Phât thủ liệu pháp

Lương y VÕ HÀ Phất Thủ Liệu Pháp là phương pháp khí công chữa bệnh bằng cách lắc tay. Phất Thủ Liệu Pháp (PTLP) có công năng chuyển đổi gân cốt và cơ bắp từ ốm yếu suy nhược trở thành sung mãn khoẻ mạnh nên có tên là Dịch Cân Kinh. Tương truyền PTLP xuất phát từ chùa Thiếu Lâm, Trung Quốc. PTLP nằm trong số những công phu do Đạt Ma Sư Tổ truyền dạy nhằm giúp cho các tăng lữ Thiếu Lâm có đủ sức khoẻ để theo đuổi việc tu tập giáo pháp. PTLP đơn giãn, dễ nhớ, dễ tập và có hiệu quả cao đối với nhiều bệnh mãn tính khác nhau từ suy nhược thần kinh, hen suyển, đến tiêu hoá, tim mạch, sinh dục Do đó phương pháp nầy đã được lưu truyền trong dân gian qua nhiều thời kỳ và du nhập vào nước ta.

doc23 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2725 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phât thủ liệu pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÂT THỦ LIỆU PHÁP Lương y VÕ HÀ Phất Thủ Liệu Pháp là phương pháp khí công chữa bệnh bằng cách lắc tay. Phất Thủ Liệu Pháp (PTLP) có công năng chuyển đổi gân cốt và cơ bắp từ ốm yếu suy nhược trở thành sung mãn khoẻ mạnh nên có tên là Dịch Cân Kinh. Tương truyền PTLP xuất phát từ chùa Thiếu Lâm, Trung Quốc. PTLP nằm trong số những công phu do Đạt Ma Sư Tổ truyền dạy nhằm giúp cho các tăng lữ Thiếu Lâm có đủ sức khoẻ để theo đuổi việc tu tập giáo pháp. PTLP đơn giãn, dễ nhớ, dễ tập và có hiệu quả cao đối với nhiều bệnh mãn tính khác nhau từ suy nhược thần kinh, hen suyển, đến tiêu hoá, tim mạch, sinh dục… Do đó phương pháp nầy đã được lưu truyền trong dân gian qua nhiều thời kỳ và du nhập vào nước ta. Vì là một môn khí công nên tư thế và động tác của PTLP đều tuân thủ những nguyên tắc căn bản của khí công như: thöôïng hö haï thöïc, hàm hung bạc bối, tùng tĩnh tự nhiên…. Những nguyên tắc nầy nhằm giúp cho khí huyết dễ vận hành, kinh mạch dễ khai thông và nội lực được tích lũy. Chuẩn bị : Tìm nơi thoáng mát, không khí trong lành. Mặc quần áo rộng rãi. Đứng thẳng, hai chân dạng ra song song ngang vai, các ngón chân bám chặt xuống mặt đất, bụng dưới hơi thót, ngực hơi thu vào, vai xuôi tự nhiên, hai mắt khép hờ, đầu lưỡi chạm hàm răng trên, tâm ý hướng về Đan điền (dưới rún khoản 3 phân). Thực hành : Hai cánh tay, bàn tay và các ngón tay duỗi thẳng tự nhiên. Hai cánh tay hơi cong ở khuỷu tay. Đưa hai cánh tay về phía trước, đồng thời hít vào. Dùng lực vẩy hai cánh tay ra phía sau đến hết tầm tay trong khi nhíu hậu môn lại và thở ra. Khi hết tầm tay ra phía sau, hai cánh tay theo đà của lực quán tính trở về trước, buông lõng cơ hậu môn đồng thời với hít vào. Sau khi hít vào lại tiếp tục vẩy tay ra phía sau. Một lần hít vào, một lần thở ra là một cái lắc tay. Làm liên tục nhiều cái. Tối thiểu 500 cái một lần. Mỗi ngày có thể làm 2 lần. Nếu để chữa bệnh thì mỗi lần tập phải thực hành từ 1.500 cái trở lên. Chú ý: Động tác lắc tay phải bền bỉ, đều đặn, nhẹ nhàng, linh hoạt. Do đó không cần dùng sức mạnh để cố vẫy tay ra phía sau mà chỉ dùng sức bình thường tương ứng với nhịp thở điều hòa của cơ thể. Việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống đất cũng vậy. Chỉ cần dùng sức vừa phải để bảo đảm thoải mái về tâm lý, dẻo dai về thể lực để có thể thực hành đến hàng ngàn cái mỗi lần. Động tác đưa tay về trước là do phản lực quán tính từ phía sau. Tuyệt đối không dùng sức. Tầm tay phía trước không vượt quá thắt lưng. Trong suốt quá trình lắc tay, mặc dù cánh tay di động trước sau nhưng luôn luôn duy trì tình trạng thoải mái tự nhiên, cánh tay không gồng sức. Những người bệnh hoặc có tật ở chân không thể đứng được vẫn có thể thực hành hiệu quả PTLP bằng cách ngồi trên đất hoặc trên ván và vẫy tay ở vị thế cánh tay co lại khoảng 90 độ. Cơ chế tác dụng của PTLP: PTLP là một môn khí công mang tính chỉnh theå có tác dụng cải thiện toàn bộ công năng của cơ thể. