Tuy nhiên, hiện nay chúng ta vẫn chưa có Tuy nhiên, hiện nay chúng ta vẫn chưa có một khái niệm cụ thể và rõ ràng rằng thế nào là "văn bản". Theo quan niệm lâu nay của những người làm công tác pháp lý thì họ vẫn hiểu trong một nền thương mại truyền thống thì văn bản được đồng nghĩa với giấy tờ (dưới hình thức viết). Như vậy, nếu các hình thức thông tin điện tử không được ghi nhận về mặt pháp lý là một trong những hình thức của văn bản, thì các hợp đồng được giao kết trên
29 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2344 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp lý trong thương mại điện tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i công ty giữ kín. Vụ kiện đã thu hút sự quan tâm trong cộng đồng mạng tại Mỹ và làm tốn không ít giấy mực của báo chí trong suốt năm đó.
Môi trường Internet phát triển nhanh chóng, ngoài những tiện ích to lớn mang lại cho người sử dụng cũng đồng thời kéo theo những rủi ro lớn cho việc bảo hộ phát minh - sáng chế. Điều này xuất phát từ hai yếu tố chính là khả năng tiếp cận thông tin và khả năng phát tán thông tin quá dễ dàng trong môi trường mạng.
Tại Việt Nam, việc đăng ký bằng phát minh - sáng chế cho sản phẩm và dịch vụ còn gặp nhiều khó khăn về mặt thủ tục và thời gian (trung bình khoảng 12 tháng) và cũng chưa có được sự quan tâm đúng mức của doanh nghiệp.
Trên thực tế, người tiêu dùng trong nước vẫn sẵn lòng chấp nhận sử dụng sản phẩm, dịch vụ mà trong đó ý tưởng, thiết kế, kỹ thuật… được nhái lại và việc một số doanh nghiệp, nhà kinh doanh sử dụng cả nội dung lẫn hình ảnh của sản phẩm hay dịch vụ đã được đăng tải trên trang web của doanh nghiệp khác vẫn đang là một thực trạng chưa được giải quyết triệt để.
Bản quyền - tác quyền
Ngoài những vấn đề về sở hữu trí tuệ nêu trên liên quan đến bản chất vận hành của hệ thống thương mại điện tử thì doanh nghiệp còn phải đối mặt với vấn đề bản quyền - tác quyền vốn có liên quan đến hàng hoá giao dịch trong thị trường ảo này. Rất nhiều hàng hoá trong thị trường ảo ngày nay là hàng hoá số (digital content): sách, báo, tài liệu, nhạc, phim ảnh, phần mềm, dịch vụ… Hàng hoá số thường dễ dàng nhân bản và phát tán, do đó, việc bảo vệ bản quyền - tác quyền cho nguồn gốc của hàng hoá số là vô cùng khó khăn. Một quyển sách hay có thể dễ dàng được số hoá và kinh doanh qua Internet, như vậy việc bảo vệ tác quyền gần như là không khả thi. Do đó bảo hộ sở hữu trí tuệ số đưa ra một số vấn đề khác so với việc bảo mật về sở hữu trí tuệ truyền thống.
Ứng dụng công nghệ thường được xem là một giải pháp trong việc bảo vệ tác quyền. Tại trang web Google Books, người sử dụng có thể xem sách ngay trên trang web nhưng lại không tải (download) về được. Nếu người sử dụng thích một đầu sách thì có thể mua, sau đó Google mới cho tải về. Cách làm này thật ra cũng chỉ có thể bảo hộ được tác quyền tại trang web của Google, còn sau khi người mua tải về rồi thì việc nhân bản và phát tán tiếp vẫn không thể kiểm soát được.
Cuộc chiến công nghệ thường là cuộc chiến không có hồi kết, chỉ sau một thời gian, đã xuất hiện phần mềm Google Books Downloader trên Internet, có thể cho người sử dụng tải sách trong quá trình xem tại Google Books (đương nhiên là không được sự cho phép của Google).
Câu chuyện nói trên cho thấy các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá số thường phải tính toán trước những rủi ro, có những biện pháp phòng ngừa hữu hiệu hoặc có những giải pháp kinh doanh phù hợp.
Sở hữu trí tuệ trong giá trị doanh nghiệp
Sở hữu trí tuệ (nhãn hiệu hàng hoá, phát minh - sáng chế, bản quyền - tác quyền) chính là tài sản vô hình liên quan trực tiếp đến giá trị của doanh nghiệp. Ngày nay, việc Việt Nam đã là một thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và là quốc gia đang phát triển, vấn đề sở hữu trí tuệ càng đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định các kế hoạch cạnh tranh toàn cầu và bảo hộ toàn cầu.
Tại Mỹ, Quốc hội đã cố gắng để giải quyết về mặt pháp lý vấn đề bản quyền số. Một tổ chức quốc tế, Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã cố gắng để khuyến khích và quản lý vấn đề bản quyền số mang tính quốc tế. Trong khi đó, một số công ty đang đưa ra thế hệ các sản phẩm đầu tiên và thứ hai cung cấp một giải pháp bảo vệ những người nắm giữ bản quyền số hoá. Trong khi số lượng các vụ án liên quan đến vấn đề bản quyền vẫn còn mới và lĩnh vực này vẫn còn non trẻ, những dấu hiệu ban đầu là luật bản quyền tại Mỹ ít nhất đã áp dụng cho Internet và các phương tiện số khác. Hiệp hội công nghệ thông tin Mỹ (ITAA), một tổ chức thương mại đại diện cho công nghệ thông tin của Mỹ đã cho ra một văn bản hoàn chỉnh về việc bảo hộ thông tin số có bản quyền. Trong văn bản này, bảo hộ sở hữu trí tuệ trong không gian máy tính, những vấn đề hiện tại trong việc bảo hộ bản quyền số đã được thảo luận và một số giải pháp đã được đưa ra. Ba giải pháp được giới thiệu là:
+ Ngăn chặn tên chủ (Host name blocking).
+ Lọc gói tin.
+ Server đại diện.
Tất cả ba các cách tiếp cận cho thấy làm thế nào mà một nhà cung cấp dịch vụ Internet có thể cố gắng để ngăn chặn việc truy cập vào trang Web có sai sót thông qua khối IP, bằng cách lọc gói tin hoặc sử dụng một server đại diện để lọc các yêu cầu. Tuy nhiên không một biện pháp nào thực sự có hiệu quả trong việc ngăn chặn hành vi ăn cắp hoặc đưa ra sự xác minh các tài sản có được mà không cần sự cho phép của người chủ sở hữu bản quyền đó.
Một vài biện pháp cho thấy triển vọng trong cuộc chiến để bảo vệ các tác phẩm số. Ví dụ về những biện pháp đó bao gồm phần mềm bộ đếm giờ, hình mờ số và phong bì số (đôi khi còn được được gọi là các mã xác nhận thông báo). Tất nhiên, mức độ của sự bảo hộ được đưa ra rất khác nhau và không có một phương thức nào trong những hệ phương pháp này là hết sức rõ ràng nhưng chúng cũng đã đưa ra một số sự bảo vệ.
Từ chương trình hành động chung của WTO về thương mại điện tử, khởi động từ năm 1998, có thể nhận thấy chương trình này xoay quanh năm vấn đề lớn xuyên suốt. Thứ nhất, đó là cuộc tranh luận xoay quanh câu hỏi: Thương mại điện tử là thương mại hàng hoá hay thương mại dịch vụ. Kế tiếp là thuế quan đối với hàng hoá được truyền tải bằng phương tiện điện tử. Mối quan tâm thứ ba đó là xuất xứ hàng hoá, tiếp theo là quyền sở hữu trí tuệ và các vấn đề có liên quan. Vấn đề cuối cùng là hiệu lực của Hiệp định Công nghệ thông tin (ITA).
