Khép phần trước bàn chân là dị tật bàn chân ít gặp. Nghiên cứu nhằm nhận xét một số dấu hiệu của
khép phần trước bàn chân trên lâm sàng và X quang đánh giá kết quả phẫu thuật cắt chêm xương hộp và
xương chêm bàn chân. Số liệu được phân tích trên 76 bệnh nhân (97 bàn chân) từ tháng 1/1990 đến tháng
12/2005. Có 31 trẻ gái (40,8%) và 45 trẻ trai (58,2%); sau phẫu thuật bàn chân khoèo bẩm sinh 68 bệnh
nhân (89 bàn chân), và khép phần trước bàn chân bẩm sinh của 8 bệnh nhân (8 bàn chân) trong nghiên cứu
này. Bệnh nhân được phẫu thuật cắt xương tụ cốt bàn chân. Kết quả sau phẫu thuật được đánh giá theo
Heyman Kết quả sau phẫu thuật: tốt: 35 (36,1%); khá: 54 (55,7%); kém: 8 (8,2%). Phẫu thuật cắt xương tụ
cố bàn chân điều trị khép phần trước bàn chân cần kết hợp cắt bao khớp sên-thuyền và thuyền - xương bàn
I. Phẫu thuật đơn giản và an toàn.
9 trang |
Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 31/03/2025 | Lượt xem: 23 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật cắt xương tụ cốt bàn chân điều trị khép phần trước bàn chân ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 83 (3) - 2013 129
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
PHẪU THUẬT CẮT XƯƠNG TỤ CỐT BÀN CHÂN ĐIỀU TRỊ KHÉP
PHẦN TRƯỚC BÀN CHÂN Ở TRẺ EM
Nguyễn Ngọc Hưng
Bệnh viện Nhi Trung ương
Khép phần trước bàn chân là dị tật bàn chân ít gặp. Nghiên cứu nhằm nhận xét một số dấu hiệu của
khép phần trước bàn chân trên lâm sàng và X quang đánh giá kết quả phẫu thuật cắt chêm xương hộp và
xương chêm bàn chân. Số liệu được phân tích trên 76 bệnh nhân (97 bàn chân) từ tháng 1/1990 đến tháng
12/2005. Có 31 trẻ gái (40,8%) và 45 trẻ trai (58,2%); sau phẫu thuật bàn chân khoèo bẩm sinh 68 bệnh
nhân (89 bàn chân), và khép phần trước bàn chân bẩm sinh của 8 bệnh nhân (8 bàn chân) trong nghiên cứu
này. Bệnh nhân được phẫu thuật cắt xương tụ cốt bàn chân. Kết quả sau phẫu thuật được đánh giá theo
Heyman Kết quả sau phẫu thuật: tốt: 35 (36,1%); khá: 54 (55,7%); kém: 8 (8,2%). Phẫu thuật cắt xương tụ
cố bàn chân điều trị khép phần trước bàn chân cần kết hợp cắt bao khớp sên-thuyền và thuyền - xương bàn
I. Phẫu thuật đơn giản và an toàn.
Từ khóa: Khép bàn chân, Cắt chêm xương hộp và xương chêm
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khép phần trước bàn chân là một dị tật ít
gặp trong các loại dị tật bàn chân ở trẻ em.
Tuy nhiên lại là một biến dạng bàn chân rất
thường thấy sau phẫu thuật bàn chân khoèo
bẩm sinh [1; 3]. Nguyên nhân của bệnh có thể
do yếu chức năng của bàn chân mà cha mẹ
bệnh nhân có thể thấy phần sau bàn chân
được chỉnh sửa tốt nhưng phần trước bàn
chân vẫn duy trì biến dạng như ban đầu trong
bàn chân khoèo. Nguyên nhân của khép phần
trước bàn chân có thể thấy sau mổ bàn chân
khoèo, khép phần trước bàn chân do bẩm
sinh, do bại liệt, bại nãoĐã có nhiều phương
pháp phẫu thuật khác nhau nhưng tập trung
vẫn là: (1) đơn thuần phẫu thuật phần mềm;
hoặc (2) kết hợp phẫu thuật trên xương bàn
chân với phẫu thuật phần mềm [1; 3]. Cho tới
nay nhiều tác giả tập trung cắt chêm xương
bàn chân, tạo chêm, xương từ xương hộp,
đưa chêm xương hộp vào xương chêm trong
của bàn chân cho kết quả tốt. Chìa khóa
thành công trong phẫu thuật bàn chân khép là
tạo được sự cân bằng của lực cơ mặt trong
và mặt ngoài của bàn chân và trả lại vị trí giải
phẫu của hệ thống xương tụ cốt bàn chân
[3; 5].
Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt giữa bàn
chân khoèo bẩm sinh với bàn chân khép bẩm
sinh còn có sự nhầm lẫn dẫn tới chỉ định phẫu
thuật không phù hợp. Chẩn đoán chính xác
nguyên nhân để có phương pháp điều trị đúng.
Trên thế giới đã có nhiều thông báo điều trị
bàn chân khép với cắt xương tụ cốt bàn chân
đơn thuần hoặc kết hợp phẫu thuật phần mềm
với kết hợp phẫu thuật xương bàn chân. Gần
đây một số tác giả chủ trương không tạo
chêm xương từ xương hộp mà thay vào bằng
xương đồng loại. Tại Việt Nam, cho tới nay
chưa có nghiên cứu nào cho bệnh lý này. Đề
tài nghiên cứu nhằm mục tiêu:
1. Nhận xét một số dấu hiệu của khép phần
trước bàn chân trên lâm sàng và X quang.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt chêm
xương hộp và xương chêm bàn chân.
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Ngọc Hưng, bệnh viện Nhi
Trung ương
Email: ngocyenhung@gmail.com
Ngày nhận: 24/12/2013
Ngày được chấp thuận: 20/6/2013
130 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu: 76 bệnh nhân với
97 bàn chân có khép phần trước, đã được
phẫu thuật tại bệnh viện Nhi Trung ương từ
tháng 1/1990 đến tháng 12/2005.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân có phần
trước bàn chân khép trong bàn chân khoèo
bẩm sinh chưa phẫu thuật; khép phần trước
bàn chân trong bệnh lý tổn thương thần kinh
trung ương (bại não) hoặc ngoại vi (bại liệt).
2. Phương pháp
Lâm sàng
Xác định phần trước bàn chân và gót chân,
vận động varus và valgus gót chân.
Xoay trong và xoay ngoài của phần trước
bàn chân.
Chu vi cẳng chân.
Chiều dài và chiều rộng của bàn chân
Quan sát và theo dõi dáng đi của bệnh nhân.
Ghi nhận tình trạng bàn chân bằng ảnh khi
bệnh nhân đứng trên sàn.
X quang
Chụp cả hai bàn chân với bệnh nhân đứng
Đo góc Sên - Gót [Kite. 1950, Kite. 1967].
Film thẳng: Góc bình thường: 20º - 40º.
Film nghiêng: Góc bình thường: 35º - 55º.
Đo góc Sên - Xương bàn I: Góc bình
thường: -20º - +11º.
Đo góc Gót – Xương bàn V [Ponseti.
1981]: Góc bình thường: - 18º - + 5º
Đo góc sên - Xương bàn I [Lowe 1973]:
Góc bình thường: 80º - 100º (vượt quá góc
này trong trường hợp có bàn chân khép phần
trước).
Bàn chân được chia thành ba phần: phần
trước, giữa và phần sau. Trong phần trước
của bàn chân bình thường, đường thẳng đi
qua tâm của trục dọc xương bàn 1 song song
hoặc đi chếch ra ngoài với đường trục dọc
của xương sên. Nếu có khép phần trước bàn
chân, trên film với bệnh nhân đứng, đường
thẳng của xương bàn 1 tạo góc với đường
theo trục dọc của xương sên [6].
Đường phần giữa bàn chân được xác định
với đường qua tâm của trục dọc xương gót tới
xương hộp (chú ý cốt hóa của xương ở 1
tháng tuổi), nếu không thấy được xương hộp
có thể thay bằng nền của xương bàn IV.
Với bàn chân bình thường trên film đứng,
đường xương gót đi vào giữa xương hộp và
nền của xương bàn IV. Khi đường qua trục
dọc xương gót nằm phía trong 1/3 của xương
hộp hoặc nền xương bàn IV, điều này cho
thấy phần giữa bàn chân bị đưa ra ngoài [7].
