Trước hết, cần tiến hành rà soát lại hiện trạng công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế trong thời gian vừa qua, qua đó đánh giá được những mặt đạt được và những nhước điểm vẫn còn tồn tại, qua đó nghiên cứu xây dựng các quy định pháp luật cho phù hợp với tính hình thực tế.
Rà soát, sửa đổi và bổ sung quy trình thanh tra thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế dựa trên các chuẩn mực quốc tế, trong đó bộ phận phân tích thông tin, đánh giá rủi ro tách biệt với bộ phận trực tiếp thanh tra, kiểm tra tại cơ sở. Qua đó mới nâng cao được tính chính xác, minh bạch của kết quả kiểm tra, thanh tra.
Nâng cao đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm thuế theo hướng tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan thuế và các cơ quan bảo vệ pháp luật, quản lí thị trường và các ngành có liên quan để chống buôn lậu, trốn thuế, gian lận thuế, tạo điều kiện cho các cơ quan pháp luật phát hiện và xử lí kịp thời các vi phạm pháp luật thuế.
Đẩy mạnh, nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế dưới nhiều hình thức phong phú. Hướng dẫn đầy đủ các thủ tục có liên quan đến thủ tục thuế để người nộp thuế tự mình thực hiện tốt các nghĩa vụ về thuế. Cơ quan thuế cần chủ động phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục quốc dân, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật để mọi tổ chức cá nhân hiểu biết rõ và tự giác nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
16 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 3786 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế - Thực trạng và kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tra thuế được thực hiện theo định kì đối với người nộp thuế lớn, ngành nghề kinh doanh đa dang, quy mô lớn và phức tạp; hoặc đối với người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế và thanh tra để giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lí thuế các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ tài chính.
Với tư cách là chức năng thiết yếu trong quá trình quản lí thuế, khái niệm kiểm tra, thanh tra có những nét tương đồng về mục đích- đều nhằm phát hiện, ngăn ngừa và xử lí vi phạm pháp luật thuế, góp phần thúc đẩy cá nhân, tổ chức hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình. Cả thanh tra, kiểm tra thuế đều phải xem xét hoạt động thực tế của đối tượng chịu sự quản lí, qua đó phát hiện đánh giá thực trạng tình hình một cách khách quan, chính xác để có biện pháp khắc phục và xử lí sai phạm.Tuy nhiên, giữa thanh tra và kiểm tra vẫn có những khác biệt về chủ thể tiến hành, nội dung công tác…
Xử lý vi phạm pháp luật thuế:
Vi phạm pháp luật thuế là hành vi làm trái các qui định của pháp luật thuế, do các tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng. Trang 311 giáo trình luật thuế Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà nội – NXB công an nhân dân- Hà Nội 2008.
Xử lý vi phạm pháp luật thuế chính là việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động nhất định để áp dụng chế tài đối với các chủ thể vi phạm pháp luật thuế. Trong thực tiễn pháp lí, các hành vi vi phạm pháp luật thuế diễn ra rất đa dạng, tinh vi và hức tạp với nhiều dạng thức khác nhau. Tuy nhiên, về phương diện bản chất, mỗi vi phạm đó đều thuộc về một trong các loại hành vi vi phạm chủ yếu : vi phạm hành chính về thuế, vi phạm hình sự về thuế.
Thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế là những hoạt động đôc lập trong công tác quản lí thuế nhưng chúng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau. Giữa kiểm tra thuế và thanh tra thuế có sự khác biệt nhưng đều có mối quan hệ với xử lý vi phạm pháp luật thuế. Điều đó thể hiện, kết quả của công tác kiểm tra, thanh tra thuế là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xác định đối tượng nộp thuế có vi phạm pháp luật thuế không, để tiến hành xử lý vi phạm pháp luật thuế.
Mục tiêu của thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế trong công tác quản lí thuế của nước ta hiện nay.
Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế nhằm những mục tiêu:
Thứ nhất, phòng ngừa, phát hiện và xử lí các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Công tác thanh tra, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của các cơ quan quản lí thuế nhằm đảm bảo cho các quy định về thu nộp thuế được tiến hành một cách đầy đủ. Chính tính chất thường xuyên của thanh tra, kiểm tra thuế đã có tính chất phòng ngừa, phát hiện cá vi phạm pháp luật thuế. Các cuộc thanh tra thuế sẽ chỉ rõ các sai phạm của đối tượng bị thanh tra, có tính chất răn đe đối với những người có ý định vi phạm pháp luật.
Thứ hai, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của các chính sách thuế mà nhà nước ban hành. Bảo đảm không bị thất thoát các khoản thu thuế của ngân sách nhà nước.
Thứ ba, bảo đảm pháp luật thuế được thi hành nghiêm trên thực tế, bảo đảm sự công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế.