Bảo vệ tài sản trí tuệ số là một vấn đề đa dạng và phức tạp nhưng lại là một nhu cầu không thể thiếu được để một doanh nghiệp có thể phát triển bền vững trong môi trường toàn cầu hoá hiện nay và trong thời đại mà nền kinh tế tri thức đang dần trở thành định hướng phát triển của tất cả các quốc gia. Các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ và bảo vệ tài sản trí tuệ đã được đưa vào một trong năm vấn đề nghị sự lớn được thảo luận xuyên suốt trong chương trình Hành động chung của WTO về Thương mại điện tử toàn cầu từ năm 1998 đến nay.
Để có thể bảo vệ tài sản trí tuệ số, doanh nghiệp trước hết cần xác định rõ những tài sản vô hình quan trọng của công ty mình. Qua đó, không những giúp họ có thể định giá tài sản vô hình của công ty mà còn là tiền đề để đưa ra những chính sách về bảo vệ và phát triển hợp lý những tài sản vô hình đó.
Bảo vệ tài sản trí tuệ số của doanh nghiệp có thể được phân thành ba vấn đề chính: bảo mật nội bộ (tránh thất thoát dữ liệu, thông tin từ bên trong công ty), bảo mật vận hành (phòng chống tấn công, đánh cắp dữ liệu từ bên ngoài) và phòng chống sử dụng dữ liệu bất hợp pháp (khách hàng vi phạm các luật về sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm số của công ty).
II Khuôn khổ pháp lí cho TMĐT ở Việt Nam
Pháp luật về TMĐT
Bản chất của luật về TMĐT là công nhận giao dịch điện tử có tính pháp lý như các giao dịch truyền thống khác (bằng văn bản giấy)
1. Pháp luật về TMĐT trên thế giới
* Các tổ chức Quốc tế
UNCITRAL - Ủy ban của LHQ về Luật Thương mại Quốc tế: đưa ra Luật mẫu về Thương mại điện tử vào năm 1996 làm khung hướng dẫn cho các nước xây dựng các đạo luật về thương mại điện tử.
OECD - Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế: nghiên cứu, điều tra một số lĩnh vực của Thương mại điện tử như thuế, bảo vệ người tiêu dùng và riêng tư cá nhân, tác động của ICT đến tăng trưởng kinh tế
WIPO - Tổ chức Bảo vệ Sở hữu trí tuệ: về các lĩnh vực bản quyền, nhãn hiệu thương mại và các vấn đề liên quan đến tên miền
ICANN - giải quyết các tranh chấp về tên miền quốc tế
WTO - giải quyết các vấn đề liên quan đến rào cản thương mại điện tử quốc tế
* Các nước trên thế giới và khu vực
EU: Năm 2000 đưa ra hướng dẫn chung về thương mại điện tử “Directive on electronic commerce”
US: UETA - Luật giao dịch điện tử thống nhất (Uniform Electronic Transactions Act)
Canada: Luật giao dịch điện tử
Australia: Luật giao dịch điện tử các bang
Singapore: Luật giao dịch điện tử, năm 1998
1.1. Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử
Nhằm tạo khung pháp lý cho phát triển thương mại điện tử, năm 1996 Uỷ ban Luật Thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) đã soạn thảo một luật mẫu về thương mại điện tử, hình thành những quy định mẫu về thừa nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu nhằm bảo vệ về mặt pháp lý cho những tổ chức, cá nhân mong muốn tham gia thương mại điện tử. Luật mẫu có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho các nước trong quá trình xây dựng pháp luật về thương mại điện tử của mình. Tinh thần của Luật mẫu là bảo đảm những giao dịch thương mại điện tử được thừa nhận giá trị pháp lý và nếu cần thiết thì sẽ có những hành động thích hợp để tăng cường khả năng thi hành cho những giao dịch bằng phương tiện điện tử. Luật mẫu được soạn thảo dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
Tài liệu điện tử có thể được coi là có giá trị pháp lý như tài liệu ở dạng văn bản nếu thoả mãn các yêu cầu kỹ thuật nhất định;
Tự do thoả thuận hợp đồng;
Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phương thức truyền thông điện tử;
Giá trị pháp lý của hợp đồng và tính ưu việt của những quy định pháp lý về hình thức hợp đồng; những đòi hỏi đối với hợp đồng để có giá trị pháp lý và khả năng được thi hành phải được tôn trọng;
Áp dụng về mặt hình thức hơn là quan tâm tới nội dung : luật chỉ áp dụng đối với hình thức hợp đồng mà không đề cập nội dung, trên cơ sở phải thoả mãn những đòi hỏi pháp lý nhất định;
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng phải đi trước. Nhiều quốc gia đã thể hiện các nguyên tắc và nội dung của luật mẫu UNCITRAL vào hệ thống pháp luật quốc gia của nước mình.
Luật mẫu của UNCITRAL về TMĐT là một quy định chung về TMĐT cho các thành viên của Liên Hợp Quốc gồm các nội dung như thuật ngữ TMĐT, hiệu lực pháp lý của thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử. Ngoài ra UNCITRAL còn có một số quy định khác liên quan như Hiệp định Liên Hợp Quốc về sử dụng Truyền thông Điện Tử trong Hợp Đồng Quốc Tế.
1.2. Luật thương mại điện tử của một số nước trên thế giới
Xây dựng khung pháp lý cho TMĐT là việc rất cấp thiết. Để hỗ trợ các hoạt động TMĐT, nhiều nước trên thế giới đều đã xây dựng khung pháp lý riêng, dựa trên những khái niệm và những nguyên tắc cơ bản của bộ luật mẫu về Thương mại điện tử của Uỷ Ban Pháp luật thương mại quốc tế - Liên hợp quốc (UN Commision on International Trade Law - UNCITRAL) soạn thảo năm 1996. Bộ luật mẫu này cung cấp các nguyên tắc có tính quốc tế, giải quyết một số trở ngại, nhằm tạo ra môi trường an toàn về pháp lý cho các hoạt động thương mại điện tử.
Biểu 2.
Khung pháp lý cho các hoạt động TMĐT của một số nước trên thế giới
Nước
Một số văn bản pháp lý
Australia
Luật giao dịch điện tử năm 1999 (căn cứ trên luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL) quy định các nghĩa vụ pháp lý với việc phát hành đối với phương tiện điện tử
Nhật Bản
Hàng loạt luật liên quan đến công nghệ thông tin ban hành trong năm 2000 công nhận tính hiệu lực của việc chuyển các văn bản bằng phương tiện điện tử. Luật về chữ ký điện tử và tổ chức chứng thực điện tử của Nhật Bản cũng được ban hành ngày 25/5/2000.
Trung Quốc
Luật hợp đồng thừa nhận tính hiệu lực của các hợp đồng điện tử
Đặc khu Hongkong
Ngày 7/1/2000, Hồng Kông đã ban hành pháp lệnh giao dịch điện tử. Văn bản này có quy định về chữ ký điện tử, bản ghi điện tử và được áp dụng rộng rãi cho mọi hoạt động truyền thông, công nhận tính pháp lý của các giao dịch điện tử.
Hàn Quốc
Hàn Quốc có Luật Chữ ký điện tử vào năm 1999 và sửa đổi vào năm 2001
Mehico
Nghị định về TMĐT được thông qua năm 2000
New Zealand
Luật Giao dịch điện tử (căn cứ vào luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL) ban hành năm 1998, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào một giao dịch điện tử. Luật cũng quy định việc cấp phép qua thiết bị điện tử đối với khu vực công cộng và trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ thuộc bên thứ ba. Cơ chế giải quyết tranh chấp điện tử qua Internet được sử dụng để giải quyết tranh chấp
Thái Lan
Luật Giao dịch điện tử của Thái Lan được thông qua vào tháng 10/2000 đã bao quát cả chữ ký điện tử.
