While exploring question utterances (using a question mark at the end of a sentence) in the Tale of
Kieu, we saw that the author (narrator) and characters have created many question utterances, but
only a few the question utterances are for questioning purposes, the majority is for other purposes.
Specifically, making questions to confirm, to negate, to exhort, to persuade, to request, to swear,
., to express concern, speculation, suspicion, to promise and to make commitments, to show
emotions. The indirect language acts that are expressed through question utterances contribute to
reveal the author’s attitudes and feelings and characters’ qualities and characteristics, thereby also
confirm Nguyen Du’s heart and talent.
7 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 497 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát ngôn hỏi trong Truyện Kiều với việc biểu thị các hành động ngôn ngữ gián tiếp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dương Thị Thuý Vinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 185 - 191
185
PHÁT NGÔN HỎI TRONG TRUYỆN KIỀU VỚI VIỆC BIỂU THỊ
CÁC HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ GIÁN TIẾP
Dương Thị Thúy Vinh
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Khi tìm hiểu các phát ngôn hỏi (có sử dụng dấu hỏi ở cuối câu) trong Truyện Kiều, chúng tôi thấy
rằng: tác giả (người dẫn truyện) và các nhân vật đã tạo ra nhiều phát ngôn hỏi nhưng chỉ có một số
ít phát ngôn là nhằm mục đích hỏi, còn lại phần lớn đều nhằm những mục đích khác. Cụ thể như
hỏi để khẳng định, phủ định; để khuyên nhủ, thuyết phục, thỉnh cầu, thề nguyền,...; để thể hiện sự
băn khoăn, phỏng đoán, ngờ vực; để hứa hẹn, cam kết; để bộc lộ cảm xúc. Những hành động ngôn
ngữ gián tiếp được biểu thị qua phát ngôn hỏi đã góp phần bộc lộ thái độ, tình cảm của tác giả và
tính cách, phẩm chất của các nhân vật, qua đó khẳng định tấm lòng và tài năng của Nguyễn Du.
Từ khóa: ngôn ngữ, phát ngôn hỏi, hành động ngôn ngữ gián tiếp, Truyện Kiều, Nguyễn Du.
1.a. Như chúng ta đã biết, hành động ngôn
ngữ (hay hành vi ngôn ngữ, hành động nói,
hành động ngôn từ) là một loại hành động của
con người và được người nói hay người viết
thực hiện bằng ngôn ngữ khi phát ra một lời
nói, một câu văn. Các hành động ngôn ngữ
thường được phân biệt theo một số loại khác
nhau. Nhà ngôn ngữ học J.R. Searle đã phân
biệt thành năm nhóm lớn: trình bày, điều khiển,
cam kết, biểu cảm và tuyên bố (x. 2, tr.238-259).*
Mặt khác, theo cách thức thực hiện, các hành
động ngôn ngữ (HĐNN) còn được các nhà
ngôn ngữ học phân biệt thành HĐNN trực
tiếp và HĐNN gián tiếp. Trong HĐNN trực
tiếp có sự thống nhất giữa hình thức và chức
năng còn ở HĐNN gián tiếp thì không có sự
thống nhất như vậy mà đó là cách dùng hình
thức của HĐNN này để thực hiện chức năng
của HĐNN khác.
