Việc đào tạo KNM cho người lao động được
các doanh nghiệp, các đơn vị sử dụng lao
động và xã hội quan tâm, đặc biệt trong thời
kỳ hội nhập hiện nay. Các trường đại học, cao
đẳng cần nhận thức rõ tầm quan trọng của
việc phát triển KNM cho sinh viên góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo, tạo dựng uy tín,
thương hiệu của Trường, đáp ứng nhu cầu xã
hội và thị trường lao động. Cần thiết chuẩn bị
tốt các nguồn lực đưa môn học KNM vào
chương trình đào tạo các khối ngành đào tạo
của trường đạt hiệu quả. Phát triển KNM cho
sinh viên thông qua các hoạt động đào tạo
nhằm bổ trợ, huấn luyện các KNM cho sinh
viên. Tạo lập môi trường phát triển các KNM
giúp sinh viên phát huy hiệu quả các kiến
thức chuyên môn và phát triển tiềm năng cá
nhân, phát huy tối đa năng lực của bản thân
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập, rèn
luyện trong trường, tạo dựng hành trang sau
khi tốt nghiệp ra trường thành công trong
công việc và cuộc sống.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 22/03/2022 | Lượt xem: 464 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên các trường cao đẳng chuyên nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạ Quang Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 27 - 32
27
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG
CAO ĐẲNG CHUYÊN NGHIỆP
Tạ Quang Thảo*
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc
TÓM TẮT
Kỹ năng mềm (KNM) là những kỹ năng bổ trợ cho hoạt động của cá nhân giúp cho cá nhân biến nhận
thức thành hành động và phát triển năng lực cá nhân, đóng góp vào sự thành công của một tổ chức. Vì
vậy, bên cạnh trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, KNM là một trong các yếu tố mà nhà tuyển dụng
lao động quan tâm để tuyển chọn các ứng viên. Thực tế, các nhà tuyển dụng nhận định KNM của
sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường tỷ lệ mức độ yếu là 38%, mức độ trung bình là 53%, mức độ
khá là 9%2. Hiện nay hầu hết các nhà trường quan tâm nhiều đến việc trang bị kiến thức (kỹ năng
cứng) mà ít quan tâm đến trang bị KNM cho sinh viên, đó là một tồn tại trong đào tạo. Vì vậy, cần
phải có giải pháp phát triển một số KNM cho sinh viên trong các trường cao đẳng, đại học là điều
cần thiết trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
Từ khoá: Kỹ năng, kỹ năng mềm, sinh viên, đào tạo, trang bị, phát triển
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Sinh viên Việt Nam vốn có truyền thống
thông minh, cần cù và tinh thần tự chủ trong
học tập, là đội ngũ lao động có tri thức tương
lai của đất nước. Hàng năm, sinh viên Việt
Nam luôn đạt nhiều giải thưởng cao trong các
cuộc thi trí tuệ trên thế giới (toán, vật lý, cờ
vua, Robocon). Thế nhưng, năng lực lao
động của Việt Nam lại đứng ở một vị trí khiêm
nhường và chưa được đánh giá cao bởi hạn chế
từ những kỹ năng. Như vậy, ngoài những kiến
thức chuyên môn, người lao động cần phải
được trang bị các kỹ năng mềm để đảm bảo có
việc làm mà còn để tiến bộ trong tổ chức thông
qua việc phát huy tiềm năng của cá nhân.
Ngân hàng Thế giới gọi thế kỷ 21 là kỷ
nguyên của kinh tế dựa vào kỹ năng - Skills
Based Economy (http:// www. librarything.
com/work/5395375). Năng lực của con
người được đánh giá trên cả 3 khía cạnh: Kiến
thức, kỹ năng và thái độ. Các nhà khoa học
trên thế giới cho rằng để thành đạt trong cuộc
sống thì kỹ năng mềm (trí tuệ cảm xúc) chiếm
75%, kỹ năng cứng (trí tuệ logic) chỉ chiếm
*
Tel:0912054246; Email: tathao59@gmail.com
25% (
com/faq. htm) .