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn vào từ bên ngoài, công pháp chỉ bao gồm những động tác lắc tay đơn giãn và đơn điệu dễ tạo cho người tập cảm giác nghi hoặc, thiếu niềm tin, nghĩ là động tác quá đơn giản, khó thể tạo ra những hiệu quả chữa bệnh thần kỳ được. Nhất là khi có tâm lý so sánh với những chiêu thức phức tạp hoặc đẹp mắt của Thái cực quyền hay của những môn công phu khác. Do đó, việc tìm hiểu kỹ cơ chế tác dụng của PTLP là điều cần thiết để có lòng tin làm đúng, làm đủ và kiên trì làm, không chỉ để chữa bệnh mà để tăng cường sức khỏe, diên niên ích thọ. PTLP xoa bóp nội tạng, tăng cường chuyển hóa Động tác hít thở phối hợp với lắc tay điều hòa và liên tục tác động vào các cơ ngực và thành bụng, nhất là cơ hoành, có tác dụng xoa bóp các nội tạng trong cơ thể, thúc đẩy sự vận hành khí huyết và tăng cường chức năng của các cơ quan. Chức năng xoa bóp này cũng có tác dụng, khai thông những bế tắc, ứ trệ trong kinh mạch hoặc trong tạng phủ. Những người tiêu hóa bị đình tích, ứ trệ, sau khi thực hành khoảng 500-700 cái sẽ xảy ra trung tiện hoặc ợ hơi, cảm giác dễ chịu sẽ thấy rất rõ. PTLP là phương pháp đơn giản nhất đễ chữa bệnh đau bao tử, hoặc rối loạn tiêu hóa. Những trường hợp khí nghẽn, khí bế, khí uất do tình chí, do bệnh biến hoặc do tập khí công sai lệch cũng có thể làm cho thông hành bằng PTLP. Có thể nói PTLP làm rất tốt chức năng thông kinh hoạt lạc và cải thiện tuần hoàn khí huyết. PTLP giúp Dương giáng, Âm thăng, thông Nhâm Đốc, tăng cường nội khí. Đối với y học truyền thống và khí công cổ đại, con người và vũ trụ đồng một thể. Con người là tiểu vũ trụ. Trời đất thuộc đại vũ trụ. Mối quan hệ giữa con người và trời đất thăng giáng, giao hòa thông qua hô hấp: "hô tiếp thiên căn, hấp tiếp địa khí". Hàng ngàn năm sau, hai nhà bác học người Pháp Jacqueline Chantereine và Camille Savoire cũng đã nghiên cứu, thí nghiệm và kết luận "vũ trụ lực nhập vào con người ở đầu và xuất ra nơi bàn chân phải, âm lực của quả đất nhập vào con người nơi chân trái để lên đến đỉnh đầu ở phía sau ót"*. Những động tác của PTLP tuy đơn giản nhưng đã trực tiếp phát huy quy luật này cho việc chữa bệnh và tăng cường nội khí. Ở phía trên, động tác hít thở và lắc tay đã kích hoạt huyệt Bách Hội ở đỉnh đầu và Đại Chùy ở giữa hai bả vai để thu thiên khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các đường kinh Dương. Bách hội và Đại chùy đều là những điểm giao hội của các đường kinh Dương và Mạch Đốc. Ở phía dưới, việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống mặt đất đã kích thích hai huyệt Trường Cường và Hội âm ở hai bên hậu môn và các tĩnh huyệt của các đường kinh âm, mà quan trọng nhất là Dũng Tuyền ở giữa lòng bàn chân, tĩnh huyệt của kinh Túc Thiếu âm Thận và Aån Bạch ở đầu ngoài móng ngón chân cái, tĩnh huyệt của kinh Túc Thái âm Tỳ. Động tác này có tác dụng hấp thu địa khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các âm kinh. Chú thích hình Bé sơ sinh Theo học thuyết kinh lạc, Dương phải thường giáng và âm phải thường thăng. Vì động tác lắc tay liên tục đến hàng ngàn cái nên khi các đường kinh Dương được khai thông và đi dần xuống (Dương giáng) cuối đường kinh ở các đầu ngón chân sẽ tự động kích hoạt những tĩnh huyệt của những kinh âm khiến các đường kinh này chạy ngược trở lên (âm thăng). Đối với các đường kinh âm cũng vậy, khi chạy đến cuối đường kinh ở phía trên, sẽ lại kích hoạt các đường kinh Dương đi trở xuống và cứ thế tiếp tục luân lưu tuần hoàn trong cơ thể. Đây chính là một biểu hiện của quy luật Cực Dương sinh Âm và Cực Âm sinh Dương. Việc nhập xuất, thăng giáng ở các huyệt vị và những đường kinh này những người luyện khí công có khí cảm tốt đều có thể thể nghiệm được. Đây có lẽ chính là con đường mà người xưa đã khám phá và từ đó xây dựng nên học thuyết kinh lạc. Trường Cường nằm trên mạch Đốc, là nơi phát xuất chơn Hỏa, tương ứng với luồng Hỏa xà Kundalini trong hệ thống khí công ấn độ. Hội Âm nằm trên mạch Nhâm, là điểm giao hội của các đường kinh âm và hai mạch Nhâm, Xung, là điểm thu âm khí quan trọng nhất trong khí công. Do đó mặc dù không vận khí nhưng PTLP đã tác động rất tích cực vào hai mạch Nhâm, Đốc. Y học truyền thống cho rằng mạch Đốc là chủ quản của các đường kinh Dương và mạch Nhâm là bể chứa của các đường kinh âm. Tất cả bệnh biến đều có biểu hiện trên hai đường kinh này. Nếu Nhâm, Đốc thông, trăm mạch đều thông. Vì vậy việc khai thông Nhâm, Đốc có ý nghĩa quan trọng cho việc chữa bệnh và dưỡng sinh. PTLP cân bằng âm