1.b. Về đơn vị câu, người ta có thể nghiên cứu
trên nhiều phương diện. Và ở phương diện sử
dụng, mỗi câu cụ thể gắn với hoàn cảnh giao
tiếp, mục đích giao tiếp,... được gọi là phát
ngôn (PN). Nói cách khác, phát ngôn chính là
câu trong hoạt động giao tiếp (x. 5, tr.111). Vì
thế, muốn tìm hiểu câu ở phương diện sử
dụng thì phải nắm được phương diện cấu tạo
ngữ pháp của câu. Ở đây, nếu xét về phương
diện cấu tạo ngữ pháp thì một PN hỏi là một
câu hỏi (câu nghi vấn). Câu nghi vấn “nêu điều
người nói chưa biết hoặc còn hoài nghi và mong
*
Tel: 0942383818; Email: duongvinhsptn@gmail.com
muốn được người nghe trả lời, cung cấp thông
tin vào điểm còn chưa biết, chưa rõ“ và nó
được nhận diện bằng “những từ ngữ chuyên
dụng và/ hoặc ngữ điệu nghi vấn. Ngữ điệu
nghi vấn được đánh dấu bằng dấu hỏi (?) ở
cuối câu” (x.5, tr.215) (chúng tôi nhấn mạnh
từ “hoặc”). Như vậy, theo quan điểm của tác
giả Bùi Minh Toán, về mặt hình thức, một
câu nghi vấn có thể có hoặc không có dấu hỏi
ở cuối câu. Tuy nhiên, trong thực tế sử dụng,
một PN hỏi không phải lúc nào cũng đạt được
mục đích vốn có của nó.
1.c. Truyện Kiều từ lâu đã được biết đến với tư
cách là một kiệt tác của văn học Việt Nam.
Các giá trị về nội dung và nghệ thuật của
Truyện Kiều đã được rất nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm khai thác. Trong bài viết này, chúng
tôi muốn nhìn lại tác phẩm dưới ánh sáng của
lý thuyết HĐNN, tức là coi Truyện Kiều như
một sản phẩm của hoạt động giao tiếp và mỗi
câu nghi vấn trong tác phẩm là một PN được
tác giả hoặc các nhân vật nói ra nhằm thực
hiện một/ một vài HĐNN cụ thể. Dưới đây,
chúng tôi chỉ tìm hiểu những PN hỏi có dấu
hỏi (?) ở cuối câu. Còn những PN hỏi có từ để
hỏi nhưng không có dấu hỏi, chúng tôi sẽ đề
cập đến ở một bài viết khác. Tất cả những
nhận định, đánh giá, nhận xét của chúng tôi
đều dựa trên những tư liệu thu được từ tác
phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, theo bản
khảo đính của Đào Duy Anh (1974) trong Từ
điển Truyện Kiều, Nxb KH, Hà Nội.
190Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Dương Thị Thuý Vinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 185 - 191
186
Vậy, ngoài đích để hỏi, một PN hỏi còn có thể
đạt được những mục đích nào khác? Và việc
sử dụng các HĐNN gián tiếp qua PN hỏi có
vai gì? Đó là những câu hỏi mà người viết
muốn tìm ra câu trả lời qua việc nghiên cứu
các PN hỏi trong Truyện Kiều.
2. Căn cứ vào dấu hiệu hình thức của câu, có
thể chia 3254 câu thơ Truyện Kiều thành 1713
PN, trong đó có 159 PN hỏi sử dụng dấu hỏi
ở cuối câu. Theo kết quả khảo sát, trong 159
PN chỉ có 28 PN dùng để hỏi. Hay nói cách
khác, chỉ có 28 PN hỏi thực hiện hành động
hỏi trực tiếp còn 131 PN hỏi thực hiện các
HĐNN gián tiếp.
2.a. Trước hết, có thể chia PN hỏi theo chức
năng hay mục đích của hành động. Cụ thể, các
PN hỏi có thể dùng để biểu thị các hành động
khẳng định, phủ định, cầu khiến, cảm thán và
phỏng đoán - ngờ vực (x.4, Tr.391-412). Dấu
hiệu để nhận diện và phân biệt các HĐNN
gián tiếp qua PN hỏi chủ yếu dựa vào hoàn
cảnh nảy sinh phát ngôn và một số từ/ cụm từ/
cấu trúc đặc trưng.