Ngày nay trình độ học vấn và các bằng cấp
chưa đủ để quyết định trong việc tuyển dụng
lao động của nhiều doanh nghiệp và người sử
dụng lao động. Họ còn căn cứ vào yếu tố cá
nhân như kỹ năng, sự nhạy bén trong xử lý
công việc và giao tiếp của mỗi người lao
động, các yếu tố này được người ta gọi là "Kỹ
năng mềm" (Soft skill). Theo điều tra của Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội, trong
tổng số các sinh viên tốt nghiệp hàng năm,
hơn 13% phải được đào tạo lại hoặc bổ sung
kỹ năng, gần 40% phải được kèm cặp lại tại
nơi làm việc và 41% cần thời gian làm quen
với công việc[5]. Trong khi đó, hầu hết các nhà
trường quan tâm nhiều đến việc trang bị kiến
thức mà ít quan tâm đến trang bị kỹ năng mềm
(KNM) cho sinh viên, đó là một tồn tại trong
đào tạo. Vì vậy, phát triển một số KNM cho
sinh viên trong các trường cao đẳng, đại học là
cần thiết trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
THỰC TRẠNG VỀ KỸ NĂNG MỀM (KNM)
CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
Để tiến hành khảo sát về thực trạng KNM của
sinh viên, chúng tôi nghiên cứu yêu cầu từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Tạ Quang Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 27 - 32
28
các doanh nghiệp trên địa bàn Vĩnh phúc về
phát triển KNM đối với học sinh, sinh viên
sau khi ra trường.
- Nghiên cứu thực trạng về trang bị KNM cho
học sinh, sinh viên các trường chuyên nghiệp
trên địa bàn Vĩnh Phúc.
- Tiến hành khảo sát tại các trường Trường
Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật (KT-KT) Vĩnh
Phúc, Cao đẳng Vĩnh Phúc, Cao đẳng công
nghiệp Phúc Yên.
- Thời gian khảo sát: từ thánh 01 đến tháng 04
năm 2011.
Phương pháp khảo sát
- Khảo sát bằng bảng hỏi cho 100 sinh viên
khối ngành kinh tế (Trường Cao đẳng KT-KT
Vĩnh Phúc 40, Cao đẳng Vĩnh Phúc 30, Cao
đẳng công nghiệp Phúc Yên 30).
- Khảo sát bằng bảng hỏi 50 chủ doanh nghiệp
và phỏng vấn một số chủ doanh nghiệp.
- Khảo sát bằng bảng hỏi 50 cán bộ quản lý,
giảng viên và phỏng vấn một số cán bộ,
giảng viên.
KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Những đánh giá về KNM của sinh viên khi
ra trường.
Người sử dụng lao động quan tâm đối với
KNM của người lao động
KNM của cá nhân là phần quan trọng của cá
nhân đó đóng góp vào sự thành công của một tổ
chức. Vì vậy, bên cạnh trình độ về chuyên
môn, nghiệp vụ, KNM là một trong các yếu tố
mà nhà tuyển dụng lao động quan tâm để
tuyển chọn các ứng viên.
Kết quả khảo sát từ các doanh nghiệp qua
bảng cho thấy KNM của người lao động được
các nhà tuyển dụng đặc biệt quan tâm qua
điều tra khảo sát bằng bảng hỏi cho thấy 98%
các nhà tuyển dụng cho rằng rất cần thiết, 2%
cho rằng cần thiết, 0% nhà tuyển dụng cho
rằng không cần thiết. Ngoài ra, những trong
KNM cơ bản có mức độ và thứ tự ưu tiên có
khác nhau, cụ thể khi khảo sát cán bộ tuyển
dụng hoặc chủ doanh nghiệp cho rằng tầm
quan trọng của các kỹ năng theo thứ tự như
sau: Kỹ năng giáo tiếp có (98%), kỹ năng làm
việc nhóm (86%), kỹ năng học và tự học
(73%), kỹ năng thuyết trình (68%). Điều này
trùng khớp với nhận định của tác giả trong
www. SAGA.vn-skillsgroup [7].