Dương, thuận khí, giáng hư hỏa. Theo y học cổ truyền, khí Dương thường thừa mà khí âm thường thiếu. âm hư có thể do tiên thiên, do phòng lao quá độ hoặc do quá căng thẳng lo âu trong cuộc sống. Sự mất cân bằng âm Dương là đầu mối của nhiều bệnh tật khác nhau mà y học cổ truyền gọi chung là những chứng âm hư Hoả vượng như hay nóng sốt về chiều, mờ mắt, mắt đỏ, khô cổ, ù tai, đau lưng, hay lỡ miệng, hay ho, suyễn, viêm họng, viêm xoang mãn… Đối với những chứng này, PTLP ngoài việc kích thích các đường kinh âm để sinh âm, bồi bổ âm khí thì chính nơi tư thế của phương pháp nhằm bảo đảm nguyên tắc thượng hư hạ thực như thư giãn phần vai, cứng chắc phần hạ bộ, nhíu hận môn, bám các đầu ngón chân, … cũng là những biện pháp đối trị hữu hiệu với những chứng hư Hoaû. Nguyên tắc này đòi hỏi người tập luôn giữ cho phần trên của cơ thể được thư giãn về hình, hư linh về ý. Ngược lại, phần dưới phải đầy đặn, cứng chắc nhằm đưa trung tâm lực của cơ thể dồn xuống hạ tiêu. Điều này khí công gọi là khí trầm Đan Điền, đạo gia gọi là qui căn. Đối với y học cổ truyền, đó là thuận khí, giáng hư Hỏa hoặc dẫn Hỏa quy nguyên. PTLP điều hòa thần kinh giao cảm. Khoa học hiện đại đã cho biết trên 50% bệnh tật của con người là do những cảm xúc âm tính gây ra. Chính những tâm lý căng thẳng do tình chí uất ức hoặc nhịp sống quá nhanh lâu ngày dễ làm cho thần kinh chúng ta quá tải, suy nhược và rối loạn. Sự rối loạn này làm cơ thể mệt nhọc, ăn ngủ kém ngon, giảm sức đề kháng, dễ sinh bệnh tật hoặc làm trầm trọng thêm những chứng bệnh đã có. Đối với những trường hợp này, tập trung tư tưởng vào nhịp lắc tay sẽ làm người tập mất đi những cảm xúc khó chịu thường ngày. Đó là nguyên tắc dùng một niệm để chế vạn niệm. Theo học thuyết Paplop, khi ta gây hưng phấn ở một điểm và một vùng nhỏ thì những phần còn lại của vỏ não sẽ rơi vào ức chế, nghĩ ngơi. áp dụng những nguyên tắc này, tập trung vào việc lắc tay sẽ điều hòa được thần kinh giao cảm, phục hồi tính tự điều chỉnh, tự hoàn thiện vốn có của hệ thần kinh trung ương, thông qua cơ chế tương tác thần kinh & thể dịch & nội tạng để hồi phục sức khỏe. Tập PTLP có xảy ra phản ứng nguy hiểm gì không? Nói chung, PTLP là một môn khí công nên những phản ứng xảy ra và việc giải quyết nó sẽ tương tự như đối với những môn khí công khác. Tuy nhiên, độ an toàn của PTLP rất cao: PTLP nhằm kích thích, xúc tiến để cơ thể tự khai thông, tự chỉnh lý, không vận khí, không cưỡng cầu nên hiếm khi xảy ra sai lệch. Quá trình tập có thể xảy ra đau, tức, ngứa ngáy, co giật là do việc khai mở một số huyệt vị trên đường kinh hoặc công phá một tổ chức bệnh trước khi những chỗ bế tắc này đi đến chỗ bị thải trừ hết. Thông thường những phản ứng này sẽ tự chấm dứt sau một vài ngày. Không rơi vào nhập tĩnh nên khó xảy ra trường hợp bị ảo giác làm rối loạn tâm lý người tập. PTLP tác động kích thích đồng thời các huyệt Bách Hội, Hội Âm và Trường Cường. Do đó Bách Hội và Hội Âm tạo ra những van an toàn để trung hòa với chân Hỏa phát sinh từ Trường Cường, khó xảy ra trường hợp chênh lệch thái quá giữa âm và Dương gây nguy hiểm cho người tập. Tuân thủ nguyên tắc thượng hư hạ thực và tâm ý quán chiếu Đan Điền cũng là một cách an toàn để năng lượng của cơ thể không chạy lên đầu gây tổn thương bộ não, không xảy ra những chứng trạng mà người ta thường gọi là tẩu hỏa nhập ma. Trong cơ thể một người bình thường, hai mạch Nhâm, Đốc thường tách rời nhau. Ở người luyện khí công, vòm họng trên và hậu môn có khả năng trở thành những chiếc cầu nối hai mạch này lại nên được gọi là Thượng Thước Kiều và Hạ Thước Kiều. Việc đầu lưỡi chạm nướu răng trên và nhíu hậu môn vừa là một yêu cầu luyện công để tăng nội lực, vừa là một biện pháp an toàn do những động tác này nối liền hai mạch Nhâm, Đốc, tạo ra thế bình thông nhau giữa hai bể khí âm và Dương. Sự tương thông này giúp nội khí luân lưu tuần hòan thành vòng Tiểu châu thiên trong thân người, điều hòa giữa âm và Dương và thông qua hai đại mạch này tăng cường và điều hòa sinh lực giữa ngủ tạng, lục phủ CÁCH THAO TÁC TẬP CỤ THỂ - Hai cánh tay thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay về phía sau. - Bụng đưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng, đầu