Đối với các PN hỏi để khẳng định, có thể nhận
diện bằng các từ ngữ như: chớ sao/ còn sao/
hay sao; ai + vị ngữ + cho; Đề ngữ + chủ ngữ
+ gì là hơn; Động từ + đâu chẳng + động từ +
danh từ; có + động từ + đâu; động từ + chi;
nỗi nào; chứ ai; chẳng (là/ phải/nhe/sao); nào
+ động từ + vay; há dám; thiếu gì; vì/ tại ai;
phải chăng;
PN hỏi để phủ định thường có dấu hiệu là các
từ ngữ như: biết đâu; ai + động từ + ai/hay;
nào; (mà) chi; đâu; ai bằng/hay; động từ + gì;
còn; nào có + đâu; động từ + đâu; được sao;
nào + động từ + không; (được/mãi) chăng;
Các PN hỏi để cầu khiến thường thông qua
đích phủ định hoặc cảm thán. Chúng có thể
nhận diện bằng các từ ngữ: bởi ai, bỏ sao, so
chi, sao, hay gì, ai + vị ngữ + cho qua/cho
đây; nào + vị ngữ + đây;
PN hỏi để cảm thán thường có dấu hiệu là các
từ ngữ: ai; bao giờ; gì; nào biết; hay gì; mấy;
làm chi; làm sao; chi; khéo;
PN hỏi để phỏng đoán có thể nhận diện bằng
một số từ ngữ như: biết là có + động từ; có;
đâu + nào; chăng là; thế nào; biết/chớ sao;
cho chăng; biết/ra/vào đâu; ai; chắc; hay
không; làm sao; biết có + danh từ +
thôi/đâu/không; đã + động từ + chưa;
Như vậy, với những dấu hiệu nhận diện nêu
trên, chúng tôi thống kê được các HĐNN gián
tiếp qua PN hỏi như bảng 1.
Trong đó các PN hỏi để khẳng định, phủ định
chiếm tỉ lệ nhiều nhất và chiếm tỉ lệ ít nhất là
PN hỏi để cầu khiến.
Lý giải cho điều này, chúng ta thấy một trong
những nét văn hóa của người Việt là lối giao
tiếp trọng tình cảm, trọng sự hòa thuận, ưa sự
tế nhị, ý tứ, hay “vòng vo” khi giao tiếp.
Nguyễn Du đã đưa nét văn hóa này vào trong
lời nói của người dẫn truyện, của các nhân vật
làm cho mỗi PN có chiều sâu, có nhiều lớp
nghĩa hàm ẩn để người nghe tiếp nhận một
cách nhẹ nhàng, không bị khiên cưỡng, gò ép,
áp đặt. Vì thế, trong 159 PN hỏi, chỉ có 28 PN
là dùng để hỏi (chiếm 17,6 %), còn lại là 131
PN (chiếm 82,4 %) được dùng gián tiếp.
Bảng 1: Các HĐNN gián tiếp qua PH hỏi
HĐNN
gián tiếp
qua PN hỏi
Khẳng định Phủ định Cầu khiến Cảm thán Băn khoăn - Phỏng đoán
Số lượng
(131)
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
34 26 36 27,5 9 6,9 26 19,8 26 19,8
191Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Dương Thị Thuý Vinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 185 - 191
187
Khi giao tiếp, thông thường đã là người Việt
Nam thì không ai đưa ra câu trả lời cho những
câu hỏi kiểu như “Đi đâu chẳng biết con
người Sở Khanh?” (1158) hay câu “Mặt nào
trông thấy nhau đây?” (2531) bởi lẽ đích
khẳng định hay phủ định có thể nhận diện qua
câu chữ mà không cần dựa nhiều vào hoàn
cảnh giao tiếp. Nhưng khi muốn khuyên bảo,
thuyết phục, yêu cầu,... thì chúng ta hay dùng
những động từ ngôn hành (x.6, Tr.225) để
tăng hiệu quả cầu khiến và nhanh đạt được
đích cầu khiến. Nếu “vòng vo”, nói ẩn ý quá
thì có thể người nghe sẽ không hiểu hoặc
chậm hiểu và sẽ dẫn tới việc người nói không
đạt hoặc khó đạt đích cầu khiến. Có lẽ vì thế
mà trong Truyện Kiều, những PN hỏi có đích
cầu khiến không nhiều. Chúng chủ yếu được
dùng với đích cầu khiến rất nhẹ nhàng như
khuyên nhủ, thuyết phục, nhắc nhở, từ chối,
thỉnh cầu, thề nguyền. Việc sử dụng PN hỏi
để nêu lên sự băn khoăn - phỏng đoán hay để
bộc lộ cảm xúc cũng có hiệu quả nhất định
trong quá trình giao tiếp như thể hiện sự đấu
tranh, giằng xé trong nội tâm hay thể hiện một
phần tâm trạng, cảm xúc. Vì thế, chúng cũng
được đưa vào khá nhiều trong tác phẩm.