Vị trí phần sau bàn chân được xác định
bằng đo góc sên - gót, trên film thẳng và
nghiêng, với bệnh nhân đứng. Bình thường,
trên phim thẳng góc sên-gót 20º - 35º và 25º -
45º trên film nghiêng [Aronson. 1983, Thomp-
son. 1982].
Phân loại trong khép phần trước của
bàn chân
Biến dạng được phân chia theo mức độ
nhẹ vừa và nặng, dựa vào đường từ giữa bờ
sau của gót chân theo phân loại của Bleck [8]:
Biến dạng nhẹ: đường từ gót đi vào giữa
ngón 3 bàn chân.
Biến dạng vừa: đường từ gót đi vào giữa
ngón 3 và ngón 4 bàn chân.
Biến dạng nặng: đường từ gót đi vào giữa
ngón 4 và ngón 5 bàn chân
Chi tiết phẫu thuật
Rạch da theo hai đường mổ: (1) vào xương
hộp (ngoài), và (2) vào xương chêm (trong).
Đường mổ mặt ngoài bàn chân
TCNCYH 83 (3) - 2013 131
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Rạch da trên xương hộp, dài 4 cm. Thận
trọng khi cắt qua da, vào tới xương hộp. Gấp
nhẹ phần trước bàn chân xác định khớp gót -
hộp và khớp hộp - xương bàn V. Tách gân cơ
mác và kéo ra ngoài. Tiến hành cắt chêm
xương hộp với nền của chêm xương ở mé
ngoài rộng 8 mm.
Đường mổ mặt trong bàn chân
Rạch da ngay trên xương chêm 1 dài 5
cm. Qua da, cân tiến hành kiểm tra điểm bán
tận của gân cơ chầy sau, chầy trước, tình
trạng căng của gân cơ gấp dài ngón I. Bộc lộ
rõ xương chêm I. Tiến hành cắt giữa xương
chêm. Kéo và giang phần trước bàn chân
kiểm tra đường cắt xương.
Giang phần trước bàn chân, mở rộng đường
cắt xương. Tiến hành đặt chêm xương được lấy
từ xương hộp vào nơi cắt xương chêm I.
Xuyên 2 đinh Kirschner: (1) Từ nền xương
bàn V, qua xương hộp vào tới xương gót, (2)
Từ nền xương bàn I, qua xương chêm I và
mảnh chêm của xương hộp, vào tới xương
sên. Kiểm tra bàn chân đạt yêu cầu, tiến hành
bẻ cong hai đầu đinh để dưới da.
Khâu da hai lớp; dưới da và da bằng chỉ
3/0 tự tiêu.
Bất động bằng bột tròn kín cẳng bàn chân,
với bàn chân và cổ chân ở vị trí trung gian.
Sau phẫu thuật ba tuần bột được thay lần
thứ 1, cắt chỉ và đặt lại bột tương tự (bột tròn
kín cẳng bàn chân, với bàn chân và cổ chân ở
vị trí trung gian) để bột tiếp theo trong 6 tuần.
Sau bỏ bột lần 2, rút bỏ đinh Kirschner và bột
lần 3 trong 6 tuần. Sau bỏ bột lần 3, trẻ được
mang giầy chỉnh hình cho đủ một năm sau
mổ. Sau một năm, trẻ tiếp tục mang nẹp chỉnh
hình về đêm trong 2 năm.
Tiêu chuẩn đánh giá kết quả sau mổ
Bệnh nhân được đánh giá theo Heyman [9]:
- Kết quả rất tốt: Không còn dấu hiêu của
biến dạng, X quang không có bất thường
phần trước bàn chân.
- Kết quả tốt: Bàn chân còn có lệch hướng
nhẹ so với bên lành, không có dấu hiệu bệnh
lý, không hạn chế vận động.
- Kết quả khá: Bệnh nhân hoặc cha mẹ,
phẫu thuật viên không hoàn toàn thỏa mãn với
kết quả phẫu thuật. Bàn chân còn lệch hướng
cả trên lâm sàng và X quang. Không hạn chế
vận động và không cần điều trị gì thêm
- Kết quả kém: thất bại trong sửa chữa
biến dạng hoặc phải phẫu thuật.
3. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu được sự đồng thuận của cha,
mẹ bệnh nhân. Trẻ được phẫu thuật với cắt
chêm xương xương hộp, chèn chêm xương
tới xương chêm trong có thể kết hợp cắt bao
khớp sên - thuyền. Kết quả sau phẫu thuật
phục hồi chức năng, trả lại thẩm mỹ bàn
chân. Phẫu thuật không gặp tai biến trong và
sau mổ.
III. KẾT QUẢ
1. Lâm sàng
76 bệnh nhân với 97 bàn chân có khép
phần trước.
Giới tính: 45 trai, 31 gái.
Tuổi tại thời điểm phẫu thuật (bảng 1):
- Phân nhóm tuổi theo Ponseti IV và Beck-
er JR 1966 [10].
Bệnh nhân sau phẫu thuật bàn chân khoèo
bẩm sinh, sau 2 tuổi còn biến dạng khép phần
trước bàn chân mức độ vừa và nặng được chỉ
định phẫu thuật. Bệnh nhân có khép phần
132 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
trước bàn chân bẩm sinh được chỉ định phẫu
thuật ngoài 3 tuổi.
Bên bệnh:
Hai bên: 21/68 bệnh nhân (bệnh nhân sau
phẫu thuật bàn chân khoèo bẩm sinh).
Bên phải: 37; bên trái: 18.
Tổng số bệnh nhân: 76, tổng số bàn chân
được phẫu thuật: 97.
Bảng 1. Tuổi phẫu thuật
2 - 6* tuổi 3 - 6* tuổi > 6* tuổi
Sau phẫu thuật bàn chân khoèo bẩm sinh (n = 68
bệnh nhân) 54 14
Khép phần trước bàn chân bẩm sinh (n = 8
bệnh nhân) 7 1
2. Phân loại
Khép phần trước bàn chân mức độ: nhẹ: 0; vừa: 35 (36,1%); nặng: 62 (63,9%).
3. Xquang
Bảng 2. Góc đo trước và sau phẫu thuật
Góc đo trên
X quang Trước mổ
Sau mổ
3 tháng
Sau mổ
5 tháng
Sau mổ
12 tháng
Đánh giá
Kết quả
Phim nghiêng
Góc sên - gót
(35º - 55º)*
8,9°
(7,2°- 16,3°)
23,8°
(19,5° - 25,7°)
34,3º
(31,2°- 36,4°)
38,6º
(33,2°- 40,5°)
40,2°
(34,8°- 44,7°)
Phim thẳng
Góc sên - gót
(20º - 40º)*
18,1°
(15,5°- 26,7°)
27,6°
(24,7° - 43,8°)
30,1°
(27,4° - 41,3°)
33,3°
(31,5° -
40,7°)
34,2°
(32,8°- 41,6°)
Phim thẳng
Góc sên - xương
bàn 1 (-20º- + 11º)*
28,2°
(26,9°- 41,6°)
16,4°
(12,8° - 19,3°)
13,2°
(12,6° - 18,7°)
12,6°
(11,2°- 16,4°)
12,2°
(10,1°- 13.5°)
Phim thẳng
Góc gót - xương
bàn 5 (-18º - + 5º)*
25,8°
(20,4°- 43,4°)
12,3°
(9,7° - 13,6°)
6,5°
(4,1° - 7,5°)
5,6°
(4,6° - 6,9°)
5,3°
(4,2°- 6,3°)
Chỉ số Sên - Gót 27,0° 51,4° 64,4° 71,9° 74,4°
Góc thuyền -xương
bàn I
(80º - 100º)*
134,6º
(129,8º -
138,5º)
114,2º
(106,3º -
120,1º)
105,4º
(97,6º -119,8º)
96,4º
(89,3º -
115,7º)
91,2º
(82,9º -
112,8º)
N*: chỉ số bình thường
Hai góc: Sên - Xương bàn I và Gót - Xương bàn V có số đo trung bình thấy thay đổi tăng lên
rõ so với trị số bình thường.