Từ kết quả khảo sát trên có thể khẳng định
KNM là yêu cầu cơ bản của thị trường lao
động trong giai đoạn hiện nay, điều này đòi
hỏi các nhà trường cần có những thay đổi
trong nội dung, chương trình, mục tiêu và
phương pháp đào tạo đáp ứng yêu cầu trên.
Về trang bị KNM cho sinh viên của các nhà
trường hiện nay
Qua khảo sát tại các doanh nghiệp cho thấy:
Hiện nay đa số sinh viên tốt nghiệp ra trường
đều được trang bị kiến thức chuẩn về ngành
nghề được đào tạo trong các trường đại học,
cao đẳng. Tuy vậy, các KNM như kỹ năng
làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
thuyết trình,... đáp ứng nhu cầu của thị trường
lao động thì sinh viên còn rất nhiều hạn chế.
Thực tế các nhà tuyển dụng nhận định KNM
của sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường tỷ
lệ mức độ còn yếu là 38%, mức độ trung bình
là 53 %, mức độ khá là 9%, điều này cũng
được Vew Full Version: Kỹ năng mềm cho
sinh viên trong thời kỳ hội nhập nhận định
“kỹ năng mềm của sinh viên thiếu và yếu”[6].
Chúng tôi phỏng vấn Giám đốc Công ty Cổ
phần Đầu tư và Phát triển công nghệ Vĩnh
Phúc cho rằng: “Nhân viên kinh doanh, nhân
viên văn phòng bao giờ chúng tôi cũng có sự
đỏi hỏi cao hơn đối với kỹ năng giao tiếp ứng
sử, thuyết trình so với nhân viên thuộc bộ
phận kỹ thuật”; Giám đốc Công ty Cổ phần
TDC: “KNM đối với nhân viên là không thể
yếu trong công ty chúng tôi KNM của
nhân viên là sinh viên mới tốt nghiệp còn rất
hạn chế. Khi tiếp nhận nhân viên mới là sinh
viên tốt nghiệp tại các nhà trường bao giờ
Công ty cũng phải tổ chức đào tạo thêm (từ
02 đến 03 tháng) một số kỹ năng trước khi
giao việc chính thức”. Xuất phát từ những ý
kiến trên việc trang bị KNM cho sinh viên
trong các nhà trường là hết sức cần thiết,
đặc biệt là các chuyên ngành thuộc khối
ngành kinh tế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Tạ Quang Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 27 - 32
29
Bảng 01: Tổng hợp kết quả khảo sát 50 cán bộ quản lý và giảng viên ĐVT (%)
Tình huống Luôn luôn Thường xuyên Thỉnh thoảng Ít Rất ít
Khi xây
dựng nội
dung chương
trình đồng
chí có xác
định rõ mục
tiêu về kỹ
năng phải đạt
được?
Kỹ năng học và
tự học 6.6 28.2 43.2 15.5 6.6
Kỹ năng
làm việc nhóm 2 6.3 10.7 51.2 18.8
Kỹ năng
thuyết trình 7.2 10.8 11 60 10
Kỹ năng giao tiếp 13.2 20.8 15 31 20
Thực trạng về việc trang bị KNM cho sinh
viên của giảng viên, cán bộ quản lý tại các
trường Cao đẳng KT – KT trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc.
Việc trang bị KNM cho sinh viên trong
chương trình đào tạo.
Kết quả tại bảng 01 cho thấy: Tỷ lệ mức độ
thường xuyên và luôn luôn của giảng viên và
cán bộ quản lý ở kỹ năng học và tự học chiếm
34,8%; kỹ năng làm việc nhóm 8,3%, Kỹ
năng thuyết trình chiếm 18%, Kỹ năng giao
tiếp chiếm 34%. Điều này có thể khẳng đinh
trong chương trình đào tạo tại các trường cao
đẳng KT KT trên địa bàn Vĩnh Phúc hiện nay
chưa thực sự quan tâm trong việc trang bị
KNM cho sinh viên.