Mỹ
Áp dụng Luật thương mại chung
Áp dụng Luật Chuyển tiền điện tử đối với các sản phẩm lưu trữ giá trị dưới sự kiểm soát của Cục Dự trữ Liên bang.
Luật Giao dịch điện tử thống nhất thông qua năm 1999 thừa nhận tính bình đẳng của chữ ký điện tử và chữ ký viết tay. Các bang ban hành luật riêng dựa trên luật giao dịch điện tử thống nhất.
Malaysia
Ngày 1/10/1998, Luật về chữ ký điện tử của Malaysia đã có hiệu lực.
Singapore
Ngày 29/6/1998, Luật giao dịch điện tử của Singapore đã ra đời quy định về chữ ký điện tử, chữ ký số cũng như bản ghi điện tử.
Philipines
Luật Thương mại điện tử của Philipines ban hành ngày 14/6/2000 đã điều chỉnh về chữ ký điện tử, giao dịch điện tử và tội phạm liên quan tới thương mại điện tử.
Brunei
Luật Giao dịch điện tử của Brunei được ban hành tháng 11/2000 bao quát đến vấn đề hợp đồng điện tử cũng như chữ ký điện tử và chữ ký số.
Ấn Độ
Luật về công nghệ thông tin của Ấn Độ được thi hành từ tháng 10/2000 quy định về chữ ký số và bản ghi điện tử.
2. Khuôn khổ pháp lý cho thương mại điện tử ở Việt Nam
Cùng với hệ thống pháp luật chung, các văn bản pháp luật liên quan đến thương mại điện tử cũng bước đầu được hình thành và dần hoàn thiện.
2.1. Luật giao dịch điện tử
Luật Giao dịch điện tử được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/03/2006. Khởi thảo từ tháng 3/2004, luật gồm 8 chương, 54 điều quy định về thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử, giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước, an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử. Phạm vi điều chỉnh chủ yếu của Luật là giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại.
Luật Giao dịch điện tử nhấn mạnh nguyên tắc tiến hành giao dịch điện tử là tự nguyện, được tự thoả thuận về việc lựa chọn công nghệ để thực hiện giao dịch, trung lập về công nghệ, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn.
Chữ ký điện tử là một nội dung được đề cập đến trong Luật Giao dịch điện tử. Luật công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, nêu lên nghĩa vụ của bên ký, bên chấp nhận chữ ký và tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử và dành hẳn một chương đề cập đến giao dịch điện tử của cơ quan Nhà nước.
2.2. Luật thương mại
Luật Thương mại (sửa đổi) được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/01/2006 là văn bản pháp lý làm nền tảng cho các hoạt động thương mại, trong đó có thương mại điện tử. Điều 15 của Luật quy định “Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản”. Ngoài ra, tại khoản 4, Điều 120 (các hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ), trong đó coi “Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ trên Internet” là một hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ.
2.3. Bộ luật dân sự
Tại khoản 1, điều 124 “Hình thức giao dịch dân sự” của Bộ luật dân sự (Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/01/2006) quy định “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản”. Bộ luật Dân sự đưa ra quy định cụ thể về các trường hợp giao kết, sửa đổi, thực hiện, huỷ bỏ hợp đồng. Theo đó, thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự do các bên thoả thuận, nếu không có thoả thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng dân sự là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng. Đây là những khái niệm quan trọng cần tính đến khi xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng trong môi trường điện tử.
2.4. Luật Hải quan
Luật Hải quan (sửa đổi) được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/01/2006 có bổ sung một số quy định về trình tự khai hải quan điện tử, địa điểm khai, hồ sơ hải quan điện tử, thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu bằng Thương mại điện tử.
2.5. Luật sở hữu trí tuệ
Luật sở hữu trí tuệ được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/07/2006 thể hiện một bước tiến trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Luật Sở hữu trí tuệ có một số điều khoản liên quan đến thương mại điện tử như quy định về các hành vi bị xem là xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trong môi trường điện tử như cố ý huỷ bỏ, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm, dỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử mà không được phép của chủ sở hữu quyền liên quan. Tuy không có quy định cụ thể liên quan đến lĩnh vực thương mại điện tử, nhưng các nguyên tắc trong Luật Sở hữu trí tuệ có thể áp dụng đối với lĩnh vực này.
2.6. Một số văn bản pháp luật khác
Bên cạnh Luật Thương mại, Luật Giao dịch điện tử và Bộ luật Dân sự, có một số văn bản khác cũng đề cập đến thương mại điện tử như :
Quyết định số 27/2005/QĐ-BBCVT do Bộ trưởng Bộ Bưu chính – Viễn thông ký và ban hành ngày 11/08/2005 quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet.
Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BCVT-VHTT-CA-KHĐT ngày 14/07/2006 về quản lý đại lý Internet.
Ngoài ra, Luật Công nghệ thông tin và Nghị định về thương mại điện tử cũng đang khẩn trương được xây dựng, tạo cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử phát triển.
2.7. Các văn bản dưới luật
Luật giao dịch điện tử ( gồm 8 chương và 24 điều ) là văn bản nền tảng cho mọi hoạt động giao dịch điện tử nói chung và TMĐT nói riêng. Do đó để luật đi vào hoạt động cụ thể thì cần phải có những văn bản pháp lý quy định hướng dẫn thi hành. Một số văn bản pháp lý đáng quan tâm khi tham gia TMĐT tại Việt Nam như sau:
Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về TMĐT (9/6/2006) quy định về việc sử dụng chứng từ điện tử trong hoạt động ngoại thương.
Nghị định số 26/2007/NĐ-CP (15/2/2007) quy định chi tiết thi hành luật Giao dịch điện tử về Chữ ký số và Dịch vụ chứng từ thực chữ ký số.
Nghị định 27/2007/NĐ-CP (23/2/2007) quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính
Nghị định 63/2007/NĐ-CP (10/4/2007) về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công nghệ thông tin (hành vi, mức phạt, thẩm quyền)
Nghị định số 28/2009/NĐ-CP (20/3/2009) về quy định xử phạt hành chính trong quản lý, cung cấp sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet.
Quyết định số 20/2007/QĐ-BBCVT (19/6//2007) của Bộ Bưu Chính Viễn Thông ban hành mẫu quy chế chứng thực về chữ ký số.
Thông tư số 9/2008/TT-BCT (21/7/2008) hướng dẫn nghị định TMĐT về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website TMĐT.
Nghị định 90/2008/NĐ-CP (13/8/2008) về chống thư rác.
Thông tư 12/2008/TT-BTTTT (20/12/2008) hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định 90/2008/NĐ-CP (13/8/2008) của chính phủ về chống thư rác.
Nghị định 97/2008/NĐ-CP (28/8/2008) về cung cấp quản lý sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet.
Thông tư 78/2008/TT-BTC (15/9/2008) hướng dẫn thi hành một số nội dung của nghị định 27/2007/NĐ-CP về yêu cầu các bên tham gia vào các giao dịch điện tử trong giao dịch tài chính.
Thông tư 7/2008/TT-BTTTT (18/12/2008) hướng dẫn một số nội dung về cung cấp thông tin trên trang điện tử thông tin.
Thông tư số 9/2008/TT-BTTTT (24/12/2008) hướng dẫn về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet.
Thông tư 10/2008/TT-BTTTT (24/12/2008) quy định về giải quyết tranh chấp tên miền quốc gia Việt Nam.
