Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên các trường cao đẳng chuyên nghiệp

Việc đào tạo KNM cho người lao động được các doanh nghiệp, các đơn vị sử dụng lao động và xã hội quan tâm, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Các trường đại học, cao đẳng cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát triển KNM cho sinh viên góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, tạo dựng uy tín, thương hiệu của Trường, đáp ứng nhu cầu xã hội và thị trường lao động. Cần thiết chuẩn bị tốt các nguồn lực đưa môn học KNM vào chương trình đào tạo các khối ngành đào tạo của trường đạt hiệu quả. Phát triển KNM cho sinh viên thông qua các hoạt động đào tạo nhằm bổ trợ, huấn luyện các KNM cho sinh viên. Tạo lập môi trường phát triển các KNM giúp sinh viên phát huy hiệu quả các kiến thức chuyên môn và phát triển tiềm năng cá nhân, phát huy tối đa năng lực của bản thân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập, rèn luyện trong trường, tạo dựng hành trang sau khi tốt nghiệp ra trường thành công trong công việc và cuộc sống.

pdf6 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 22/03/2022 | Lượt xem: 464 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên các trường cao đẳng chuyên nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạ Quang Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 27 - 32 27 PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG CHUYÊN NGHIỆP Tạ Quang Thảo* Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc TÓM TẮT Kỹ năng mềm (KNM) là những kỹ năng bổ trợ cho hoạt động của cá nhân giúp cho cá nhân biến nhận thức thành hành động và phát triển năng lực cá nhân, đóng góp vào sự thành công của một tổ chức. Vì vậy, bên cạnh trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, KNM là một trong các yếu tố mà nhà tuyển dụng lao động quan tâm để tuyển chọn các ứng viên. Thực tế, các nhà tuyển dụng nhận định KNM của sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường tỷ lệ mức độ yếu là 38%, mức độ trung bình là 53%, mức độ khá là 9%2. Hiện nay hầu hết các nhà trường quan tâm nhiều đến việc trang bị kiến thức (kỹ năng cứng) mà ít quan tâm đến trang bị KNM cho sinh viên, đó là một tồn tại trong đào tạo. Vì vậy, cần phải có giải pháp phát triển một số KNM cho sinh viên trong các trường cao đẳng, đại học là điều cần thiết trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Từ khoá: Kỹ năng, kỹ năng mềm, sinh viên, đào tạo, trang bị, phát triển ĐẶT VẤN ĐỀ* Sinh viên Việt Nam vốn có truyền thống thông minh, cần cù và tinh thần tự chủ trong học tập, là đội ngũ lao động có tri thức tương lai của đất nước. Hàng năm, sinh viên Việt Nam luôn đạt nhiều giải thưởng cao trong các cuộc thi trí tuệ trên thế giới (toán, vật lý, cờ vua, Robocon). Thế nhưng, năng lực lao động của Việt Nam lại đứng ở một vị trí khiêm nhường và chưa được đánh giá cao bởi hạn chế từ những kỹ năng. Như vậy, ngoài những kiến thức chuyên môn, người lao động cần phải được trang bị các kỹ năng mềm để đảm bảo có việc làm mà còn để tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng của cá nhân. Ngân hàng Thế giới gọi thế kỷ 21 là kỷ nguyên của kinh tế dựa vào kỹ năng - Skills Based Economy (http:// www. librarything. com/work/5395375). Năng lực của con người được đánh giá trên cả 3 khía cạnh: Kiến thức, kỹ năng và thái độ. Các nhà khoa học trên thế giới cho rằng để thành đạt trong cuộc sống thì kỹ năng mềm (trí tuệ cảm xúc) chiếm 75%, kỹ năng cứng (trí tuệ logic) chỉ chiếm * Tel:0912054246; Email: tathao59@gmail.com 25% ( com/faq. htm) . Ngày nay trình độ học vấn và các bằng cấp chưa đủ để quyết định trong việc tuyển dụng lao động của nhiều doanh nghiệp và người sử dụng lao động. Họ còn căn cứ vào yếu tố cá nhân như kỹ năng, sự nhạy bén trong xử lý công việc và giao tiếp của mỗi người lao động, các yếu tố này được người ta gọi là "Kỹ năng mềm" (Soft skill). Theo điều tra