Khi thực hiện chức năng biểu cảm, các PN
hỏi có khả năng bộc lộ nhiều khía cạnh, sắc
thái cảm xúc trong lòng nhân vật như sự ngạc
nhiên, vui mừng, phấn khởi; sự khen ngợi; sự
mỉa mai, châm biếm, đay nghiến; sự lo lắng,
sợ hãi, chán ngán, tuyệt vọng; sự than trách,
tiếc thương; sự cảm thông, sự tức giận,...
Sau đây, chúng tôi sẽ xem xét một số ví dụ cụ
thể để minh họa cho các HĐNN mà PN hỏi
thể hiện.
Ví dụ 1: Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?
(601- 602) [1, 472]
Khi gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan, tác
giả đã đặt câu hỏi trên. PN này của tác giả
không cần câu trả lời vì trong thực tế, ai cũng
biết câu trả lời phù hợp với đạo lý là “bên hiếu
nặng hơn”. Và chính tác giả đã thêm một lần
nữa khẳng định ở phát ngôn sau: “Làm con
trước phải đền ơn sinh thành” (604) [1, 472]
Ví dụ 2: Một đoàn đổ đến trước sau,
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời?
(1131-1132) [1, 489]
Đây là một PN hỏi gián tiếp để phủ định vì nó
đã vi phạm 3 điều kiện sử dụng:
- Điều kiện chuẩn bị: Tác giả biết chắc chắn
Thúy Kiều một thân một mình, không thể
thoát được nên không cần phải hỏi ai.
- Điều kiện chân thành: Câu hỏi của tác giả
không phải là câu hỏi chân thành vì đưa ra
câu hỏi nhưng không cần ai đó phải cung cấp
thông tin.
- Hiệu quả ở lời: Bộc lộ rõ ý phủ định của tác
giả: Khi bỏ trốn, bị Tú Bà đuổi theo, Thúy
Kiều không còn lối nào để trốn thoát.
Ví dụ 3: Sao bằng lộc trọng quyền cao,
Công danh ai dứt lối nào cho qua?
(2497-2498) [1, 533]
Hồ Tôn Hiến dùng mưu kế “lễ nhiều nói
ngọt” để Thúy Kiều khuyên chồng ra hàng,
hưởng bổng lộc, sống vinh hoa phú quý. Với
việc dùng đại từ phiếm chỉ “ai” khi nêu lên
câu hỏi, Thúy Kiều không cần câu trả lời của
Từ Hải bởi câu trả lời đã quá rõ. Đây chính là
lời nói “mặn mà” để thuyết phục Từ Hải quy
phục triều đình và Thúy Kiều đã thành công.
Ví dụ 4 : Thoắt trông lờn lợt màu da,
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao? (923-924)
[1, 483]
Đây là câu thơ Nguyễn Du miêu tả Tú Bà -
chủ lầu xanh. Trong hoàn cảnh phát ngôn
trên, tác giả đã dùng từ “gì” kết hợp với “làm
sao” để nêu lên sự “bất thường” ở thân hình
“to lớn đẫy đà” của mụ Tú - sản phẩm của sự
ăn uống chắc hẳn cũng rất “bất thường”. Đây
không phải là một hành động hỏi chân thành
mà ẩn sau đó là sự mỉa mai, châm biếm về
ngoại hình, bản chất, về việc “buôn phấn bán
hương” của Tú Bà.