Một số văn bản pháp luật chuyên ngành:
Nghị định số 35/2007/NĐ-CP (8/3/2007) về giao dịch điện tử, chứng từ điện tử trong hoạt động ngân hàng.
Quyết định 18/2007 QĐ-BTC (22/3/2007) về việc in, phát hành, sử dụng và quản lý vé máy bay điện tử.
Thông tư số 4/2006/TT-BBCVT sửa đổi, bổ sung về quản lý cung cấp và sử dụng dịch vụ truy nhập Internet, dịch vụ kết nối Internet và dịch vụ ứng dụng Internet trong bưu chính, viễn thông.
Quyết định 18/2007/QĐ-BTM (30/7/2007) của Bộ thương mại về việc ban hành quy chế cấp chứng nhận xuất xứ điện tử.
Quyết định số 1699/QĐ-TCHQ (25/9/2007) của Tổng cục hải quan quy trình thủ tục Hải quan điện tử
III Hoạt động TMĐT ở Việt Nam và tranh chấp thực tiễn
1 Tình hình phát triển của TMĐT ở Việt Nam
Thực trạng TMĐT ở Việt Nam:
Theo thống kê mới nhất, tính đến giữa năm 2005, Việt Nam đã có khoảng 10 triệu người truy cập Internet, chiếm gần 12,5% dân số cả nước. Tỷ lệ này cũng ngang bằng với tỷ lệ chung của toàn cầu năm 2004.
Nếu cuối năm 2003 số người truy cập Internet ở Việt Nam là khoảng 3,2 triệu người, đến cuối năm 2004 con số này đã tăng lên gần gấp đôi, tức khoảng 6,2 triệu người, sáu tháng sau đó, con số này đã lên đến hơn 10 triệu, dự đoán đến cuối năm 2005, số người Việt Nam truy cập Internet có thể lên đến 13 đến 15 triệu người, chiếm tỷ lệ 16% - 18% dân số cả nước. Những thống kê này cho thấy một tín hiệu lạc quan về sự phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010.
Theo thống kê của Vụ Thương mại điện tử thuộc Bộ Thương mại, đến cuối năm 2004, Việt Nam đã có khoảng 17.500 website của các doanh nghiệp, trong đó số tên miền .vn (như .com.vn, .net.vn,...) đã tăng từ 2.300 (năm 2002) lên 5.510 (năm 2003) và 9.037 (năm 2004).
Đến cuối năm 2005, Việt Nam đã có khoảng 20.000 website của các doanh nghiệp và các website sàn giao dịch B2B (marketplace), các website rao vặt, các siêu thị trực tuyến B2C... đua nhau ra đời. Tuy nhiên, các website này vẫn còn phát triển hạn chế, chưa có website nào thực sự phát triển đột phá vì nhiều nguyên do. Những mặt hàng được bán phổ biến trên mạng tại Việt Nam hiện nay gồm: hàng điện tử, kỹ thuật số, sản phẩm thông tin (sách điện tử, CD, VCD, nhạc...), thiệp, hoa, quà tặng, hàng thủ công mỹ nghệ. Các dịch vụ ứng dụng Thương mại điện tử nhiều như: du lịch, tư vấn, CNTT, dịch vụ thông tin (thông tin tổng hợp, thông tin chuyên ngành...), giáo dục và đào tạo...
Các doanh nghiệp cũng đã quan tâm nhiều hơn về việc lập website để giới thiệu thông tin, hỗ trợ marketing, bán hàng qua mạng... Bảng sau minh họa kết quả khảo sát của Vụ Thương mại điện tử về quan điểm của doanh nghiệp về tác dụng của website đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tác dụng của Website đối với Doanh nghiệp
Điểm (0 là thấp nhất, 4 là cao nhất)
Xây dựng hình ảnh công ty
3,2
Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có
2,9
Thu hút khách hàng mới
2,6
Tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động
2,0
Tăng doanh số
1,9
Bảng 1: Quan điểm của doanh nghiệp về tác dụng của website
Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2004, Vụ Thương mại điện tử
Kết quả khảo sát trên phản ánh thực tế đa phần doanh nghiệp có website mới chỉ xem website là kênh tiếp thị bổ sung để quảng bá hình ảnh công ty và giới thiệu sản phẩm, dịch vụ, do đó, doanh nghiệp chưa đầu tư khai thác hết những lợi ích Thương mại điện tử có thể mang lại cho doanh nghiệp. Thậm chí việc đầu tư marketing website để đối tượng khách hàng biết đến cũng chưa được doanh nghiệp quan tâm thực hiện hiệu quả, bằng chứng là có nhiều website có số lượng người truy cập rất khiêm tốn sau khi khai trương nhiều tháng, nhiều năm, và đa số các website giới thiệu thông tin, sản phẩm này của doanh nghiệp được Alexa xếp hạng rất “lớn” (trên 500.000).
Nhìn chung, việc phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam hiện còn mang tính tự phát, chưa được định hướng bởi chính phủ và các cơ quan chuyên môn nhà nước. Do đó, sự đầu tư cho TMĐT ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào tầm nhìn, quan điểm của lãnh đạo doanh nghiệp. Cũng có nhiều cá nhân, doanh nghiệp thành lập những website Thương mại điện tử (sàn giao dịch, website phục vụ việc cung cấp thông tin, website rao vặt, siêu thị điện tử...) để giành vị thế tiên phong, tuy nhiên, tình hình chung là các website này chưa thực sự được marketing tốt và phát triển tốt để mang lại lợi nhuận kinh tế đáng kể.
Để Thương mại điện tử phát triển, cần nhiều yếu tố thúc đẩy, làm nền tảng như:
a. Cơ sở hạ tầng công nghệ
b. Số người truy cập Internet, chi phí truy cập Internet
c. Nhân lực chuyên môn
d. Kiến thức Thương mại điện tử về phương diện kinh doanh, chiến lược, và nhận thức của nhà đầu tư
e. Nhận thức của cộng đồng
f. Vai trò lãnh đạo của nhà nước
g. Luật
Theo khảo sát của tác giả, 7 yếu tố trên được xếp hạng như sau (thang điểm từ 0 đến 9, 0 là hầu như chưa có gì, 9 là mức cao nhất thúc đẩy sự phát triển Thương mại điện tử )
Yếu tố
Thang điểm (0-9)
Số người truy cập Internet, chi phí truy cập Internet
7
Cơ sở hạ tầng công nghệ
6
Vai trò lãnh đạo của nhà nước
5
Kiến thức Thương mại điện tử về phương diện kinh doanh, chiến lược, và nhận thức của nhà đầu tư
4
Nhân lực chuyên môn
3
Nhận thức của cộng đồng
2
Luật
1
Bảng 2: Xếp hạng các yếu tố thúc đẩy sự phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam
Bước tiến trong TMĐT tại Việt Nam:
Năm 2007 chứng kiến sự bứt phá ngoạn mục của ngành dịch vụ trực tuyến tại Việt Nam. Đó là sự xuất hiện của những thương hiệu lớn nội địa, được đầu tư kỹ càng và bài bản nhằm giành lại thị trường vốn trước nay đã bị các tên tuổi như Yahoo!, Google, MSN... thâu tóm.
Công cụ tìm kiếm - thị trường lớn cần được khai thác
Theo ước lượng, có khoảng 70% người sử dụng Internet dùng công cụ tìm kiếm mỗi ngày. Trong một thời đại mà tất cả các thông tin, trong mọi lĩnh vực đều có thể tìm được trên Internet, người ta có thể tìm kiếm nhanh nhất những gì mình cần chỉ qua vài từ khóa và một cú click chuột thì xu hướng đầu tư vào việc phát triển các công cụ tìm kiếm là điều dễ hiểu.