của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong tổng số các sinh viên tốt nghiệp hàng năm, hơn 13% phải được đào tạo lại hoặc bổ sung kỹ năng, gần 40% phải được kèm cặp lại tại nơi làm việc và 41% cần thời gian làm quen với công việc[5]. Trong khi đó, hầu hết các nhà trường quan tâm nhiều đến việc trang bị kiến thức mà ít quan tâm đến trang bị kỹ năng mềm (KNM) cho sinh viên, đó là một tồn tại trong đào tạo. Vì vậy, phát triển một số KNM cho sinh viên trong các trường cao đẳng, đại học là cần thiết trong thời kỳ hội nhập hiện nay. THỰC TRẠNG VỀ KỸ NĂNG MỀM (KNM) CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY Để tiến hành khảo sát về thực trạng KNM của sinh viên, chúng tôi nghiên cứu yêu cầu từ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên Tạ Quang Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 27 - 32 28 các doanh nghiệp trên địa bàn Vĩnh phúc về phát triển KNM đối với học sinh, sinh viên sau khi ra trường. - Nghiên cứu thực trạng về trang bị KNM cho học sinh, sinh viên các trường chuyên nghiệp trên địa bàn Vĩnh Phúc. - Tiến hành khảo sát tại các trường Trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật (KT-KT) Vĩnh Phúc, Cao đẳng Vĩnh Phúc, Cao đẳng công nghiệp Phúc Yên. - Thời gian khảo sát: từ thánh 01 đến tháng 04 năm 2011. Phương pháp khảo sát - Khảo sát bằng bảng hỏi cho 100 sinh viên khối ngành kinh tế (Trường Cao đẳng KT-KT Vĩnh Phúc 40, Cao đẳng Vĩnh Phúc 30, Cao đẳng công nghiệp Phúc Yên 30). - Khảo sát bằng bảng hỏi 50 chủ doanh nghiệp và phỏng vấn một số chủ doanh nghiệp. - Khảo sát bằng bảng hỏi 50 cán bộ quản lý, giảng viên và phỏng vấn một số cán bộ, giảng viên. KẾT QUẢ KHẢO SÁT Những đánh giá về KNM của sinh viên khi ra trường. Người sử dụng lao động quan tâm đối với KNM của người lao động KNM của cá nhân là phần quan trọng của cá nhân đó đóng góp vào sự thành công của một tổ chức. Vì vậy, bên cạnh trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, KNM là một trong các yếu tố mà nhà tuyển dụng lao động quan tâm để tuyển chọn các ứng viên. Kết quả khảo sát từ các doanh nghiệp qua bảng cho thấy KNM của người lao động được các nhà tuyển dụng đặc biệt quan tâm qua điều tra khảo sát bằng bảng hỏi cho thấy 98% các nhà tuyển dụng cho rằng rất cần thiết, 2% cho rằng cần thiết, 0% nhà tuyển dụng cho rằng không cần thiết. Ngoài ra, những trong KNM cơ bản có mức độ và thứ tự ưu tiên có khác nhau, cụ thể khi khảo sát cán bộ tuyển dụng hoặc chủ doanh nghiệp cho rằng tầm quan trọng của các kỹ năng theo thứ tự như sau: Kỹ năng giáo tiếp có (98%), kỹ năng làm việc nhóm (86%), kỹ năng học và tự học (73%), kỹ năng thuyết trình (68%). Điều này trùng khớp với nhận định của tác giả trong www. SAGA.vn-skillsgroup [7]. Từ kết quả khảo sát trên có thể khẳng định KNM là yêu cầu cơ bản của thị trường lao động trong giai đoạn hiện nay, điều này đòi hỏi các nhà trường cần có những thay đổi trong nội dung, chương trình, mục tiêu và phương pháp đào tạo đáp ứng yêu cầu trên. Về trang bị KNM cho sinh viên của các nhà trường hiện nay Qua khảo sát tại các doanh nghiệp cho thấy: Hiện nay đa số sinh viên tốt nghiệp ra trường đều được trang bị kiến thức chuẩn về ngành nghề được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng. Tuy vậy, các KNM như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình,... đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động thì sinh viên còn rất nhiều hạn chế. Thực tế các nhà tuyển dụng nhận định KNM của sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường tỷ lệ mức độ còn yếu là 38%, mức độ trung bình là 53 %, mức độ khá là 9%, điều này cũng được Vew Full Version: Kỹ năng mềm cho sinh viên trong thời kỳ hội nhập nhận định “kỹ năng mềm của sinh viên thiếu và yếu”[6]. Chúng tôi phỏng vấn Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển công nghệ Vĩnh Phúc cho rằng: “Nhân viên kinh doanh, nhân viên văn phòng bao giờ chúng tôi cũng có sự đỏi hỏi cao hơn đối với kỹ năng giao tiếp ứng sử, thuyết trình so với nhân viên thuộc bộ phận kỹ thuật”; Giám đốc Công ty Cổ phần TDC: “KNM đối với nhân viên là không thể yếu trong công ty chúng tôi KNM của nhân viên là sinh viên mới tốt nghiệp còn rất hạn chế. Khi tiếp nhận nhân viên mới là sinh viên tốt nghiệp tại các nhà trường bao giờ Công ty cũng phải tổ chức đào tạo thêm (từ 02 đến 03 tháng) một số kỹ năng trước khi giao việc chính thức”. Xuất phát từ những ý kiến trên việc trang bị KNM cho sinh viên trong các nhà trường là hết sức cần thiết, đặc biệt là các chuyên ngành thuộc khối ngành kinh tế. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên Tạ Quang Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 27 - 32 29 Bảng 01: Tổng hợp kết quả khảo sát 50 cán bộ quản lý và giảng viên ĐVT (%) Tình huống Luôn luôn Thường xuyên Thỉnh thoảng Ít Rất ít Khi xây dựng nội dung chương trình đồng chí có xác định rõ mục tiêu về kỹ năng phải đạt được? Kỹ năng học và tự học 6.6 28.2 43.2 15.5 6.6 Kỹ năng làm việc nhóm 2 6.3 10.7 51.2 18.8 Kỹ năng thuyết trình 7.2 10.8 11 60 10 Kỹ năng giao tiếp 13.2 20.8 15 31 20 Thực trạng về việc trang bị KNM cho sinh viên của giảng viên, cán bộ quản lý tại các trường Cao đẳng KT – KT trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Việc trang bị KNM cho sinh viên trong chương trình đào tạo. Kết quả tại bảng 01 cho thấy: Tỷ lệ mức độ thường xuyên và luôn luôn của giảng viên và cán bộ quản lý ở kỹ năng học và tự học chiếm 34,8%; kỹ năng làm việc nhóm 8,3%, Kỹ năng thuyết trình chiếm 18%, Kỹ năng giao tiếp chiếm 34%. Điều này có thể khẳng đinh trong chương trình đào tạo tại các trường cao đẳng KT KT trên địa bàn Vĩnh Phúc hiện nay chưa thực sự quan tâm trong việc trang bị KNM cho sinh viên. Kỹ năng mềm trong mục tiêu, bài giảng giờ giảng của giáo viên. Kết quả khảo sát cũng cho thấy trên 88% giáo viên nhận thức được tầm quan trọng đối với đào tạo KNM cho người học, 12% cho rằng kỹ năng mềm do học sinh, sinh viên tự đúc rút trong quá trình học tập và làm việc. Chúng tôi phát phiếu hỏi về mức độ thường xuyên lồng ghép truyền đạt của giảng viên trong thời gian giảng dạy trên lớp đối với một số KNM cơ bản sau khi tổng hợp kết quả như sau: Bảng 02. Mức độ thường xuyên lồng ghép truyền đạt về KNM của giảng viên trong thời gian giảng dạy trên lớp. Có (%) Không (%) Nhóm KNM cơ bản 52 48 Kỹ năng học và tự học 61 39 Kỹ năng làm việc theo nhóm 72 18 Kỹ năng thuyết trình 67 23 Kỹ năng giao tiếp Điều này có thể đi đến nhận định phần lớn giảng viên đã có nhận thức về tầm quan trọng của việc trang bị KNM cho sinh viên, nhưng mức độ khác nhau điều đó thể hiện giảng viên chưa nghiên cứu kỹ yêu cầu về KNM đối với từng nhóm ngành cụ thể. Khó khăn trong việc trang bị KNM cho sinh viên trong các nhà trường hiện nay Khi phỏng vấn ThS.Ngô Thị Cẩm Linh Trường Cao đẳng KT-KT Vĩnh Phúc cho biết: “Việc giảng dạy KNM trong từng giờ giảng, bài giảng trên lớp là hết sức cần thiết, nhưng thực tế cho thấy chưa có quy định, hướng dẫn cũng như tiêu trí để định hướng và kiểm soát về việc đào tạo KNM. Chủ yếu kiểm soát kiến thức kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ chuyên ngành đào tạo”. Ths. Nguyễn Hữu Phước, Trường cao đẳng KT-KT Vĩnh Phúc cho rằng: “KNM là rất cần thiết cho việc hình thành phong cách, lối sống cho người học trong nhà trường và tạo dựng hành trang sau khi ra trường, việc đào tạo KNM cho sinh viên hiện nay chỉ mang tính định hướng trong nhà trường”. Từ nhận định trên có thể kết luận mặc dù giảng viên đã nhận thức được tầm quan trọng trong việc trang bị KNM cho sinh viên nhưng các khó khăn đó là quy định, yêu cầu giảng dạy từng kỹ năng cụ thể chưa được hệ thống hóa; cán bộ quản lý giảng viên vẫn còn nặng về truyền thụ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ (kỹ năng cứng) còn xem nhẹ việc trang bị KNM cho sinh viên. Mặt khác giảng viên chưa được tập huấn, thống nhất lồng ghép quá trình truyền thụ KNM cho sinh viên trong thời gian lên lớp. Tổ chức các hoạt động ngoại khoá còn ít, thiếu kinh phí, chương trình chưa cụ thể do vậy hiệu quả thấp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên Tạ Quang Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 27 - 32 30 Nhận thức của sinh viên các trường cao đẳng KT – KT Trên địa bàn Vĩnh Phúc về kỹ năng mềm Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của KNM Bảng 03. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của KNM ĐVT (%) Chưa bao giờ nghĩ đến phải hoàn thiện kỹ năng mềm 3 Không cần thiết lắm, cần nhất vẫn là chuyên môn 12 Có cũng tốt, không có không sao 14 Cần thiết 34 Rất cần thiết 37 Qua kết quả khảo sát ở bảng 03 cho thấy còn 3% số sinh viên không quan tâm đến KNM đối với học tập, rèn luyện và công việc tương lai. Tỷ lệ sinh viên cho rằng KNM không quan trọng, chỉ coi trọng kiến thức chuyên môn là 12%. Tỷ lệ sinh viên nhận thấy KNM cần thiết là 71% ( 34% là cần thiết, 37% rất cần thiết). Như vậy, hầu hết các em học sinh sinh viên đã nhận thức được vai trò của KNM cần thiết trong học tập, rèn luyện và tương lai. Đây là tín hiệu đáng mừng vì đây là nền tảng và động lực để người học tạo động lực cho bản thân trong quá trình học tập và rèn luyện. Nhu cầu đào tào kỹ năng mềm. Kết quả khảo sát nhu cầu của các em được đào tạo nhóm KNM qua bảng 4. Qua kết quả khảo sát của tác giả tại bảng 4 cho thấy: Tỷ lệ sinh viên cho rằng mức độ rất cần thiết và cần thiết ở các kỹ năng học và tự học, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng giao tiếp lần lượt là: 80%, 38%,70%, 71%. Như vậy, đa số sinh viên có nhu cầu trang bị KNM trong quá trình học tập tại trường. Mặt khác, mức độ nhu cầu của sinh viên trang bị các kỹ năng khác nhau: kỹ năng tự học các em cho rằng cần thiết nhất, sau đó kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng giao tiếp. Những khó khăn của sinh viên trong quá trình phát triển KNM cho sinh viên Bảng 5. Đánh giá những khó khăn của sinh viên trong việc lĩnh hội KNM ĐVT (%) Không có thời gian 2 Không có giảng viên, chương trình phù hợp 25 Không có môi trường để rèn luyện 30 Không có kinh phí để theo học các lớp ngoại khóa 11 Không gặp khó khăn gì 32 Kết quả khảo sát cho thấy trong số những sinh viên có nhu cầu được đào tạo KNM 2% cho rằng các em gặp khó khăn trong việc không đủ thời gian để tham dự các khoá huấn luyện KNM “lý do: do bận học chuyên môn, do phải đi làm thêm, lý do khác”, không có kinh phí để theo học các chương trình đào tạo ngoại khóa là 11%. Tỷ lệ sinh viên cho rằng không có giảng viên và chương trình đào tạo phù hợp, không có môi trường để rèn luyện, không gặp khó khăn nào lần lượt là 25%,30%,32 %. Như vậy, những khó khặn của sinh viên chủ yếu tập trung vào nhà trường cần có giảng viên chuẩn, chương trình đào tạo phù hợp và tạo môi trường rèn luyện tốt Bảng 4. Nhu cầu được trang bị về KNM của sinh viên ĐVT (%) Tình huống Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Ít cần thiết Không cần thiết Bạn có nhu cầu trang bị KNM trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường Kỹ năng học và tự học 32 48 11 7 2 Kỹ năng làm việc nhóm 12 36 28 15 9 Kỹ năng thuyết trình 23 47 19 8 3 Kỹ năng giao tiếp 26 45 18 6 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên Tạ Quang Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 27 - 32 31 MỘT SỐ GIẢI PHÁP Tăng cường công tác tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ, giảng viên về việc phát triển KNM cho sinh viên. Đặc biệt là tuyên truyền, vận động đối với sinh viên đề họ tự giác nhận thức rõ những KNM là rất cần thiết và có ý thức rèn luyện, thực hành thường xuyên nhằm tạo lập một thói quen làm việc chuyên nghiệp ngay từ khi đang học tập, rèn luyện tại Trường Đưa việc đào tạo KNM vào chương trình đào tạo các chuyên ngành - Xây dựng môn học phát triển KNM và là một môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo các chuyên ngành. Nội dung môn học KNM đảm