và miệng trong trạng thái bình thường. - Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp chân và cùi trỏ thẳng. - Hai mắt chọn một điểm đằng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào ngón chân bấm, đùi vững chắc, lỗ đít thót lại, miệng nhẩm đếm. - Dùng sức vẫy về phía sau, để hai tay trở lại phía trước theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức. - Vẫy tay từ 300-400 dần dần đến 1000–>2000- 3000 cái vẩy tay trong vòng 30 phút. - Phải quyết tâm tập đều dặn, vẩy tay sẽ tăng dần lên không miễn cưỡng, nhưng cũng không tùy tiện tập bừa bãi, như vậy khó có hiệu quả. Bắt đầu tập luyện cúng không lên dùng sức làm tổn thương đến các đầu ngón chân. Sau buổi tập nên vỗ về (mát xa) các đầu ngón chân, tay, mỗi ngón chín lần. Nếu bạn nôn nóng mong muốn khỏi bệnh ngay mà dùng quá sức, cũng không có hiệu quả như mong muốn. nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng bị phân tán, thì khí huyết loạn xạ, mà khong chú ý đến trên nhẹ, dưới nặng, thì càng khong co hiệu quả. Khi vẩy tay tới 600 cai trở lên, thường thường có trung tiện (đánh dắm),(đánh hơi), hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng bừng… đây là hiện tượng bình thường, có phản ứng là tốt, là đã có hiệu quả, đừng ngại, mà cứ tập tiếp. Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên, đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với (trên nhẹ dưới nặng). Đay là quy luật của sinh lý hợp với vũ trụ (thiên khinh địa võng). - Bệnh gan: Do khí huyết, tạng gan không tốt, gây nên khí không thoát, tích lũy, làm cho khó bài tiết. Đương nhiên nhiên là bệnh nan y ảnh hưởng tới tất cả mật và tì vị. Vẩy tay dịch cân kinh, Có thể giải quyết vấn đề này. Nếu sớm có trung tiện (đánh rắm) là có kết quả sớm. - Bệnh mắt: Luyện (Vẩy tay dịch cân kinh) có thể khỏi đau mắt đỏ, các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm trí chữa cả bệnh đục thủy tinh thể. NHỮNG PHẢN ỨNG Khi tập (Vẩy tay dịch cân kinh) có thể có những phản ứng , đều là hiện tượng thải bệnh, không đáng ngại. Xin liệt kê ra 34 phản ứng thông thường (có thể có những phản ứng khác nữa, không kể hết được). 1- Đau buốt 2- Lạnh 3- Đầy hơi 4- Ngứa 5- Tê dại 6- Nóng 7- Sưng 8- Ra mồ hôi 9- Lưng đau 10- Đầu nặng 11- Nấc 12- Nôn mửa, ho 13- Lông, tóc dựng đứng 14- Giật gân, giật thịt 15- Âm nang(bìu đái) to lên 16- Máy mắt, mí mắt giật 17- Hơi thở ra nhiều, thở dốc 18- Trung tiện (đánh rắm) 19- Huyết áp biến đổi 20- Sắc mặt biến đổi 21- Chẩy máu cam 22- Đau mỏi toàn thân 23- Ứa nước miếng 24- Tiểu tiện nhiều 25- Đại tiện ra máu, mù hoặc phân đen 26- Có cảm giác như kiến bò 27- Đau xương, có kêu lục cục 28- Có cảm giác máu chẩy dồn dập 29- Gót chân nhức nhối như mưng mủ 30- Cụm trắng ở lưỡi biến đổi 31- Da cứng, da dầy (Chai chân, mụn cóc) rụng đi 32- Trên đỉnh đầu mọc mụn 33- Bệnh từ trong da thịt tiết ra 34- Ngứa từng chỗ hay toàn thân Các phản ứng trên là do độc khí trong người bị bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ chất ngứa đọng, tức từ bệnh tật, Có phản ứng là có sự xung đột giữa chính khí và tà khí. Ta vẫn tiếp tục vẩy tay sẽ sản sinh ra chất bồi bổ, có nhiều ích lợi cho chính khí. Ta luyện tập đúng phép làm tăng mức đề kháng, thải cặn bã trong các gân, thần kinh và các tế bào khác, mà máu bình thường không thải nổi. khi luyện (Vẩy tay dịch cân kinh) khí huyết lưu thông mới thải nổi các cặn bã ra, nếu sinh ra phản ứng ta đừng sợ, cứ tiếp tục tập như bình thường, hết một phản ứng là hết một bệnh, tập luyện dần là đưa lại kết quả tốt. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN CHÚ Ý Số lần vẫy tay không nên ít: Từ 600 đến 1800 lần trong 30 phút, mới là toại nguyện cho việc điều trị. Bệnh nhân nặng, có thể ngồi vẩy tay, tuy ngồi nhưng phải nhớ thót đít và bấm 10 ngón chân Số buổi tập: - Buổi sáng thanh tâm – Tập mạnh - Buổi chiều trước khi ăn – Tập vừa - Buổi tối trước khi đi ngủ - Tâp nhẹ Có thể tập nhiều lần là bao nhiêu: Ngưỡng cửa của sự tập chuyển biến là 1800 lần vẫy tay, có bệnh nhân vẫy tối 3000-6000. Nếu sau khi tập vẫy ăn ngon, ngủ tốt đại tiện điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ con số thích hợp. Tốc độ vẩy tay: Theo nguyên tắc thì nên chậm, chứ không nên nhanh. Bình thường vẩy chậm thì 1800 lần hết 30 phút. Vẩy tay đên giữa chừng nhanh hơn luc ban đầu một chút, đây là lực đông của khí. Khi mới vẩy rộng vòng và chậm một chút. Khi đã thuần thì vẩy hẹp vòng, người bệnh nhẹ thì nên vẩy nhanh và dùng sức nhiều, người bệnh nặng thì vẩy chậm và hẹp vòng. Vẩy tay nhanh quá làm cho tin đập nhanh, mà vẩy chậm quá thì không đạt tới mục đích luyện tập là cần cho mạch máu lưu thông. Vẩy tay nên dùng sức nhiều hay ít, nặng hay nhẹ: Vẩy tay là môn thể dục chữa bệnh, chứ không phải là môn thể thao đặt biệt. Đây là môn thể dục mền dẻo hay (Có thể gọi là thể dục YOGA cũng được), đặc biệt là dùng ý mà không dùng sức. Nhưng nếu vẩy nhẹ quá cũng không tốt, bởi vì bắp vai không được lắc mạnh thì lưng và ngực cũng không được chuyển động nhiều, tác dụng sẽ giảm. Vẩy tay không phải chỉ chuyển động cánh tay mà phần chính vẫn là chuyển động bắc vai . Bệnh phong thấp thì nên dùng mức nặng một chút. Bệnh huyết áp cao thì nên vẫy tay chậm và nhẹ. Nói tóm lại, phần lớn phải tự mình nắm vững tình trạng, phân tích những triệu chứng, sau khi tập, nghe sự nhận xét của người xung quanh, thấy sự chuyển biến của mình, nhanh nhẹ hơn, tươi tỉnh hơn hay kém hơn trước, rồi tự mình suy nghĩ và quyết định cách tập, rồi luôn luôn tổng kết, trên nguyên tắc là tập thế nào cho người thấy thoải mái và dễ chịu hơn mà thấy là đúng thì cứ tập nhu thế. Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích cho cơ thể, động tác mạnh (nặng) là loại bỏ các chất cặn bã có hại trong người, tức là bệnh tật. Lý luận này cũng đang được nghiên cứu. Mức độ vẩy tay: Chỉ vẩy tay về phía sau dùng sức 7 phần không vẫy về phía trước, mà chỉ để tay rơi tự do theo phản xạ của cánh tay cho là 3 phần. Có cần đếm không: Đếm không phải chỉ để nhớ mà còn có tác dụng làm cho óc được thanh thản, tim được trầm tĩnh, chóng được bồi dưỡng,có tác dụng làm cho bộ não được nghỉ ngơi và thăng bằng, không nghĩ ngợi lung tung. Nơi tập: không có gì là đặc biệt về chỗ tập, tập ở đâu cũng được, trong nhà, ngoài trời, dĩ nhiên nơi có dưỡng khí trong sạchvà yên tĩnh vẫn tốt hơn. Trách nơi có gió lùa, mùa hè hay mùa đông đều tránh đứng đầu ngọn gió. Trước và sau khi tập: Trước khi tập nên đứng bình tĩnh cho tâm được thoải mái, yên tĩnh để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý, ta có thể làm đúng động tác nhẹ nhàng thoải mái, như trong môn khí công. Đến khi tập xong cũng nên bình tĩnh mà vê 10 đầu ngón tay, 10 đầu ngón chân. Những người không đủ bình tĩnh, cần đặc biệt chú ý đến điều này. Tập (Dịch cân kinh) thế nào cho đúng: Sau khi tập cảm thấy ngực và bụng nhẹ nhàng, dễ chịu, hơi thở điều hòa, mắt sáng, nước miệng ứa ra, đại tiện thuận, ăn ngon, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần, thì đấy là đúng. Rất ít khi tập sai, tỉ lệ tập sai không tới 1%. Sau khi tạp đại đa số đều thấy có phản ứng, nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau, nguyên nhân chính là tư thế khi tập có thích hợp với thể chất người tập hay không. a- Lúc bắt đầu tập nên cần chú ý đến điểm nào: - Nửa thân trên buông lỏng – Thương – hư - Nửa thân dưới giữ chắc – Hạ - thực - Tay ra phía trước – Không dùng lực (nhẹ) - Vẫy tay ra phía sau – có đùng sức (nặng) Tập đếm số lần vẫy tay ngày một tăng, ngày 3 buổi tập, kiên quyết tự chữa bệnh cho mình. b- Trạng thái tinh thần lúc tập: Có liên quan gì đến hiệu quả không, có ảnh hưởng rất lớn. -Hết lòng tin tưởng - Kiên quyết tới cùng - Tập đủ số nhất định, tập thường xuyên, có thể hiệu quả rất lớn. Nếu khi tập, khi nghỉ, tập không đủ số nhất định. Lòng còn nghi hoặc. còn bị động dư luận ngoài, thấy phản ứng đã lo sợ, bỏ tập. Hỏi làm gì có kết quả tốt. VẨY TAY CÓ SINH RA BỆNH GÌ KHÔNG Có thể bệnh do tư thế không đúng làm sai nguyên tắc, những trường hợp ấy hạn hữu, như trên nói, không tới 1%. Có phản ứng đừng ngại mà không tập, vi đó là diễn biến tốt, cứ tập số đếm như cũ, qua phản ứng, sẽ tăng số lần vẫy tay lên. Kiên trì, quyết tâm luyện tập, tin tưởng, các bệnh sẽ khỏi. Vững lập trường, không hoang mang vì dư luận, lạc quan với cuộc sống. chỉ cần niềm tin bằng hạt cải là có thể rời núi (nghĩ bóng là vững