Kỹ năng mềm trong mục tiêu, bài giảng giờ
giảng của giáo viên.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy trên 88% giáo
viên nhận thức được tầm quan trọng đối với
đào tạo KNM cho người học, 12% cho rằng
kỹ năng mềm do học sinh, sinh viên tự đúc
rút trong quá trình học tập và làm việc. Chúng
tôi phát phiếu hỏi về mức độ thường xuyên
lồng ghép truyền đạt của giảng viên trong thời
gian giảng dạy trên lớp đối với một số KNM
cơ bản sau khi tổng hợp kết quả như sau:
Bảng 02. Mức độ thường xuyên lồng ghép truyền
đạt về KNM của giảng viên trong thời gian
giảng dạy trên lớp.
Có
(%)
Không
(%)
Nhóm KNM cơ bản
52 48 Kỹ năng học và tự học
61 39 Kỹ năng làm việc
theo nhóm
72 18 Kỹ năng thuyết trình
67 23 Kỹ năng giao tiếp
Điều này có thể đi đến nhận định phần lớn
giảng viên đã có nhận thức về tầm quan trọng
của việc trang bị KNM cho sinh viên, nhưng
mức độ khác nhau điều đó thể hiện giảng viên
chưa nghiên cứu kỹ yêu cầu về KNM đối với
từng nhóm ngành cụ thể.
Khó khăn trong việc trang bị KNM cho sinh
viên trong các nhà trường hiện nay
Khi phỏng vấn ThS.Ngô Thị Cẩm Linh
Trường Cao đẳng KT-KT Vĩnh Phúc cho biết:
“Việc giảng dạy KNM trong từng giờ giảng,
bài giảng trên lớp là hết sức cần thiết, nhưng
thực tế cho thấy chưa có quy định, hướng dẫn
cũng như tiêu trí để định hướng và kiểm soát
về việc đào tạo KNM. Chủ yếu kiểm soát kiến
thức kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ
chuyên ngành đào tạo”. Ths. Nguyễn Hữu
Phước, Trường cao đẳng KT-KT Vĩnh Phúc
cho rằng: “KNM là rất cần thiết cho việc hình
thành phong cách, lối sống cho người học
trong nhà trường và tạo dựng hành trang sau
khi ra trường, việc đào tạo KNM cho sinh
viên hiện nay chỉ mang tính định hướng trong
nhà trường”. Từ nhận định trên có thể kết
luận mặc dù giảng viên đã nhận thức được
tầm quan trọng trong việc trang bị KNM cho
sinh viên nhưng các khó khăn đó là quy định,
yêu cầu giảng dạy từng kỹ năng cụ thể chưa
được hệ thống hóa; cán bộ quản lý giảng viên
vẫn còn nặng về truyền thụ kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ (kỹ năng cứng) còn xem nhẹ
việc trang bị KNM cho sinh viên. Mặt khác
giảng viên chưa được tập huấn, thống nhất
lồng ghép quá trình truyền thụ KNM cho sinh
viên trong thời gian lên lớp. Tổ chức các hoạt
động ngoại khoá còn ít, thiếu kinh phí, chương
trình chưa cụ thể do vậy hiệu quả thấp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Tạ Quang Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 27 - 32
30
Nhận thức của sinh viên các trường cao
đẳng KT – KT Trên địa bàn Vĩnh Phúc về
kỹ năng mềm
Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng
của KNM
Bảng 03. Nhận thức của sinh viên về tầm quan
trọng của KNM ĐVT (%)
Chưa bao giờ nghĩ đến phải hoàn thiện
kỹ năng mềm
3
Không cần thiết lắm, cần nhất vẫn là
chuyên môn
12
Có cũng tốt, không có không sao 14
Cần thiết 34
Rất cần thiết 37
Qua kết quả khảo sát ở bảng 03 cho thấy còn
3% số sinh viên không quan tâm đến KNM
đối với học tập, rèn luyện và công việc tương
lai. Tỷ lệ sinh viên cho rằng KNM không
quan trọng, chỉ coi trọng kiến thức chuyên
môn là 12%. Tỷ lệ sinh viên nhận thấy KNM
cần thiết là 71% ( 34% là cần thiết, 37% rất
cần thiết). Như vậy, hầu hết các em học sinh
sinh viên đã nhận thức được vai trò của KNM
cần thiết trong học tập, rèn luyện và tương lai.