Khi nhắc đến lĩnh vực tìm kiếm, rất nhiều người sẽ nghĩ ngay đến Google, một "đại gia" đi đầu và đã thành danh trong ngành dịch vụ tìm kiếm online. Thế nhưng tại Trung Quốc, quốc gia đông dân nhất thế giới, thì công cụ tìm kiếm được ưa chuộng nhất trên Internet không phải là Google mà là một website bản xứ mang tên www.baidu.com.
Có thể xem baidu như một hình mẫu, một tượng đài cho những quốc gia có ngành CNTT còn non trẻ như Việt Nam. Không vì sức lấn át của người khổng lồ mà e ngại trong chiến lược phát triển của mình, baidu thành công vì biết khai thác và đi sâu vào yếu tố văn hóa bản địa hơn là cạnh tranh một cách không cân sức với Google, trong khi Google đã là một tên tuổi quá lớn trên thế giới.
Ở các nước có nền kinh tế phát triển và trình độ sử dụng Internet của người dân cao, lợi nhuận mang lại từ công cụ tìm kiếm là khổng lồ. Đó là lý do các nhà cung cấp lớn bắt đầu chú trọng vào việc phát triển công cụ tìm kiếm đi kèm với cổng thông tin.
Tuy nhiên, để xây dựng và phát triển một công cụ tìm kiếm là điều không hề đơn giản, có thể tiêu tốn đến hàng triệu USD. Vì thế, các doanh nghiệp Việt chọn con đường xây dựng dần dần, từ những viên gạch nhỏ. Các công cụ tìm kiếm Việt như: TimNhanh, Baamboo, Monava, Vinaseek... sau một thời gian ngắn ra mắt và đi theo định hướng riêng cũng đã thu hút được lượng người dùng đáng kể.
Mạng cộng đồng - xu thế của thời đại
Việc tiếp nhận thông tin từ Internet của người dùng ngày nay cũng có nhiều thay đổi. Thay vì chỉ tiếp nhận thông tin đơn thuần như đọc các tin tức, bài viết như trước đây, các website 2.0 công nghệ mới còn cho phép người dùng có thể tương tác trực tiếp với các thông tin mà họ đọc được. Dễ nhận biết nhất ở thế hệ website 2.0 là thể loại "Nhật ký điện tử" hay còn gọi là blog đã làm khuynh đảo thế giới mạng trong năm vừa qua và sẽ còn hứa hẹn nhiều điều thú vị khác.
Hiện nay, cộng đồng blog Việt đang vô cùng nhộn nhịp với các nhà cung cấp ngoại cũng có mà nội cũng có: Yahoo! 360, Wordpress, Cyworld, TimNhanh! Café, Vnwebblog... Xét về mặt chất lượng, các webblog Việt không hề thua kém các sản phẩm ngoại.
Điển hình như trang blog TimNhanh! Café, các tính năng của blog đã được nhà cung cấp này kế thừa và phát huy trên nền tảng Yahoo! 360. Ngoài các chức năng viết blog, bình luận, gửi tin nhắn... TimNhanh đã tích hợp cả phần Âm nhạc Photo, RSS của mình vào trang blog để blogger có thể sử dụng một cách dễ dàng. Mạng Cyworld thì hướng đến hình ảnh "Ngôi nhà ảo" khá dễ thương, mặc dù các tính năng của webblog này vẫn còn hơi khó sử dụng cho người Việt.
Đánh tiếng từ các nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến Việt, hình như ai cũng đang ấp ủ các dự án mới mẻ và táo bạo trong tương lai. Đó là việc ngày càng hoàn thiện hơn nữa các dịch vụ, tiện ích và mở rộng thêm nhiều tính năng mới. Cổng thông tin TimNhanh.com cho biết năm 2008 cùng với việc hoàn chỉnh các sản phẩm đang có, họ sẽ phát triển hệ thống sản phẩm của mình lên đến con số 32, nhằm phục vụ tối đa nhu cầu sử dụng của cộng đồng Internet Việt.
Với những gì đã và đang làm được của các doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam, người dùng có thể hoàn toàn tin tưởng vào một tương lai hoàn toàn tốt đẹp cho web Việt. Khi ấy, người dùng sẽ không còn phải sử dụng các sản phẩm ngoại quốc với giao diện dày đặc ngoại ngữ mà sẽ vô cùng thoải mái và thư giãn với các trang web, cổng thông tin thuần Việt từ giao diện đến ngôn ngữ.
Tiềm năng phát triển TMĐT ở Việt Nam:
Bất chấp những tác động không thuận lợi từ tình hình khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy giảm kinh tế tại Việt Nam, lĩnh vực thương mại điện tử ở nước ta năm nay có dấu hiệu khởi sắc, tiếp nối những bước phát triển sôi động của những năm trước.
Trong các website thương mại điện tử tham gia Cuộc thi và Bình chọn web vàng do báo Người Lao Động phối hợp cùng một số đơn vị tổ chức, các website hỗ trợ quảng bá thương hiệu, sản phẩm chiếm phần lớn. Điều đó cho thấy không chỉ có các doanh nghiệp (DN) kinh doanh các dịch vụ trên Internet và các DN bán hàng trực tuyến mới đầu tư website mà các DN sản xuất, phân phối hàng tiêu dùng cũng sử dụng công cụ net rất hiệu quả.
Theo thống kê của Trung tâm số liệu quốc tế Internet World Stats, Việt Nam hiện đứng thứ 6 ở châu Á về số người kết nối Internet và giữ ngôi vị á quân tại Đông Nam Á về lĩnh vực này. Hãng nghiên cứu Business Monitor International (Anh) dự đoán Việt Nam sẽ đạt 31,5 triệu người kết nối mạng vào năm 2011.
Trong năm 2008, thương mại điện tử ở Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể với số thuê bao Internet trên toàn quốc là 6 triệu, quy đổi gần 19,5 triệu người dùng Internet, đạt tỉ lệ 23% dân số dùng Internet (theo Bộ Thông tin - truyền thông). Tính đến thời điểm này, Việt Nam có khoảng 38% DN có website riêng và hơn 93% DN kết nối Internet để phục vụ sản xuất, kinh doanh (theo Bộ Công thương).
Bên cạnh việc hình thành khung pháp lý bảo vệ DN và người dùng khi mua, bán trên mạng, Bộ Thông tin - truyền thông còn công nhận giá trị pháp lý của chữ ký số và chứng thực số trong giao dịch điện tử, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho lĩnh vực thương mại điện tử của Việt Nam.
Ngoài ra, hàng loạt công ty chuyên về dịch vụ thanh toán điện tử đã kết hợp với các ngân hàng triển khai các dịch vụ “ví điện tử” dành cho đối tượng mua sắm những khoản vừa và nhỏ qua mạng Internet.
Những hoạt động kể trên cho thấy thương mại điện tử tại Việt Nam đã diễn ra sôi động, có tiềm năng dồi dào để phát triển mạnh hơn nữa.
Hiệp hội TMĐT Việt Nam (VECOM)
Nhằm thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực thương mại điện tử (TMĐT) tại Việt Nam. Ngày 24/7, Hiệp hội TMĐT Việt Nam (VECOM) đã tổ chức Đại hội toàn thể lần thứ nhất nhiệm kỳ 2007 – 2011 và chính thức đi vào hoạt động.