Ví dụ 5: Bây giờ đất thấp trời cao,
Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?
(1817-1818) [1, 511]
Trong tình cảnh gặp gỡ hết sức trớ trêu giữa
Thúc Sinh và Thúy Kiều ở nhà Hoạn Thư,
Thúy Kiều bộc lộ nỗi lo lắng, băn khoăn khi
biết mình đang ở trong nhà của Thúc Sinh mà
lại với thân phận “con hầu” qua 2 từ làm sao.
Kiều không biết sẽ phải cư xử thế nào với
người mà mình đã từng gọi là chồng.
192Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Dương Thị Thuý Vinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 185 - 191
188
2.b. Nếu chia phát ngôn hỏi theo chủ thể phát ngôn, chúng ta có kết quả như sau:
Bảng 2: Phân loại phát ngôn theo chủ thể phát ngôn
STT
HĐNN gián tiếp
qua PN hỏi
Số lượng
PN hỏi (131)
Khẳng định Phủ định Cầu khiến Cảm thán Phỏng đoán
Số
lượng
(34)
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
(36)
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
(9)
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
(26)
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
(26)
Tỉ lệ
(%) Tác giả/
Nhân vật
Tổng số
PN
1 Tác giả 24 6 17.64 5 13.9 0 0 11 42.35 2 7.7
2 Thúy Kiều 56 14 41.2 17 47.2 3 33.33 4 15.3 18 69.2
3 Kim Trọng 18 3 8.82 6 16.68 1 11,11 5 19.25 3 11.55
4 Thúc Sinh 7 3 8.82 1 2.78 0 0 2 7.7 1 3.85
5 Từ Hải 5 0 0 4 11.12 1 11.11 0 0 0 0
6 Vương Ông 4 2 5.88 0 0 2 22.22 0 0 0 0
7 Sở Khanh 4 1 2.94 0 0 0 0 2 7.7 1 3.85
8 Hoạn Thư 3 2 5.88 0 0 0 0 1 3.85 0 0
9 Tú Bà 2 0 0 1 2.78 1 11.11 0 0 0 0
10 Thúy Vân 1 1 2.94 0 0 0 0 0 0 0 0
11 Đạm Tiên 1 0 0 0 0 1 11.11 0 0 0 0
12 Bố mẹ Thúy
Kiều 1 0 0 0 0 0 0 1 3.85 0 0
13 Mã Kiều 1 1 2.94 0 0 0 0 0 0 0 0
14 Giác Duyên 1 0 0 1 2.78 0 0 0 0 0 0
15 Tam hợp
đạo cô 1 0 0 1 2.78 0 0 0 0 0 0
16 Mã Giám
Sinh 1 1 2.94 0 0 0 0 0 0 0 0
17 Hồ Tôn
Hiến 1 0 0 0 0 0 0 0 0 1 3.85
Qua bảng thống kê trên, có thể thấy việc sử
dụng phát ngôn hỏi để biểu thị các hành động
ngôn ngữ gián tiếp chủ yếu tập trung vào lời
của người dẫn truyện (24 PN), lời của một số
nhân vật chính diện như Thúy Kiều (56 PN),
Kim Trọng (18 PN), Từ Hải (5 PN), Thúc
Sinh (7 PN). Trong khi đó, một số nhân vật
phản diện chỉ có từ 1 đến 2 PN, cá biệt có Sở
Khanh là 4 PN. Vậy, tại sao lại có sự khác
biệt này? Ở đây, Thúy Kiều hay Kim Trọng
đều là những “nam thanh, nữ tú”, được học
hành, có giáo dục và đều là con cái của những
gia đình nề nếp, có điều kiện (ít nhất là
“thường thường bậc trung” như nhà Thúy
Kiều). Cách ăn nói của họ luôn nhẹ nhàng, tế
nhị, sâu sắc, vì thế rất phù hợp với cách dùng
gián tiếp các PN hỏi. Ngược lại, những nhân
vật phản diện như Mã Giám Sinh, Tú Bà chỉ
có thể phù hợp với cách nói rõ ràng, cụ thể,
thậm chí là có phần thô thiển và sẽ hạn chế
dùng các PN hỏi với mục đích khác.