Góc thuyền - xương bàn I cho thấy tình trạng sai khớp xương tuyền hoặc khép phần trước
bàn chân vẫn còn vượt với chỉ số bình thường (112.8º), sai khớp xương thuyền 100%.
TCNCYH 83 (3) - 2013 133
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
4. Phẫu thuật
Bảng 3. Chi tiết phẫu thuật phối hợp
Cắt bao khớp Sên - Thuyền,
Thuyền - xương bàn I
Nới dài gân cơ chầy
sau, gân cơ chầy trước
Sau mổ bàn chân khoèo (n = 89) 89 (100%) 43 (48,3%)
Khép phần trước bàn chân bẩm
sinh (n = 8) 8 (100%) 2 (25,0%)
- 89 bàn chân có khép phần trước bàn chân sau mổ chân khoèo bẩm sinh đều được cắt chêm
xương hộp và ghép chêm xương hộp vào xương chêm I. Đồng thời cắt bao khớp Sên - Thuyền,
Thuyền-xương bàn I trong 89 bàn chân (100%). Nới dài gân cơ chầy sau, gân cơ chầy trước
trong 43 bệnh nhân (48,3%).
- 8 bàn chân với khép phần trước bàn chân bẩm sinh được cắt chêm xương hộp và ghép vào
xương chêm I. Đồng thời cắt bao khớp Sên - Thuyền, Thuyền - xương bàn I trong 8 bàn chân
(100%). Nới dài gân cơ chầy sau, gân cơ chầy trước trong 2 bệnh nhân (25,0%).
5. Kết quả sau phẫu thuật
Thời gian kiểm tra (n = 97):
> 15 năm: 1
≥ (10 - 15 năm): 26
≥ (5 - 10 năm): 58
(< 5 năm): 12
Kết quả: rất tốt và tốt: 35 (36,1%); khá:
54 (55,7%); kém: 8 (8,2%)
6. Biến chứng
Không gặp một số biến chứng sau mổ
như: Nhiễm khuẩn, tổn thương mạch máu và
thần kinh, hoại tử đầu xương sên, xoay trong
bàn chân trong dáng đi nhanh (Intoeing gait).
IV. BÀN LUẬN
Nguyên nhân: Cho tới nay kể từ thông
báo đầu tiên của Henke 1863 và José 2011 đã
có trên 714 công trình nghiên cứu công bố
trên các tạp chí Y học của thế giới về khép
phần trước bàn chân trong bàn chân khoèo và
bàn chân khép phần trước bẩm sinh.
Nguyên nhân của khép phần trước bàn
chân bẩm sinh vẫn chưa được biết, nhưng
một số tác giả cho rằng do mất cân bằng về
cơ tại bàn chân. Các tác giả như Bankart
1921, Peabody and Muro 1932, Thompson
1960, Browne 1979 thông báo thấy có sự bất
thường của điểm bám tận của gân cơ chầy
trước hoặc chầy sau hoặc của gân cơ gấp dài
ngón I. Các giả đều có chung nhận định với
sự thay đổi bất thường điểm bám của các cơ
nói trên là nguyên nhân của khép phần trước
bàn chân bẩm sinh.
Chẩn đoán
Chẩn đoán lâm sàng: Gaston và Goldner.
1973 đã đề nghị điều trị khép phần trước bàn
chân dựa vào chẩn đoán hình ảnh hơn là với
lâm sàng. Tuy nhiên, tài liệu giúp cho chẩn
đoán và đánh giá phân loại của X quang về
khép phần trước bàn chân chưa nhiều, chủ
yếu vẫn là chẩn đoán trên lâm sàng.
Theo Kite 1967 thấy khép phần trước bàn
chân là một bệnh bẩm sinh ít gặp nên dễ có
chẩn đoán nhầm giữa bàn chân khoèo bẩm
sinh và bàn chân khép. Trong bàn
chân
khoèo bẩm sinh có 3 biến dạng thấy được
như: thuổng ở cổ chân, xoay trong ở gót chân
134 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
và khép phần trước của bàn chân. Trong khép
phần trước bàn chân bẩm sinh, không có hạn
chế vận động khớp cổ chân, gót chân luôn
nằm dưới cẳng chân ở vị trí bình thường. Tuy
nhiên, hai bệnh có cùng chung biến dạng
khép và ngửa phần trước của bàn chân. Do
vậy, khác nhau cơ bản vẫn là có hoặc không
thuổng ở cổ chân.