Hiệp hội TMĐT Việt Nam (VECOM) là một tổ chức xã hội, nghề nghiệp của các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân có sử dụng hoặc ứng dụng TMĐT phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ; hoặc nghiên cứu hay cung cấp các dịch vụ về TMĐT. Hiệp hội sẽ là cơ quan đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên; Đại diện, tập hợp, nghiên cứu ý kiến của các hội viên để phản ánh, kiến nghị và tham mưu cho Chính phủ các vấn đề liên quan tới lĩnh vực TMĐT.
Ngoài ra, VECOM còn giúp các hội viên giải quyết bất đồng, tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải khi có tranh chấp xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh TMĐT. Hiệp hội sẽ tư vấn, hỗ trợ, hợp tác, liên kết giữa các hội viên, trao đổi thông tin, kinh nghiệm trong lĩnh vực ứng dựng và phát triển TMĐT và các vấn đề liên quan…
Sự ra đời của VECOM được đánh giá là kịp thời nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các doanh nghiệp trong bối cảnh TMĐT Việt Nam đang chuẩn bị bước sang giai đoạn bùng nổ. Đến nay đã có 150 cá nhân và doanh nghiệp đăng ký tham gia làm hội viên của hiệp hội.
2 Tranh chấp tiêu biểu trong TMĐT ở Việt Nam: tranh chấp tên miền
Khái niệm chung về tranh chấp tên miền:
Tên miền được các tổ chức và cá nhân đăng ký sử dụng nhằm mục đích thông qua đó góp phần quảng bá về tổ chức, sản phẩm, dịch vụ, tiến hành các hoạt động thương mại và phi thương mại trong môi trường Internet toàn cầu. Các tên miền hoạt động trên mạng phải đáp ứng được một số yêu cầu trong đó quan trọng nhất là tính duy nhất của tên miền.
Các tranh chấp liên quan chủ yếu đến việc đăng ký tên miền xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác. Dạng tranh chấp này xảy ra trong trường hợp một chủ thể tiến hành đăng ký tên miền và phát hiện thấy tên miền này đã được sử dụng bởi một chủ thể khác. Có hai lý do cho tình trạng này:
- Thứ nhất, trong khi pháp luật của các nước công nhận sự cùng tồn tại của các nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ giống nhau giữa các quốc gia thì hệ thống tên miền trên thế giới cũng như tại mỗi quốc gia chỉ chấp nhận tính duy nhất của một tên miền cụ thể. Do đó, khả năng nhiều chủ thể cùng xin đăng ký một tên miền ở những thời điểm khác nhau là vì tên miền là duy nhất nhưng sự cùng tồn tại của nhiều thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ lại là điều rất có thể xảy ra.
- Thứ hai, do tính đa dạng và cạnh tranh cao của môi trường thương mại, nhiều chủ thể kinh doanh đã tiến hành đăng ký trước những tên miền mà theo sự tính toán của họ, trong tương lai sẽ có chủ thể đăng ký. Khi có đối tượng cần đăng ký, chủ thể kinh doanh này sẽ bán lại để thu lợi. Hiện tượng này được gọi là “đầu cơ tên miền” (domain name speculation). Có một dạng khác là các chủ thể kinh doanh đăng ký trước tên miền của các đối thủ cạnh tranh trên thương trường của mình nhằm gây khó khăn cho công việc kinh doanh và công tác tiếp thị của họ. Hiện tượng này thường được biết đến với tên gọi “chiếm dụng tên miền” (domain name cybersquatting).
Trước thực trạng trên, Tổ chức quản lý Tên miền và Số hiệu mạng thế giới (ICANN), phối hợp với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), đã tiến hành nghiên cứu và ban hành “Chính sách giải quyết tranh chấp tên miền thống nhất” (Uniform Domain-name Dispute-Resolution Policy) - UDRP, chi tiết tham khảo tại UDRP được điều chỉnh bằng phương thức hoà giải (Alternative Dispute Resolution – ADR) và trọng tài (Arbitration), dựa trên các quy định về trọng tài thương mại, có tính đến các yếu tố kỹ thuật của tên miền. Mục tiêu của chính sách này là:
* Giải quyết trực tiếp các tranh chấp tên miền tên miền cấp cao dùng chung
* Tạo nên thông lệ chung về giải quyết các tranh chấp tên miền
Chính sách này sau khi ra đời năm 1999 đã được đa số các tổ chức quản lý tên miền cấp cao trên thế giới áp dụng và ngày nay đã trở thành một thông lệ được mặc định hiểu là “phải có” đối với tên miền.
Hiện nay, chính sách giải quyết tranh chấp tên miền của các nước hầu hết được xây dựng trên cơ sở UDRP, tại Châu Á có một số Trung tâm quản lý mạng quốc gia đã áp dụng chính sách này như Trung Quốc, Singappore, HongKong,… dể giải quyết tranh chấp tên miền quốc gia tại nước họ.
b) Căn cứ giải quyết tranh chấp tên miền:
Ngày 24/12/2008, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số 10/2008/TT-BTTTT quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp tên miền quốc gia Việt Nam ".vn".
1. Ngoài các yêu cầu về điều kiện khởi kiện và yêu cầu về nội dung đơn khởi kiện theo quy định của pháp luật, nội dung đơn khởi kiện tranh chấp tên miền của Người khiếu kiện còn phải đảm bảo đầy đủ ba điều kiện sau:
1.1. Tên miền tranh chấp trùng hoặc giống đến mức nhầm lẫn với tên của Người khiếu kiện; trùng hoặc giống đến mức nhầm lẫn với nhãn hiệu thương mại hay nhãn hiệu dịch vụ mà Người khiếu kiện là người có quyền hoặc lợi ích hợp pháp.
1.2. Người bị khiếu kiện không có quyền hoặc lợi ích hợp pháp liên quan đến tên miền đó.
1.3. Tên miền đã được Người bị khiếu kiện sử dụng với ý đồ xấu đối với Người khiếu kiện.
2. Các hành vi sử dụng tên miền với ý đồ xấu
3. Bằng chứng cho quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến tên miền gia Việt Nam “.vn” như sau:
Các hình thức giải quyết tranh chấp tên miền:
Căn cứ Điều 76 - Luật Công nghệ Thông tin số; Điều 17 - Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet; Thông tư số 10/2008/TT-BTTTT đã quy định cụ thể về các hình thức giải quyết tranh chấp tên miền quốc gia Việt Nam ".vn" như sau:
1. Thông qua thương lượng, hòa giải
1.1. Các bên có thể thực hiện việc hòa giải trước hoặc trong quá trình tố tụng. Thủ tục hòa giải trước hoặc trong quá trình tố tụng được thực hiện theo quy định của pháp luật.
1.2. Trong trường hợp các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp, các bên phải lập Biên bản hòa giải thành theo quy định của pháp luật và Biên bản này phải được gửi đến Nhà đăng ký tên miền ".vn" liên quan hoặc VNNIC để làm cơ sở xử lý tên miền tranh chấp.
2. Thông qua Trọng tài
Các bên có thể lựa chọn hình thức trọng tài để giải quyết tranh chấp tên miền phát sinh trong hoạt động thương mại. Thủ tục giải quyết tranh chấp tên miền phát sinh trong hoạt động thương mại tại các Trung tâm trọng tài được thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Khởi kiện tại Tòa án
Các bên có thể yêu cầu tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp tên miền trong quan hệ dân sự và hoạt động thương mại. Thủ tục giải quyết các tranh chấp tên miền trong quan hệ dân sự hay hoạt động thương mại tại tòa án nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Theo đó, VNNIC không có thẩm quyền giải quyết các trường hợp phát sinh tranh chấp tên miền. Các bên liên quan phải thống nhất để lựa chọn các hình thức giải quyết tranh chấp tên miền phù hợp.