niềm tin mà tập luyện đến nơi đến chốn, thì bệnh nguy nan như trái cũng phải rời khỏi người). có quyết tâm là thực hiện ngay, càng để chậmlà ngần ngại càng khó khăn thêm, càng lâu khỏi bệnh Phất thủ và vẩy tay Cách gọi đích danh Đat Ma dịch cân kinh Thể dục chữa bệnh tăng cường sức khỏe Nguồn gốc Đạt Ma dịch cân kinh Và hiệu quả thần kì của nó Năm Đinh sửu (theo công lịch là năm 917) nhà sư Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Quốc thuyêt phát, truyền giáo rồi ở lại Trung Sơn, Hà Nam (của trung Hoa) xây dựng Thiếu Lâm Tự (chùa Thiếu Lâm Tự) Truyền tụng một tín ngưỡng mới, khác với liềm tin cũ của người bản xứ , từ đó môn Thiếu Lâm ra Đời và tồn tại mãi đến ngày nay. Nhiều người xin ra nhập môn nhưng thể lực kém không thể luyện võ được. Sư Tổ Đạt Ma bèn dạy cho một cách tập luyện để nâng cao thể lực gọi là Dịch Cân Kinh - Dịch (có nghĩa là): Thay đổi - Cân (có nghĩa là): Gân cốt - Kinh (có nghĩa là): Sách quí Cách tập đơn giản, chỉ cần kiên trì tập vẩy tay đúng phương pháp là sẽ hiệu quả rất lớn. (Ăn ngon - Ngủ tốt) sức khỏe tăng và đặt biệt là tiêu trừ được mọi bệnh như: Suy nhược thần kinh, Cao huyết áp, hen xuyễn, các bệnh tim mạch, dạ dầy, đường ruột, thận, gan, mật, trĩ nội… rồi bán thân bất toại, trúng gió méo mồm lệch mắt …đều biến hết. Nhất là đối với các loại bệnh mãn tính của người cao tuổi, kể cả các bệnh ung thư đều phòng và trị được. Với các bệnh về mắt, luyện vẩy tay Dịch Cân Kinh có thể chữa khỏi các chứng đau mắt thông thường, đau mắt đỏ và đục thủy tinh thể. Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh là làm cho khí huyết lưu thông đều khắp cơ thể, vào cả lục phủ, ngũ tạng, các hệ thần kinh,… nên có tác dụng kì diệu vậy đó. PHƯƠNG PHÁP LUYỆN TẬP (VẨY TAY ĐẠT MA DỊCH CÂN KINH) Môn thể dục này tăng cường sức khỏe, chữa bệnh, khai thông đốc mạch, ta có thể tập luyện bất cứ lúc nào trong ngày. TRƯỚC TIÊN NÓI VỀ THẦN KINH Phải có hào khí: nghĩ đến quyết tâm tập luyện, đều đặn, kiên nhẫn, vững vàng tin tưởng, không nghe lời bàn ra nói vào chán nản bỏ dở. Phải lạc quan: không sợ bệnh mà mọi người cho là hiểm nghèo, tươi tỉnh tin rằng mình sẽ thắng bệnh do luyện tập. TƯ THẾ (Trên không, dưới có, lên ba, xuống bẩy) Đứng thẳng ngực ưỡn, hai chân dạng ra song song với bả vai của mình. Co các đầu ngón chân lại, bấm xuống dưới, lưỡi co lại, đầu lưỡi chạm nhẹ lên hàm trên (để lối mạch nhâm đốc), miệng ngậm, răng kề răng, nhìn thẳng về phía trước, mắt nhắm, hoặc mở cũng được. Từ (ấn đường) tức điểm giữa hai đầu lông mày và tập trung lên đỉnh đầu (kết nối tuyến yên và tuyến tùng). ĐỘNG TÁC Hai cánh tay đưa ra phía trước song song với nhau, tạo thành góc 30 độ, Xòe tay ra,lòng bàn tay quay về phía sau, rồi từ từ đưa hai cánh tay song song về phía sau và ngửa bàn tay lên, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay trầm bàn tay quay lại phía sau xòe ra, như vẫy phía sau, bụng dưới thót, gót chân lỏng, bàn chân phải cứng bấm chặt như đứng trên đất trơn. Đây là những qui định khi tập luyện, (vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh). Dựa trên yêu cầu này, khi tập, vẫy tay, cơ hoành trở lên, phải giữ được trống không, buông lỏng thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc tập, xương cổ cầ buông lỏng để có cảm giác đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), hít thở bình thường. Khi vẩy tay cần nhớ (lên không, xuống có), nghĩa là do quán tính, không dùng sức đưa ra phía trước, (trên ba, dưới bẩy) là phần trên để lỏng chỉ độ ba phần khí lực, phần dưới lấy cố sức tới bẩy phần thế lực, vấn đề này phải quán triệt phải đầy đủ thì hiệu quả rất tốt. Mắt nhìn thẳng, đầu không nghĩ ngợi gì, chỉ nhẩm đếm lần vẩy tay. THỜI LƯỢNG Tập như vậy khoảng 15 đến 30 phút. Có thể nhiều hơn mỗi ngày. CÁCH THAO TÁC TẬP CỤ THỂ - Hai cánh tay thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay về phía sau. - Bụng đưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng, đầu và miệng trong trạng thái bình thường. - Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp chân và cùi trỏ thẳng. - Hai mắt chọn một điểm đằng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào ngón chân bấm, đùi vững chắc, lỗ đít