Chẩn đoán hình ảnh: McCormick và
Bbount 1949, Kite 1976 đề nghị khi tiến hành
X-quang với bàn chân khép ở trẻ đủ lớn cho
thấy tâm cốt hóa của xương thuyền. Xương
thuyền có thể nằm ngoài đầu xương sên như
thấy trong bàn chân bẹt, không nằm ở mặt
trong như thường thấy trong bàn chân khoèo
bẩm sinh.
Berg 1996, thấy rằng X quang được thực
hiện khi bệnh nhân đứng theo từng giai đoạn
được định kỳ khám lại và theo dõi. Với
xương sên và xương gót được chụp theo kỹ
thuật này sẽ nằm ở vị trí trực tiếp ngay dưới
xương chầy với film trước sau. Mặt khác
cũng với kỹ thuật này còn có thể chup film
chếch chéo bàn chân.
Bằng việc đo cả hai góc trên film thẳng và
nghiêng khớp sên thuyền, có thể xác định
nguyên nhân khép phần trước bàn chân mà ở
đó có hoặc không sai khớp sên - thuyền. Khép
bàn chân có thể do sai khớp sên - thuyền
hoặc bàn chân khép hoặc kết cả hai hoặc
khép bàn chân mức độ nặng hoặc khớp sên -
thuyền được chỉnh sửa quá mức. Nếu bàn
chân không khép ở phần trước, lâm sàng thấy
có varus, cho thấy khớp sên - thuyền đã chỉnh
sửa quá mức, hoặc khớp sên - thuyền vẫn
còn sai khớp đã được chỉnh sửa với bàn chân
valgus, hoặc bàn chân varus và/hoặc sai khớp
sên - thuyền mà ở đó thấy rõ được chỉnh sửa
với xương chầy bị xoắn vặn ra ngoài.
Sai khớp sên thuyền: Trên film X-quang
thẳng, khi xương thuyền chưa cốt hóa được
đo gián tiếp theo Simon [11]: Film thẳng với
góc sên- gót < 15º và góc sên – xương bàn I
> 15º, cho thấy sai khớp sên – thuyền. Khi
xương thuyền đã cốt hóa, sai khớp sên - thu-
yền được phân chia theo 4 mức độ theo
Hutchins 1985. Trong nghiên cứu này, bệnh
nhân đã thấy được cốt hóa xương thuyền và
cũng thấy được 100% bệnh nhân có sai khớp
sên - thuyền.
X-quang được tiến hành ở thời điểm bàn
chân khép và trẻ đủ lớn cho thấy tâm cốt hóa
của xương thuyền, xương thuyền có thể ra
ngoài đầu của xương sên, như thấy trong bàn
chân bẹt, và vào trong đầu xương sên như
trong bàn chân khoèo.
Điều trị: Điều trị bàn chân khép vẫn còn là
vấn đề tranh luận điều trị bảo tồn không mổ và
điều trị phẫu thuật, thời điểm nào là thích hợp
để có được kết quả tốt.
Chỉ định điều trị bảo tồn, không mổ:
Hurman (1978), Scranton 1981 đã thông
báo rằng khép phần trước bàn chân sẽ tự sửa
chữa mà không cần điều trị.
Farsetti (1994), chủ trương tiến hành từ rất
sớm ở độ tuổi từ 3 - 12 tháng với kết quả tốt.
Bleck (1983) lại chủ trương sớm hơn với tuổi
được chẩn đoán và điều trị ngay từ 1 ngày
tuổi tới 8 tháng
Hunziker (1988), Ponseti (1966) tin rằng
bàn chân khép không cần phải mổ, ngay cả với
những trường hợp cứng nhắc, biến dạng năng.
Ponseti and Beckek [10] đã thông báo chỉ
12% cần điều trị bằng bột hoặc nẹp chỉnh hình,
số còn lại bệnh sẽ tự cải thiện hoăc tự chỉnh
sửa. Thất bại chỉ gặp 4/80 (5%) bàn chân.