Xử lý tên miền có tranh chấp:
Hiện tại, việc đăng ký và sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam “.vn” được thực hiện theo nguyên tắc "Bình đẳng, không phân biệt đối xử" và "Đăng ký trước được quyền sử dụng trước". Vì vậy các Doanh nghiệp, tổ chức lưu ý đăng ký sớm các tên miền có liên quan để tránh các tranh chấp phát sinh về tên miền.
c) Những trường hợp thực tế:
i) Tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa:
Tại Việt Nam trong thời gian qua, các tranh chấp tên miền liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa là tranh chấp phổ biến:
Tranh chấp liên quan đến tên miền ebay.com.vn:
Vụ việc tranh chấp tên miền ebay.com.vn giữa Công ty eBbay Inc có trụ sở tại số 2145 Hamilton Avenue San Jose Hoa Kỳ (gọi tắt là eBay - một Công ty chuyên kinh doanh về dịch vụ đấu giá qua mạng và thương mại điện tử, hiện là chủ nhãn hiệu hàng hóa "EBAY" được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam) và Công ty TNHH Mộc Mỹ có địa chỉ tại Thành phố Hồ Chí Minh - chủ thể đăng ký, sử dụng tên miền ebay.com.vn đã kéo dài trong suốt 2 năm vừa qua mà chưa có hồi kết.
Theo như đơn trình bày, eBay cho rằng cái tên "eBay" rất nổi tiếng vì:
- Hoạt động từ năm 1995, eBay bắt đầu như một nơi giao dịch các mặt hàng sưu tầm và khó kiếm. Từ đó, eBay đã phát triển thành một ngôi chợ nơi mọi người có thể tìm thấy bất cứ mặt hàng nào từ điện thoại di động và đĩa DVD cho đến quần áo, đồ sưu tầm và xe hơi (thông tin cung cấp trên Website www.eBay.vn).
- eBay đã hiện diện tại 33 thị trường lớn trên thế giới;
- Tính đến thời điểm ngày 30/9/2006, có hơn 212 triệu người trong đó có hơn 32.000 người từ Việt Nam đăng ký sử dụng dịch vụ của eBay và theo dữ liệu của Trung tâm Dữ liệu Quốc tế và kết quả cuộc điều tra vào tháng 4/2005 của Trung tâm Census Hoa Kỳ, nếu eBay là một quốc gia thì dân số của nó (người đăng ký sử dụng dịch vụ) sẽ đứng hàng thứ 5 trên thế giới, chỉ sau dân số của Trung Quốc, Ấn Độ, Hoa Kỳ và In-đô-nê-xi-a, đồng thời vẫn tiếp tục tăng thêm hàng ngày;
- Trong 1 giây, trị giá hàng hóa và dịch vụ được buôn bán qua trang Web www.eBay.com là 1.500 đô la Mỹ;
- Mỗi ngày, gần 6 triệu mặt hàng thuộc trên 50.000 chủng loại hàng hóa được giới thiệu trên mạng eBay;
- Nhãn hiệu "eBay" được đăng ký trên toàn thế giới, trong đó tại Việt Nam, nhãn hiệu này được đăng ký từ ngày 01/02/2002.
Theo thông tin trong đơn khiếu nại mà eBay cung cấp, trên khắp thế giới, eBay đã đăng ký trên 2.500 tên miền mà có chứa cụm từ "eBay", trong đó có 7 tên miền đăng ký tại Việt Nam nhưng một điều rất đáng tiếc là trong số đó không có tên miền ebay.com.vn mặc dù nhãn hiệu hàng hóa "eBay" đã được lưu ý đăng ký từ năm 2002.
Chính vì sơ suất này mà khi triển khai cung cấp dịch vụ tại Việt Nam, eBay đã gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù Công ty này đã đăng ký và triển khai cung cấp dịch vụ mua bán trực tuyến qua tên miền ebay.vn từ ngày 01/6/2006 để qua đó kết nối người dùng Việt Nam với thị trường trực tuyến toàn cầu của eBay nhưng tên miền ebay.vn vẫn không thể bao trùm được các lợi thế của tên miền ebay.com.vn (dưới đuôi .COM.VN được dành cho các tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại tại Việt Nam). Chính vì lý do đó mà eBay, thông qua các đại diện pháp lý tại Việt Nam đã phải nộp đơn theo đuổi vụ việc trong suốt 2 năm quan để nhằm giành lại quyền sử dụng tên miền này.
Đầu năm 2005, sau khi phát hiện ra tên miền ebay.com.vn đã được đăng ký bởi Công ty TNHH Mộc Mỹ, Công ty eBay đã ủy quyền cho Công ty Sở hữu trí tuệ D&N làm đại diện pháp lý nộp đơn khiếu nại lên Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC) đề nghị thu hồi tên miền ebay.com.vn và cấp phát lại cho eBay Hoa Kỳ. Đại diện của eBay lập luận Công ty TNHH Mộc Mỹ đã gắn nhãn hiệu EBAY của Công ty eBay Hoa Kỳ lên phương tiện cung cấp dịch vụ đấu giá qua mạng mà Công ty TNHH Mộc Mỹ đang cung cấp và hành vi này là vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa của chủ nhãn hiệu - Công ty eBay Hoa Kỳ. Tuy nhiên theo Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet tại thời điểm eBay nộp đơn, Trung tâm Internet Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại hành chính về quy trình tiếp nhận hồ sơ đăng ký tên miền theo quy tắc đăng ký trước được xét cấp trước cũng như các khiếu nại trong quá trình thu nộp phí duy trì tên miền. Đối với các khiếu nại có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tên miền giữa các bên, Trung tâm Internet Việt Nam chỉ có nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi để các bên tự thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Theo đó, VNNIC đã cung cấp thông tin liên hệ và yêu cầu eBay tự thỏa thuận giải quyết tranh chấp với Công ty TNHH Mộc Mỹ nhưng việc liên hệ thỏa thuận của các bên đã không thành.
Trong thời gian này, Công ty TNHH Mộc Mỹ đã đổi tên thành Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ À Lô triển khai các dịch vụ thiết kế trang Web, cung cấp và lưu trữ thông tin trên mạng. Tên miền EBAY.COM.VN lúc này cũng đã được trỏ về cùng giao diện Web với tên miền www.alo.com.vn.
Đầu năm 2007, eBay tiếp tục ủy quyền cho đại diện pháp lý mới là Công ty Luật Russin & Vecchi nộp đơn khiếu nại lần 2 lên Trung tâm Internet Việt Nam đề nghị hủy bỏ hiệu lực đăng ký tên miền "ebay.com.vn" của Công ty TNHH Mộc Mỹ và xin cấp tên miền này cho eBay. Đại diện của eBay lập luận: Việc Công ty Mộc Mỹ (tên mới Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ À Lô) đăng ký và sử dụng tên miền ebay.com.vn là hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế cũng như quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam, tên miền không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Sở hữu trí tuệ. Việc giải quyết các tranh chấp lúc này thuộc lĩnh vực tranh chấp về đăng ký, sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam ".vn" và phải tuân thủ theo các quy định của Luật Công nghệ thông tin với các hình thức giải quyết cụ thể bao gồm: 1/ Thông qua thương lượng, hòa giải; 2/ Thông qua trọng tài; 3/ Khởi kiện tại tòa án. Do việc thương lượng, hòa giải đã không thành, nên hình thức thông qua trọng tài cũng khó thực hiện cho eBay vì muốn đem vụ việc ra giải quyết tại cơ quan trọng tài thì cần phải có sự chấp thuận của cả hai bên, cùng thống nhất sẽ giải quyết vụ việc thông qua con đường trọng tài. Vậy xem ra eBay chỉ còn một cách duy nhất là đem vụ việc ra khởi kiện tại tòa án và vụ việc hiện vẫn chưa đến hồi kết.