thót lại, miệng nhẩm đếm. - Dùng sức vẫy về phía sau, để hai tay trở lại phía trước theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức. - Vẫy tay từ 300-400 dần dần đến 1000–2000- 3000 cái vẩy tay trong vòng 30 phút. - Phải quyết tâm tập đều dặn, vẩy tay sẽ tăng dần lên không miễn cưỡng, nhưng cũng không tùy tiện tập bừa bãi, như vậy khó có hiệu quả. Bắt đầu tập luyện cúng không lên dùng sức làm tổn thương đến các đầu ngón chân. Sau buổi tập nên vỗ về (mát xa) các đầu ngón chân, tay, mỗi ngón chín lần. Nếu bạn nôn nóng mong muốn khỏi bệnh ngay mà dùng quá sức, cũng không có hiệu quả như mong muốn. nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng bị phân tán, thì khí huyết loạn xạ, mà khong chú ý đến trên nhẹ, dưới nặng, thì càng khong co hiệu quả. Khi vẩy tay tới 600 cai trở lên, thường thường có trung tiện (đánh dắm),(đánh hơi), hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng bừng… đây là hiện tượng bình thường, có phản ứng là tốt, là đã có hiệu quả, đừng ngại, mà cứ tập tiếp. Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên, đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với (trên nhẹ dưới nặng). Đay là quy luật của sinh lý hợp với vũ trụ (thiên khinh địa võng). - Bệnh gan: Do khí huyết, tạng gan không tốt, gây nên khí không thoát, tích lũy, làm cho khó bài tiết. Đương nhiên nhiên là bệnh nan y ảnh hưởng tới tất cả mật và tì vị. Vẩy tay dịch cân kinh, Có thể giải quyết vấn đề này. Nếu sớm có trung tiện (đánh rắm) là có kết quả sớm. - Bệnh mắt: Luyện (Vẩy tay dịch cân kinh) có thể khỏi đau mắt đỏ, các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm trí chữa cả bệnh đục thủy tinh thể. NHỮNG PHẢN ỨNG Khi tập (Vẩy tay dịch cân kinh) có thể cs những phản ứng , đều là hiện tượng thải bệnh, không đáng ngại. Xin liệt kê ra 34 phản ứng thông thường (có thể có những phản ứng khác nữa, không kể hết được). 1- Đau buốt 2- Lạnh 3- Đầy hơi 4- Ngứa 5- Tê dại 6- Nóng 7- Sưng 8- Ra mồ hôi 9- Lưng đau 10- Đầu nặng 11- Nấc 12- Nôn mửa, ho 13- Lông, tóc dựng đứng 14- Giật gân, giật thịt 15- Âm nang(bìu đái) to lên 16- Máy mắt, mí mắt giật 17- Hơi thở ra nhiều, thở dốc 18- Trung tiện (đánh rắm) 19- Huyết áp biến đổi 20- Sắc mặt biến đổi 21- Chẩy máu cam 22- Đau mỏi toàn thân 23- Ứa nước miếng 24- Tiểu tiện nhiều 25- Đại tiện ra máu, mù hoặc phân đen 26- Có cảm giác như kiến bò 27- Đau xương, có kêu lục cục 28- Có cảm giác máu chẩy dồn dập 29- Gót chân nhức nhối như mưng mủ 30- Cụm trắng ở lưỡi biến đổi 31- Da cứng, da dầy (Chai chân, mụn cóc) rụng đi 32- Trên đỉnh đầu mọc mụn 33- Bệnh từ trong da thịt tiết ra 34- Ngứa từng chỗ hay toàn thân Các phản ứng trên là do độc khí trong người bị bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ chất ngứa đọng, tức từ bệnh tật, Có phản ứng là có sự xung đột giữa chính khí và tà khí. Ta vẫn tiếp tục vẩy tay sẽ sản sinh ra chất bồi bổ, có nhiều ích lợi cho chính khí. Ta luyện tập đúng phép làm tăng mức đề kháng, thải cặn bã trong các gân, thần kinh và các tế bào khác, mà máu bình thường không thải nổi. khi luyện (Vẩy tay dịch cân kinh) khí huyết lưu thông mới thải nổi các cặn bã ra, nếu sinh ra phản ứng ta đừng sợ, cứ tiếp tục tập như bình thường, hết một phản ứng là hết một bệnh, tập luyện dần là đưa lại kết quả tốt. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN CHÚ Ý Số lần vẫy tay không nên ít: Từ 600 đến 1800 lần trong 30 phút, mới là toại nguyện cho việc điều trị. Bệnh nhân nặng, có thể ngồi vẩy tay, tuy ngồi nhưng phải nhớ thót đít và bấm 10 ngón chân Số buổi tập: - Buổi sáng thanh tâm – Tập mạnh - Buổi chiều trước khi ăn – Tập vừa - Buổi tối trước khi đi ngủ - Tâp nhẹ Có thể tập nhiều lần là bao nhiêu: Ngưỡng cửa của sự tập chuyển biến là 1800 lần vẫy tay, có bệnh nhân vẫy tối 3000-6000. Nếu sau khi tập vẫy ăn ngon, ngủ tốt đại tiện điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ con số thích hợp. Tốc độ vẩy tay: Theo nguyên tắc thì nên chậm, chứ không nên nhanh. Bình thường vẩy chậm thì 1800 lần hết 30 phút. Vẩy tay đên giữa chừng nhanh hơn luc ban đầu một chút, đây là lực đông của khí. Khi mới vẩy rộng vòng và chậm một chút. Khi đã thuần thì vẩy hẹp vòng, người bệnh nhẹ thì nên vẩy nhanh và dùng sức nhiều, người bệnh nặng thì vẩy chậm và hẹp vòng. Vẩy tay nhanh quá làm cho tin đập nhanh, mà vẩy chậm quá thì không đạt tới mục đích luyện tập là cần cho mạch máu lưu thông. Vẩy tay nên dùng sức nhiều hay ít, nặng hay nhẹ: Vẩy tay là môn thể dục chữa bệnh, chứ không phải là môn thể thao đặt biệt. Đây là môn thể dục mền dẻo hay (Có thể gọi là thể dục YOGA cũng được), đặc biệt là dùng ý mà không dùng sức. Nhưng nếu vẩy nhẹ quá cũng không tốt, bởi vì bắp vai không được lắc mạnh thì lưng và ngực cũng không được chuyển động nhiều, tác dụng sẽ giảm. Vẩy tay không phải chỉ chuyển động cánh tay mà phần chính vẫn là chuyển động bắc vai . Bệnh phong thấp thì nên dùng mức nặng một chút. Bệnh huyết áp cao thì nên vẫy tay chậm và nhẹ. Nói tóm lại, phần lớn phải tự mình nắm vững tình trạng, phân tích những triệu chứng, sau khi tập, nghe sự nhận xét của người xung quanh, thấy sự chuyển biến của mình, nhanh nhẹ hơn, tươi tỉnh hơn hay kém hơn trước, rồi tự mình suy nghĩ và quyết định cách tập, rồi luôn luôn tổng kết, trên nguyên tắc là tập thế nào cho người thấy thoải mái và dễ chịu hơn mà thấy là đúng thì cứ tập nhu thế. Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích cho cơ thể, động tác mạnh (nặng) là loại bỏ các chất cặn bã có hại trong người, tức là bệnh tật. Lý luận này cũng đang được nghiên cứu. Mức độ vẩy tay: Chỉ vẩy tay về phía sau dùng sức 7 phần không vẫy về phía trước, mà chỉ để tay rơi tự do theo phản xạ của cánh tay cho là 3 phần. Có cần đếm không: Đếm không phải chỉ để nhớ mà còn có tác dụng làm cho óc được thanh thản, tim được trầm tĩnh, chíng được bồi dưỡng,có tác dụng làm cho bộ não được nghỉ ngơi và thăng bằng, không nghĩ ngợi lung tung. Nơi tập: không có gì là đặc biệt về chỗ tập, tập ở đâu cũng được, trong nhà, ngoài trời, dĩ nhiên nơi có dưỡng khí trong sạchvà yên tĩnh vẫn tốt hơn. Trách nơi có gió lùa, mùa hè hay mùa đông đều tránh đứng đầu ngọn gió. Trước và sau khi tập: Trước khi tập nên đứng bình tĩnh cho tâm được thoải mái, yên tĩnh để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý, ta có thể làm đúng động tác nhẹ nhàng thoải mái, như trong môn khí công. Đến khi tập xong cũng nên bình tĩnh mà vê 10 đầu ngón tay, 10 đầu ngón chân. Những người không đủ bình tĩnh, cần đặc biệt chú ý đến điều này. Tập (Dịch cân kinh) thế nào cho đúng: Sau khi tập cảm thấy ngực và bụng nhẹ nhàng, dễ chịu, hơi thở điều hòa, mắt sáng, nước miệng ứa ra, đậi tiện thuận, ăn ngon, tinh thần tỉnh táo, bênh jtật bớt dần, thì đấy là đúng. Rất ít khi tập sai, tỉ lệ tập sai không tới1%. Sau khi tạp đại đa số đều thấy có phản ứng, nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau, nguyên nhân chính là tư thế khi tập có thích hợp với thể chất người tập hay không. a- Lúc bắt đầu tập nên cần chú ý đến điểm nào: - Nửa thân trên buông lỏng – Thương – hư - Nửa thân dưới giữ chắc – Hạ - thực - Tay ra phía trước – Không dùng lực (nhẹ) - Vẫy tay ra phía sau – có đùng sức (nặng) Tập đếm số lần vẫy tayngày một tăng, ngày 3 buổi tập, kiên quyết tự chữa bệnh cho mình. b- Trạng thái tinh thần lúc tập: Có liên quan gì đến hiệu quả không, có ảnh hưởng rất lớn. -Hết lòng tin tưởng - Kiên quyết tới cùng - Tập đủ số nhất định, tập thường xuyên, có thể hiệu quả rất lớn. Nếu khi tập, khi nghỉ, tập không đủ số nhất định. Lòng còn nghi hoặc. còn bị động dư luận ngoài, thấy phản ứng đã lo sợ, bỏ tập. Hỏi làm gì có kết quả tốt. VẨY TAY CÓ SINH RA BỆNH GÌ KHÔNG Có thể bệnh do tư thế không đúng làm sai nguyên tắc, những trường hợp ấy hạn hữu, như trên nói, không tới 1%. Có phản ứng đừng ngại mà không tập, vi đó là diễn biến tốt, cứ tập số đếm như cũ, qua phản ứng, sẽ tăng số lần vẫy tay lên. Kiên trì, quyết tâm luyện tập, tin tưởng, các bệnh sẽ khỏi. Vững lập trường, không hoang mang vì dư luận, lạc quan với cuộc sống. chỉ cần niềm tin bằng hạt cải là có thể rời núi (nghĩ bóng là vững niềm tin mà tập luyện đến nơi đến chốn, thì bệnh nguy nan như trái cũng phải rời khỏi người). có quyết tâm là thực hiện ngay, càng để chậmlà ngần ngại càng khó khăn thêm, càng lâu khỏi bệnh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhât thủ liệu pháp.doc
Tài liệu liên quan