Bleck [8] thông báo chỉ thực hiện bó bột
sau đó sử dụng nẹp chỉnh hình cho 30% trong
245 bàn chân có bàn chân khép ở mức độ
vừa và nặng. Rushforth (1978) thông báo
đánh giá kết quả điều trị bảo tồn cho 130 bàn
chân khép phần trước trên 83 trẻ, thất bại chỉ
TCNCYH 83 (3) - 2013 135
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
gặp 23 bàn chân (10%) còn biến dạng ở thời
điểm đánh giá.
Jahss (1991), Kite (1950), Ponseti (1966)
đã kết luận bằng nắn bó bột và sử dụng nẹp
chỉnh hình có thể điều trị cho khép phần trước
của bàn chân, và ngăn ngừa được tái phát.
Chỉ định điều trị theo tuổi: Trong nghiên
cứu này tập trung cho đánh giá kết quả điều trị
bàn chân khép, những bàn chân khép đến
sớm đều điều trị bảo tồn không phẫu thuật.
Với bàn chân khép sau mổ bàn chân khoèo
được chỉ định phẫu thuật với trẻ trên 3 tuổi,
nghĩa là sau quy trình điều trị trong 3 năm có
sử dụng giầy chỉnh hình và nẹp. Chỉ định
phẫu thuật với bàn chân khép bẩm sinh ở trẻ
trên 3 tuổi, sau khi đã được điều trị bảo tồn
không có kết quả. Chúng tôi thống nhất với
một số tác giả chủ trương phẫu thuật ngoài 3
tuổi như Heyman (1958), Kendrick (1970),
Mitchell (1984). Aroson (1983), Berman
(1971), Thompson. (1950) chủ trương phẫu
thuật khép bàn chân ngay từ năm đầu.
Phương pháp được áp dụng làm dài gân cơ
gấp dài ngón I. Mitchell. (1980), Thompson
(1960) thực hiện cắt bao khớp xương bàn I -
xương chêm I và khớp thuyền - chêm. Ghali
(1984), Brow (1979) chuyển gân cơ chầy sau
và cắt bao khớp thuyền - chêm.
Reimann và Werner (1975) cắt rộng bao
khớp Lisfranc và tách rời dây chằng trong của
xương bàn chân là cần thiết cho điều trị bàn
chân khép bẩm sinh. Các tác giả đã kết luận
khép bàn chân do co cứng hệ thống phần
mềm, thời gian sẽ làm thay đổi hệ thống
xương tụ cốt bàn chân, tạo nên biến dạng mà
điều trị đơn giản không thể thu được kết quả
tốt. Bằng nhận xét này và với nhận xét của
Bleck [3] cho thấy độ tuổi bệnh nhân của tác
giả được phẫu thuật trên 8 tháng tuổi.
Điều trị phẫu thuật
Một số phương pháp phẫu thuật đã được
thực hiện cho bàn chân khép như: Peabody
và Muro. (1935), cắt nền xương bàn V, làm
vận động và cải thiện lại sự sai khớp của
khớp xương chêm - xương bàn I, thay đổi
điểm bám tận của gân cơ chầy trước.
Berman A và Garland JJ. (1971) trong
thông báo với kỹ thuật cắt nền xương bàn đã
gây nên tổn thương sụn tiếp hợp, chặn phát
triển xương bàn chân và hậu quả làm ngắn
bàn chân.
Mahmoud, Rosasy, Tarek (2004) [12] đã
tiến hành cắt chêm xương hộp và đưa chêm
xương hộp vào xương chêm I cố định bằng
đinh Kirschner, tương tự chúng tôi đã thực
hiện trong nghiên cứu này. Tuy nhiên nếu đơn
thuần chỉ tạo chêm xương mà không tiến
hành cắt bao khớp sên - thuyền và/hoặc thu-
yền - xương bàn I một khi có sai khớp xương
thuyền, kết quả sau mổ sẽ hạn chế. Chỉnh
sửa lại xương sên trong bàn chân khoèo là
chìa khóa cho điều trị. Hung NN [13] đã tiến
hành lấy bỏ xốp hộp nhằm làm xẹp xương
hộp thay cho cắt chêm xương, nhưng kỹ thuật
chỉ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
phau_thuat_cat_xuong_tu_cot_ban_chan_dieu_tri_khep_phan_truo.pdf