Riêng Sở Khanh, tuy là nhân vật phản diện
nhưng Nguyễn Du lại đặt 4 PN “tình cảm
ngọt ngào” vào lời của y. Điều này hẳn phải
có dụng ý nhất định. Những PN đó rất phù
hợp với diện mạo “Hình dung chải chuốt, áo
khăn dịu dàng” của Sở Khanh và đều được
dùng để bộc lộ tình cảm, cảm xúc. Nhưng
những cảm xúc đó không phải của Sở Khanh
mà là của người mà y đóng vai. Đầu tiên, y tỏ
nỗi tiếc thương, cảm thông cho thân phận
hẩm hiu, bất hạnh của người đẹp:
Than ôi sắc nước hương trời
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
(1065-1066) [1, 487]
193Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Dương Thị Thuý Vinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 185 - 191
189
Đồng thời, y cũng biểu lộ sự dằn vặt, đau
khổ, tỏ rõ nỗi trách oán với sự khe khắt trong
xếp đặt của ông trời và thậm chí tức giận khi
chưa thổ lộ được cho người khác biết tâm
trạng đau xót, cảm xúc tiếc thương của mình:
Sốt gan riêng giận trời già
Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng?
(1069-1070) [1, 487]
Mới nghe qua thì ta có thể rất xúc động, cảm
kích trước tấm lòng của người “tháo cũi sổ
lồng” nhưng nếu nghe kỹ thì chúng ta có thể
thấy sự giả tạo, huênh hoang bởi cách cứu vớt
cuộc đời Kiều của y rất tầm thường, ám muội:
Thừa cơ lẻn bước ra đi (1109) [1, 488]
Nhưng y vẫn khẳng định, dù dưới dạng của
một phát ngôn hỏi, rằng đó là mưu kế tối ưu,
không gì hơn được:
Ba mươi sáu chước chước gì là hơn? (1110)
[1, 488]
Lời y nói không sai nhưng chính câu nói đó
đã khiến Kiều sinh nghi bởi nếu y đúng là
người “Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi!”
(1104) thì hành động hẳn phải quang minh,
chính đại hơn thế. Và thực tế đã chứng minh
cảm nhận của Kiều là đúng. Kiều đã bị chính
lời lẽ ngọt ngào của Sở Khanh đánh lừa và
mắc mưu Tú Bà. Đó cũng là cái đích mà Tú
Bà và Sở Khanh muốn đạt được. Rõ ràng Sở
Khanh không phải “tay vừa”. Hắn cũng “giỏi
giang” lắm chứ. Nếu không giỏi sao “lừa”
được người “thông minh vốn sẵn tư trời” như
Thúy Kiều? Có nhìn nhận như vậy mới thấy
được dụng ý của tác giả khi dùng những PN
hỏi gián tiếp đặt vào lời Sở Khanh.
3. Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các PN
hỏi trong Truyện Kiều lại được dùng để thực
hiện các HĐNN khác. Sự góp mặt của những
PN này đóng vai trò quan trọng trong việc thể
hiện các giá trị nội dung của tác phẩm.
3.a. Trước hết, chúng góp phần thể hiện thái
độ của tác giả với các nhân vật và bộc lộ quan
điểm, cách đánh giá, nhìn nhận của tác giả về
cuộc sống, về xã hội đương thời.