Đây là tín hiệu đáng mừng vì đây là nền tảng
và động lực để người học tạo động lực cho bản
thân trong quá trình học tập và rèn luyện.
Nhu cầu đào tào kỹ năng mềm.
Kết quả khảo sát nhu cầu của các em được
đào tạo nhóm KNM qua bảng 4. Qua kết quả
khảo sát của tác giả tại bảng 4 cho thấy: Tỷ lệ
sinh viên cho rằng mức độ rất cần thiết và cần
thiết ở các kỹ năng học và tự học, kỹ năng
làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng
giao tiếp lần lượt là: 80%, 38%,70%, 71%.
Như vậy, đa số sinh viên có nhu cầu trang bị
KNM trong quá trình học tập tại trường. Mặt
khác, mức độ nhu cầu của sinh viên trang bị
các kỹ năng khác nhau: kỹ năng tự học các
em cho rằng cần thiết nhất, sau đó kỹ năng
làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng
giao tiếp.
Những khó khăn của sinh viên trong quá trình
phát triển KNM cho sinh viên
Bảng 5. Đánh giá những khó khăn của sinh viên
trong việc lĩnh hội KNM
ĐVT (%)
Không có thời gian 2
Không có giảng viên, chương trình phù hợp 25
Không có môi trường để rèn luyện 30
Không có kinh phí để theo học các lớp
ngoại khóa
11
Không gặp khó khăn gì 32
Kết quả khảo sát cho thấy trong số những
sinh viên có nhu cầu được đào tạo KNM 2%
cho rằng các em gặp khó khăn trong việc
không đủ thời gian để tham dự các khoá huấn
luyện KNM “lý do: do bận học chuyên môn,
do phải đi làm thêm, lý do khác”, không có
kinh phí để theo học các chương trình đào tạo
ngoại khóa là 11%. Tỷ lệ sinh viên cho rằng
không có giảng viên và chương trình đào tạo
phù hợp, không có môi trường để rèn luyện,
không gặp khó khăn nào lần lượt là
25%,30%,32 %. Như vậy, những khó khặn
của sinh viên chủ yếu tập trung vào nhà trường
cần có giảng viên chuẩn, chương trình đào tạo
phù hợp và tạo môi trường rèn luyện tốt
Bảng 4. Nhu cầu được trang bị về KNM của sinh viên
ĐVT (%)
Tình huống Rất
cần thiết
Cần
thiết
Bình
thường
Ít
cần thiết
Không
cần thiết
Bạn có nhu cầu
trang bị KNM
trong quá trình
học tập và rèn
luyện tại trường
Kỹ năng học và tự học 32 48 11 7 2
Kỹ năng làm việc nhóm 12 36 28 15 9
Kỹ năng thuyết trình 23 47 19 8 3
Kỹ năng giao tiếp 26 45 18 6 5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Tạ Quang Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 27 - 32
31
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Tăng cường công tác tuyên truyền nhằm nâng
cao ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ, giảng
viên về việc phát triển KNM cho sinh viên.
Đặc biệt là tuyên truyền, vận động đối với
sinh viên đề họ tự giác nhận thức rõ những
KNM là rất cần thiết và có ý thức rèn luyện,
thực hành thường xuyên nhằm tạo lập một
thói quen làm việc chuyên nghiệp ngay từ khi
đang học tập, rèn luyện tại Trường
Đưa việc đào tạo KNM vào chương trình đào
tạo các chuyên ngành
- Xây dựng môn học phát triển KNM và là
một môn học bắt buộc trong chương trình đào
tạo các chuyên ngành. Nội dung môn học
KNM đảm bảo trang bị cho sinh viên những
kỹ năng cơ bản phù hợp với khối ngành đào
tạo. Tiến hành tập huấn, bồi dưỡng về chuyên
môn, nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy môn
học này cho giảng viên giảng dạy.
