin cho một bài tập hoặc cho một kỳ thi
và đặt các bản đồ tư duy đó trên các bức tường trong khu vực học tập của bạn, như vậy sẽ
nắm được bài và hiểu bài nhanh hơn. Hoặc khi lên lớp cần ghi chép lại các điểm chính và
sao chép lại các thông tin có ở trên bảng, cần học ở nơi yên lặng để tránh sự ồn ào và
những nơi không có quá nhiều hình ảnh không liên quan tới bài học gây mất tập trung
- Phong cách học tập thính giác: Với những người học thính giác, trong giờ học nên
tập trung lắng nghe hoặc dùng máy ghi âm trong suốt quá trình nghe giảng thay cho
việc ghi chép. Khi học bài ở nhà cần đọc to thành tiếng các tài liệu để tiếp nhận thông
tin nhanh hơn; lên lớp tăng cường phát biểu, trao đổi thông tin bằng ngôn ngữ nói.
- PCHT xúc giác – vận động: Người học nên tự làm, tự thực hành để tiếp thu và ghi
nhớ thông tin dễ dàng hơn. Trên lớp học, cần tham gia vào các hoạt động nhóm, các trò
chơi hay giờ thực hành và thường xuyên nghỉ giải lao khi thời gian đọc quá nhiều. Bên
cạnh đó, người học xúc giác cần đi thực tế, trải nghiệm mới học hỏi, lĩnh hội kiến thức
hiệu quả nhất, chẳng hạn: sinh viên kinh tế có thể đi làm thêm, làm cộng tác viên ở các
công ty, các nhà hàng, các địa điểm kinh doanh Là sinh viên kinh tế ngoài kiến thức
lý thuyết, những chuyến đi thực địa là rất cần thiết.
- Phong cách học tập cá nhân: Người học PCHT cá nhân cần phải học ở những nơi
thật yên tĩnh; cần xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng môn học; chuẩn bị đầy đủ các tài
liệu tham khảo, sách hướng dẫn, giáo trình liên quan để thuận lợi cho việc tự nghiên
cứu; cố gắng kiên trì, xem xét kỹ trước khi giải quyết vấn đề. Cần học ở những nơi ít
người, có không gian học tập riêng.
- Phong cách học tập nhóm: Người thiên về PCHT nhóm cần: tích cực tham gia nhiều
vào các hoạt động thảo luận, trao đổi ý kiến với thầy cô bạn bè trong giờ học. Tích cực
bày tỏ ý kiến trong các cuộc thảo luận hay tương tác với những người khác. Cần tìm
những người phù hợp để tạo nhóm, tham gia nhiều vào các hoạt động tập thể, rèn luyện
các kỹ năng làm việc nhóm như: kỹ năng nêu và giải quyết vấn đề, kỹ năng thuyết trình
86 NGUYỄN THỊ HÀ - NGUYỄN VĂN BẮC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] McCarthy, B. (1980). The 4MAT system: Teaching to learning styles with right/left
mode techniques. Barrington, IL: Excel.
[2] Kolb, A. Y., & Kolb, D. A. (2006). Learning styles and learning spaces: A review of
the multidisciplinary application of experiential learning theory in higher education.
In Sims, R. R. & Sims,S. J. (Eds.), Learning styles and learning (pp. 45-91). New
York: Nova Science Publishers.
[3] Kolb, D. A. (1985). Learning style inventory. Retrieved from
media/2010/08.pdf.
[4] Moran, A. (1991). What can learning styles research learn from cognitive
psychology? Educational Psychology, 11(3/4), 239-246.
[5] Nguyễn Công Khanh (2007), “Nghiên cứu phong cách học tập của sinh viên”, Tạp chí
Giáo dục, (202), tr7-10.
[6] Noguera, J. S., & Wageman, J. (2011). Spanish EFL undergraduate students'
perceptions of learning styles.Nordic Journal of English Studies, 10(1), 77.
[7] Tobias. C.U. (2014). Mỗi đứa trẻ một phong cách học - Đi tìm phong cách học tập
của con bạn. NXB Lao động xã hội.
[8] Đinh Thị Hồng Vân (2006). Nghiên cứu phong cách học tập của sinh viên năm thứ
nhất Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Huế. Luận văn Thạc sỹ Tâm lý học,
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Title: LEARING STYLES: COLLEGE OF ECONOMICS, HUE UNIVERSITY STUDENTS’
PERCEPTIONS AND IMPLICATIONS FOR IMPROVEMENT
Abstract: Learning style has a great impact on learners’ learning outcomes. It is the stable
combination of cognitive, sentimental, physical elements of learners. It interacts and responds to
the learning environment. It is more likely for a learner with suitable learning styles to learn
effectively and to obtain better learning achivements. This study investigates Hue University of
Economics students’ perceptions, attitudes and manifestations of learning styles. The findings
show that although they have relativey good perceptions of learning styles, there are a number
of students who do not yet have suitable attitudes towards and desirable manifestations of
learning styles. Their most dominant learning style is intrapersonal. The study also indicates the
strong relationship between students’ learning styles and their learning outcomes. In addition, it
shows students’ awareness of factors influential to their learning styles. Based on the findings,
relevant suggestions to improve students’ learning styles are made.
Keywords: students, learning style, College ofEconomics, Hue University
NGUYỄN THỊ HÀ
Học viên Cao học, chuyên ngành Tâm lý học, khóa 22 (2013-2015),trường Đại học Sư phạm,
Đại học Huế
ĐT: 0164 984 7599, Email: nguyenha.09ctl@gmail.com
PGS. TS.NGUYỄN VĂN BẮC
Khoa Tâm lý- Giáo dục, trường Đại học sư phạm, Đại học Huế
ĐT: 0988 878 070, Email: nguyenv_bac@yahoo.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29_457_nguyenthiha_nguyenvanbac_12_nguyen_van_bac_1486_2020382.pdf