Với tư cách là người dẫn truyện, trong số 131
PN hỏi được dùng gián tiếp thì có 24 PN là
của tác giả. Trong đó có 11 PN (chiếm gần
50% tổng số PN của tác giả) là để bộc lộ cảm
xúc. Những PN này không chỉ góp phần xây
dựng hình tượng nhân vật nữ chính mà còn
bộc lộ thái độ đồng cảm, xót xa và những suy
tư, trăn trở cho số phận bèo nổi của Kiều.
Ngoài ra, với 11 PN hỏi để khẳng định, phủ
định, người đọc có thể thấy được những
chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về cuộc
sống như:
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ?
(1244) [1, 493]
hay cách hành xử khi sống trong xã hội
đương thời:
Áo xiêm buộc trói lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
(2467 – 2468) [1, 532]
3.b. Không chỉ vậy, những PN hỏi được dùng
gián tiếp còn là một trong những phương tiện
quan trọng giúp người đọc hiểu rõ được về
tính cách, thái độ, tình cảm của các nhân vật.
Cụ thể, để làm nổi bật thế giới nội tâm vô
cùng phức tạp của Thúy Kiều, tác giả đã sử
dụng nhiều PN hỏi trong ngôn ngữ độc thoại,
đối thoại của nhân vật.
Kết quả khảo sát cho thấy: Thúy Kiều là nhân
vật sử dụng gián tiếp PN hỏi nhiều nhất trong
tác phẩm. Trong 131 PN hỏi được dùng gián
tiếp, có 61 PN hỏi của Thúy Kiều nhằm
hướng tới những mục đích khác nhau như:
khẳng định, phủ định, kết tội, khuyên nhủ,
thuyết phục, bộc lộ tình cảm, cảm xúc cũng
như tâm trạng băn khoăn, lo lắng, buồn thảm,
đau đớn, xót xa, uất hận
Bằng những PN hỏi thể hiện mục đích khác
nhau từ chính nhân vật, Nguyễn Du đã thành
công trong việc miêu tả tính cách của Thúy
Kiều. Đó là một nhân vật rất sâu sắc, biết nghĩ
194Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Dương Thị Thuý Vinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 185 - 191
190
trước nghĩ sau, luôn tôn trọng người giao tiếp
cùng nên mỗi lời nói của nhân vật luôn nhẹ
nhàng, tinh tế, đầy hàm ý.
Kim Trọng cũng là nhân vật mà Nguyễn Du
dành nhiều tình cảm để xây dựng. Đây là một
nhân vật chính diện có tính cách hào hoa, nho
nhã, là người có tâm hồn lãng mạn và giàu
tình cảm. Trong 131 PN hỏi có 15 PN của
Kim Trọng. Trong đó, tiêu biểu nhất là hai
kiểu hành động: hỏi để bày tỏ tình yêu và hỏi
để bộc lộ thái độ thương cảm, xót xa. Ngoài
ra, còn có cách dùng PN hỏi để khuyên nhủ,
thuyết phục Thúy Kiều.
Qua việc sử dụng những PN hỏi, Nguyễn Du
đã xây dựng Kim Trọng trở thành một mẫu
người lí tưởng trong lòng người đọc bởi sự
thủy chung trong tình yêu, bởi sự nhã nhặn,
khiêm tốn và tấm lòng bao dung, độ lượng:
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
(3119 – 3120) [1, 552]
Ngoài hai nhân vật trên, các nhân vật khác
cũng đã để lại được dấu ấn trong lòng người
đọc một phần nhờ vào việc sử dụng PN hỏi
thật tài tình, “đắc địa” của Nguyễn Du.
Làm sao có thể quên anh chàng Thúc “quen
thói bốc rời” với những lời khẳng định, hứa
hẹn “suông” (Lòng đây lòng đấy chưa từng
hay sao? - 1362) hay nàng Hoạn Thư “sâu sắc
nước đời” với cái cười đầy toan tính (Lo gì
việc ấy mà lo, Kiến trong miệng chén lại bò đi
đâu? 1547 – 1548)?...