Tháng 9/2007, eBay thông qua đại diện pháp lý mới là Công ty BateyBurn đồng thời cử Giám đốc phụ trách eBay Đông Nam Á trực tiếp thu thập thông tin để tiếp tục theo đuổi vụ việc và chuẩn bị các thủ tục khiếu kiện cần thiết. Điều này có thể thấy rằng eBay đã mất rất nhiều công sức, thời gian cũng như tiền bạc để theo đuổi vụ việc mà vẫn chưa biết kết quả phán quyết cuối cùng của tòa án ra sao.
Như vậy, chỉ vì một sơ suất không đăng ký kịp thời tên miền, Công ty eBay đã gặp phải hàng loạt những khó khăn, phiền toái trong quá trình mở rộng kinh doanh dịch vụ của mình tại Việt Nam. Mặc dù eBay đã đăng ký được tên miền eBay.vn nhưng vẫn chưa đủ để tránh được các rắc rối cũng như chưa phát huy được hiệu quả khi mà những đuôi tên miền phổ dụng liên quan đến lĩnh vực thương mại, dịch vụ như .com.vn, .biz.vn đều có khả năng thu hút truy cập cao và hiện vẫn đang được biết đến như các tên thương mại.
Kinh nghiệm qua trường hợp này cho thấy: Các doanh nghiệp, các chủ nhãn hiệu cần hết sức lưu ý tới việc sớm đăng ký đầy đủ những tên miền quốc gia Việt Nam dưới các đuôi tên miền có sức thu hút truy cập cũng như khả năng quảng bá cao như .vn, .com.vn, .biz.vn, .info.vn,... ngay tại thời điểm nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa hoặc khi có kế hoạch kinh doanh dịch vụ để chiếm được các lợi thế về quảng bá cũng như tránh được các phiền toái có thể gặp phải sau này
ii) Tranh chấp liên quan tới tên tổ chức, doanh nghiệp:
Dưới đây là một số trường hợp tranh chấp liên quan đến tên tổ chức, doanh nghiệp phát sinh sau thời điểm kết thúc giai đoạn ưu tiên đăng ký tên miền cấp 2. VN (kể từ 16h30 ngày 14/8/06), VNNIC cho phép đăng ký tự do tên miền cấp 2.VN. Suốt giai đoạn ưu tiên nhiều tổ chức, doanh nghiệp trong đó có các tổ chức, doanh nghiệp đã không mấy “mặn mà” trong việc đăng ký giữ tên miền liên quan đến tên tổ chức, doanh nghiệp của mình dù đã được VNNIC thông báo khuyến cáo liên tục trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, truyền hình, gửi email ..) dẫn đến hậu quả là mất tên miền và một tranh chấp mới phát sinh.
Tranh chấp liên quan đến tên miền nld.vn và nguoilaodong.vn:
Vụ việc tranh chấp liên quan tên miền nld.vn và nguoilaodong.vn giữa Báo Người Lao động thuộc Liên đoàn Lao động của và Công ty TNHH Điểm tin VNR và ScorpioDev Group – chủ thể đăng ký tên miền nld.vn và nguoilaodong.vn.
Thậm chí như trường hợp của Báo Người Lao động dù đã có khiếu nại, yêu cầu VNNIC thu hồi tên miền nguoilaodong.vn do chủ thể ScorpioDev Group đăng ký. Tuy nhiên, sau khi tên miền này hết hạn do ScorpioDev Group đã không đóng phí duy trì cho năm tiếp theo nên tên miền nguoilaodong.vn ở trạng thái tự do nhưng Báo Người Lao động vẫn không đăng ký. Vấn đề ở đây liệu có phải là do sự ung dung chậm chân hay do yếu tố khách quan hoặc chủ quan gì khác mà Báo Người Lao động không thể chủ động theo dõi, quan tâm đến tên miền liên quan đến tên gọi của mình. Nếu có một chủ thể khác lại đăng ký tên miền này hoặc các tên miền tương tự liên quan đến Báo Người Lao động thì một vụ khiếu nại mới sẽ lại phát sinh tiếp. Và mấu chốt của vấn đề là ở đó, các khiếu nại, tranh chấp phát sinh sẽ ngày một nhiều trong thời gian tới xuất phát chính là từ quan điểm, nhận thức về việc bảo vệ tên miền của các tổ chức, doanh nghiệp: tên miền liên quan đến tên thương mại, nhãn hiệu của mình nếu mình không đăng ký thì cũng không ai có quyền được đăng ký và sử dụng.
iii) Tranh chấp, khiếu nại phát sinh do quản lý tên miền lỏng lẻo:
Quản lý lỏng lẻo hoặc không chủ động theo dõi việc đăng ký, duy trì tên miền dẫn đến tên miền được đăng ký với tên của một chủ thể khác không liên quan đến mình, hoặc tên miền bị quá hạn mà không được tiếp tục duy trì tiếp ... là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến mất tên miền, phát sinh các khiếu nại và tranh chấp.
Khiếu nại liên quan đến tên miền oscvietnamtravel.com.vn:
Trung tâm Internet Việt Nam đã nhận được đề nghị xin được hỗ trợ giải quyết khiếu nại từ Trung tâm Dịch vụ Du lịch OSC Việt Nam liên quan đến tên miền oscvietnamtravel.com.vn. Sau khi có tên miền, Trung tâm Dịch vụ Du lịch OSC Việt Nam muốn đưa tên miền oscvietnamtravel.com.vn vào hoạt động để phục vụ cho công việc. Tuy nhiên, Trung tâm Dịch vụ Du lịch OSC Việt Nam lại gặp khó khăn vì trước đó đã ủy quyền ủy quyền đăng ký tên miền oscvietnamtravel.com.vn cho Công ty Cổ phần Ứng dụng và Phát triển Công nghệ Á Đông (Công ty Á Đông), và nay đã không liên hệ được.
Qua rà soát trong cơ sở dữ liệu tên miền quốc gia, tên miền oscvietnamtravel.com.vn được đăng ký ngày 9/02/2009 qua Nhà đăng ký tên miền Công ty Tin học Bưu điện – NETSOFT với tên chủ thể là Công ty Á Đông. Trước đó, Trung tâm Dịch vụ Du lịch OSC Việt Nam đã có ký hợp đồng với bên cung cấp dịch vụ - Công ty Á Đông giao Công ty này toàn quyền đứng tên đăng ký, kiểm soát tên miền nói trên. Căn cứ theo hồ sơ đăng ký tên miền thì chỉ có Công ty Á Đông mới có quyền yêu cầu thay đổi, trả lại tên miền này.
Sự việc rắc rối nói trên giữa Trung tâm Dịch vụ Du lịch OSC Việt Nam và Công ty Á Đông phát sinh từ chính sự chủ quan của Trung tâm Dịch vụ Du lịch OSC Việt Nam, do không ràng buộc điều khoản quyền lợi và trách nhiệm chặt chẽ khi làm hợp đồng cung cấp dịch vụ với Công ty Á Đông. Công ty Á Đông cũng không phải là đại lý cung cấp tên miền, đại lý cấp dưới được ủy quyền chính thức của Nhà đăng ký tên miền “.vn” mà chỉ là đăng ký tên miền cho chính mình rồi cho bên thứ 3 sử dụng lại. Để có thể giải quyết việc này, Trung tâm Dịch vụ Du lịch OSC Việt Nam buộc phải chủ động liên hệ với Công ty Á Đông để giải quyết trên cơ sở các thỏa thuận đã ký trước đó giữa hai bên.
Phụ lục tham khảo:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Pháp lý trong thuơng mại điện tử.doc