- Phát triển KNM cho sinh viên được tích hợp
trong các môn học chuyên môn và được lồng
ghép trong từng giờ lên lớp của giảng viên
- Cụ thể hóa yêu cầu về đào tạo kỹ năng
nghề nghiệp và KNM cho chuẩn đầu ra của
từng chương trình đào tạo nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo và đáp ứng nhu cầu thị
trường lao động.
Đa dạng các hình thức đào tạo, huấn luyện
KNM cho sinh viên
Tăng cường thực tập, trải nghiệm thực tế tại
các cơ sở sản xuất kinh doanh. Huấn luyện
KNM thông qua các hoạt động ngoại khóa,
lồng ghép trong các hoạt động Đoàn, Hội sinh
viên; đối thoại, giao lưu với chuyên gia các
doanh nghiệp... để tạo thói quen làm việc
chuyên nghiệp cho sinh viên có cơ hội thực
hành KNM thường xuyên từ đó có ngay từ
khi còn là sinh viên trong trường. Dành kinh
phí cho các hoạt động này.
KẾT LUẬN
Việc đào tạo KNM cho người lao động được
các doanh nghiệp, các đơn vị sử dụng lao
động và xã hội quan tâm, đặc biệt trong thời
kỳ hội nhập hiện nay. Các trường đại học, cao
đẳng cần nhận thức rõ tầm quan trọng của
việc phát triển KNM cho sinh viên góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo, tạo dựng uy tín,
thương hiệu của Trường, đáp ứng nhu cầu xã
hội và thị trường lao động. Cần thiết chuẩn bị
tốt các nguồn lực đưa môn học KNM vào
chương trình đào tạo các khối ngành đào tạo
của trường đạt hiệu quả. Phát triển KNM cho
sinh viên thông qua các hoạt động đào tạo
nhằm bổ trợ, huấn luyện các KNM cho sinh
viên. Tạo lập môi trường phát triển các KNM
giúp sinh viên phát huy hiệu quả các kiến
thức chuyên môn và phát triển tiềm năng cá
nhân, phát huy tối đa năng lực của bản thân
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập, rèn
luyện trong trường, tạo dựng hành trang sau
khi tốt nghiệp ra trường thành công trong
công việc và cuộc sống..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].Nguyễn Thanh Bình, Giáo dục một số kỹ năng
sống cho học sinh THPT. Đề tài cấp Bộ mã số
B2005-75-126.
[2]. Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI - Nxb
Chính trị quốc gia - Hà Nội - 2002
[3]. Nguyễn Thị Tính, Giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh tiểu học thông qua dạy học môn Đạo đức.
Đề tài cấp Bộ B2009-TN04-09
[4]. Lê Hồng Sơn (2006), Phát triển kỹ năng hoạt
động xã hội cho sinh viên Trường Đại học Sư
phạm - Đại học Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ,
ĐHSP- ĐHTN.
[5]. http:// www.baomoi.com/ Dao tao ky nang
mem cho sinh viên/59/3963095.epi
[6].à/archive/index.php/t-
2967.html
[7].www.saga.vn/kynangquanly/.../16188.saga
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Tạ Quang Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 27 - 32
32
SUMMARY
DEVELOPING STUDENTS’ SOFT SKILLS IN VOCATIONAL COLLEGES
Ta Quang Thao*
Vinh Phuc Technical Economic College
A person’s soft skill is an important part of their individual contribution to the success and
development of an organization. Besides professional knowledge and skills, soft skill is one of the
factors that is highly appreciated by the employers in the process of selecting candidates. In reality,
many employers assumed that among graduated students, only 9% percent of them has good soft
skills, 53% of them has average ones and other 38% has weak soft skills. It is a current existent
shortcoming that most colleges and universities mainly focus on developing hard skills for
students and don’t pay enough attention to soft ones. Therefore, in the period of integration, it’s
necessary to have solutions for developing some essential soft skills for students in universities
and colleges.
Key words: Skills, soft skills, students, training, equip, develop
*
Tel: 0912054246, Email: tathao59@gmail.com
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_ky_nang_mem_cho_sinh_vien_cac_truong_cao_dang_chu.pdf