bảo trang bị cho sinh viên những kỹ năng cơ bản phù hợp với khối ngành đào tạo. Tiến hành tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy môn học này cho giảng viên giảng dạy. - Phát triển KNM cho sinh viên được tích hợp trong các môn học chuyên môn và được lồng ghép trong từng giờ lên lớp của giảng viên - Cụ thể hóa yêu cầu về đào tạo kỹ năng nghề nghiệp và KNM cho chuẩn đầu ra của từng chương trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Đa dạng các hình thức đào tạo, huấn luyện KNM cho sinh viên Tăng cường thực tập, trải nghiệm thực tế tại các cơ sở sản xuất kinh doanh. Huấn luyện KNM thông qua các hoạt động ngoại khóa, lồng ghép trong các hoạt động Đoàn, Hội sinh viên; đối thoại, giao lưu với chuyên gia các doanh nghiệp... để tạo thói quen làm việc chuyên nghiệp cho sinh viên có cơ hội thực hành KNM thường xuyên từ đó có ngay từ khi còn là sinh viên trong trường. Dành kinh phí cho các hoạt động này. KẾT LUẬN Việc đào tạo KNM cho người lao động được các doanh nghiệp, các đơn vị sử dụng lao động và xã hội quan tâm, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Các trường đại học, cao đẳng cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát triển KNM cho sinh viên góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, tạo dựng uy tín, thương hiệu của Trường, đáp ứng nhu cầu xã hội và thị trường lao động. Cần thiết chuẩn bị tốt các nguồn lực đưa môn học KNM vào chương trình đào tạo các khối ngành đào tạo của trường đạt hiệu quả. Phát triển KNM cho sinh viên thông qua các hoạt động đào tạo nhằm bổ trợ, huấn luyện các KNM cho sinh viên. Tạo lập môi trường phát triển các KNM giúp sinh viên phát huy hiệu quả các kiến thức chuyên môn và phát triển tiềm năng cá nhân, phát huy tối đa năng lực của bản thân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập, rèn luyện trong trường, tạo dựng hành trang sau khi tốt nghiệp ra trường thành công trong công việc và cuộc sống.. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1].Nguyễn Thanh Bình, Giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh THPT. Đề tài cấp Bộ mã số B2005-75-126. [2]. Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI - Nxb Chính trị quốc gia - Hà Nội - 2002 [3]. Nguyễn Thị Tính, Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học thông qua dạy học môn Đạo đức. Đề tài cấp Bộ B2009-TN04-09 [4]. Lê Hồng Sơn (2006), Phát triển kỹ năng hoạt động xã hội cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP- ĐHTN. [5]. http:// www.baomoi.com/ Dao tao ky nang mem cho sinh viên/59/3963095.epi [6].à/archive/index.php/t- 2967.html [7].www.saga.vn/kynangquanly/.../16188.saga Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên Tạ Quang Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 27 - 32 32 SUMMARY DEVELOPING STUDENTS’ SOFT SKILLS IN VOCATIONAL COLLEGES Ta Quang Thao* Vinh Phuc Technical Economic College A person’s soft skill is an important part of their individual contribution to the success and development of an organization. Besides professional knowledge and skills, soft skill is one of the factors that is highly appreciated by the employers in the process of selecting candidates. In reality, many employers assumed that among graduated students, only 9% percent of them has good soft skills, 53% of them has average ones and other 38% has weak soft skills. It is a current existent shortcoming that most colleges and universities mainly focus on developing hard skills for students and don’t pay enough attention to soft ones. Therefore, in the period of integration, it’s necessary to have solutions for developing some essential soft skills for students in universities and colleges. Key words: Skills, soft skills, students, training, equip, develop * Tel: 0912054246, Email: tathao59@gmail.com Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphat_trien_ky_nang_mem_cho_sinh_vien_cac_truong_cao_dang_chu.pdf
Tài liệu liên quan