4. Như vậy, qua việc tìm hiểu các PN hỏi có
dấu hỏi cuối câu trong Truyện Kiều, chúng tôi
đưa ra những kết luận sau:
4.a. Số lượng PN hỏi có dấu hỏi cuối câu
trong Truyện Kiều là khá nhiều (159 PN),
trong đó chỉ có 28 PN thực hiện hành động
hỏi trực tiếp, còn lại là 131 PN thực hiện các
HĐNN khác. Dựa vào những dấu hiệu nhận
diện, có thể chia các PN hỏi theo đích của
hành động. Đó là HĐNN khẳng định, phủ
định, cầu khiến, cảm thán, băn khoăn - phỏng
đoán. Trong đó chủ yếu là hành động khẳng
định và phủ định.
4.b. Khi chia 131 PN hỏi theo chủ thể PN thì
người dẫn truyện, Thúy Kiều và Kim Trọng
có nhiều PN hỏi còn một số nhân vật phản
diện và nhân vật phụ có số lượng PN hỏi ít
như Mã Giám Sinh, Giác Duyên,...
4.c. Cùng với các hành động phi ngôn ngữ và
các phương diện khác thuộc diện mạo bên
ngoài cũng như trạng thái nội tâm bên trong,
HĐNN gián tiếp biểu thị qua PN hỏi của
người dẫn truyện và của mỗi nhân vật đã góp
phần bộc lộ thái độ, tình cảm của tác giả và
bộc lộ tính cách, phẩm chất của mỗi nhân vật.
Trong đó, có thể coi HĐNN gián tiếp là một
chất liệu “vẽ” thật đặc biệt được Nguyễn Du
sử dụng (dù đậm, dù nhạt) để khắc họa nhân
vật, giúp cho mỗi nhân vật trong tác phẩm có
một dấu ấn riêng và để lại ấn tượng sâu sắc
trong lòng người đọc.
Cách sử dụng linh hoạt, phong phú, tinh tế
như vậy đã chứng tỏ tài năng sử dụng ngôn
ngữ bậc thầy của Nguyễn Du, qua đó góp
phần đưa Truyện Kiều lên hàng kiệt tác của
nền văn học nước nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1974), Từ điển Truyện Kiều,
Nxb KHXH, H.
2. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1993), Đại
cương ngôn ngữ học, tập 2, Nxb Giáo dục, H.
3. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập 1,
Nxb Giáo dục, H.
4. Cao Xuân Hạo (2004), Tiếng Việt sơ thảo ngữ
pháp chức năng, Nxb Giáo dục, H.
5. Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách của
Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Thanh niên, H.
6. Bùi Minh Toán (2008), Giáo trình ngữ pháp
tiếng Việt, Nxb ĐHSP, H.
195Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Dương Thị Thuý Vinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 185 - 191
191
SUMMARY
QUESTION UTTERANCES IN TALE OF KIEU
THAT DENOTE INDIRECT SPEECH ACTS
Duong Thi Thuy Vinh*
College of Education – TNU
While exploring question utterances (using a question mark at the end of a sentence) in the Tale of
Kieu, we saw that the author (narrator) and characters have created many question utterances, but
only a few the question utterances are for questioning purposes, the majority is for other purposes.
Specifically, making questions to confirm, to negate, to exhort, to persuade, to request, to swear,
..., to express concern, speculation, suspicion, to promise and to make commitments, to show
emotions. The indirect language acts that are expressed through question utterances contribute to
reveal the author’s attitudes and feelings and characters’ qualities and characteristics, thereby also
confirm Nguyen Du’s heart and talent.
Keywords: language, question utterance, indirect language act, Tale of Kieu, Nguyen Du.
Ngày nhận bài: 08/5/2013; Ngày phản biện: 21/5/2013; Ngày duyệt đăng:06/6/2013
*
Tel: 0942383818; Email: duongvinhsptn@gmail.com
196Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_38918_42464_10920138133185_2249_2051962.pdf