Thứ tư, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lí thuế mà cụ thể là các cán bộ thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế, nâng cao ý thức trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật.
Nội dung của pháp luật thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
Hệ thống pháp luật hiện hành ở Việt Nam về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
Thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế là một lĩnh vực đặc thù cần có những quy phạm pháp luật riêng và có hiệu lực pháp lí cao điều chỉnh. Bởi vì công tác quản lí thuế ảnh hưởng lớn tới số thu của ngân sách nhà nước cũng như lợi ích của người nộp thuế. Có thể nói rằng các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm pháp luật thuế luôn tồn tại cùng với các quy định về quản lí thuế. Trong đó, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh chung các hoạt động thanh tra, kiểm tra và xư lí vi phạm pháp luật thuế bao gồm:
Luật QLT được Quốc hội thông qua ngày 29/ 11/ 2006;
Nghị định 85/ 2007/ NĐ- CP ngày 25/ 5/ 2007 quy định chi tiết thi hành một số điều về Luật QLT;
Thông tư số 60/ 2007/ TT- BTC của Bộ tài chính ngày 14/ 6/ 2007 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật QLT và hướng dẫn thi hành Nghị định 85/ 2007/ NĐ- CP.
Quyết định số 2476/ 2007/ QĐ- BTC về việc đính chính Thông tư số 60/ 2007/ TT- BTC.
Trong lĩnh vực thanh tra và kiểm tra, các văn bản chuyên ngành còn có:
Luật Thanh tra 2004;
Quyết định 1322/ 2004/ QĐ- TCT ngày 30/ 8/ 2004 của Tổng cục thuế ban hành quy trình thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế.
Quyết định 1166/ 2005/ QĐ- TCT ngày 31/ 10/ 2005 về ban hành quy trình thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp.
Ngoài ra, công tác thanh tra, kiểm tra thuế còn chịu sự điều chỉnh gián tiếp của Pháp lệnh cán bộ, công chức, Luật khiếu nại tố cáo…
Trong công tác xử lí vi phạm pháp luật thuế, các văn bản chuyên ngành còn có:
Nghị định số 98/ 2007/ NĐ- CP ngày 7/ 6/ 2007 của Chính phủ quy định về xử lí vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
Nghị định số 13/ 2009/ NĐ- CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/ 2007/ NĐ- CP.
Thông tư số 61/ 2007/ TT- BTC ngày 14/ 6/ 2007 của Bộ tài chính hướng dẫ thực hiện xử lí vi phạm pháp luật về thuế.
Quyết định của BTC số 2538/ QĐ- BTC về việc đính chính thông tư số 61/ 2007/ TT- BTC.
Và còn một số văn bản khác như pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002, các thông tư trong xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế…
Có thể khẳng định rằng trong thời gian vừa qua, pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế- một bộ phận quan trọng của pháp luật QLT luôn được Nhà nước quan tâm xây dựng và hoàn thiện để đáp ứng với công tác QLT trong tình hình mới, phù hợp với sự phát triển kinh tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập của Việt Nam, đặc biệt kể từ khi Nhà nước ta áp dụng phương thức quản lí thuế mới theo cơ chế “ tự khai, tư nộp thuế”, một phương thức QLT tiên tiến hiện đại đang được nhiều quốc gia áp dụng. Với các quy định về nội dung khá đầy đủ đã tạo cơ sở cho các cơ quan quản lí thuế thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm của mình, đồng thời giúp đối tượng nộp thuế ngày càng có ý thức hơn trong thực hiện nghĩa vụ thuế của mình.
Nội dung thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế trong pháp luật hiện hành.
Quy định của pháp luật về thanh tra thuế.
Theo những quy định pháp luật hiện hành, thanh tra thuế có những nội dung cơ bản sau:
Chủ thể có thẩm quyền thanh tra thuế: căn cứ vào khoản 3 điều 9 Luật QLT, chủ thể có thẩm quyền thanh tra thuế là cơ quan quản lý thuế . Cơ quan quản lý thuế bao gồm cơ quan thuế và cơ quan hải quan.
Cơ quan quản lý thuế lập đoàn thanh tra thuế để tiến hành thanh tra thuế. Đoàn thanh tra thuế là bao gồm các thanh tra viên. Các thanh tra viên phải là những người có đủ tiêu chuẩn phù hợp với công tác quản lý thuế. Tiêu chuẩn thanh tra viên do Bộ tài chính ban hành( Điều 38 nghị định số 85/2007/NĐ-CP.)
Đối tượng bị thanh tra thuế: Đối tượng bị thanh tra thuế là người nộp thuế thuộc một trong các trường hợp sau: Doanh nghiệp có nghành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng; Người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế; Theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp, theo yêu cầu của Bộ trưởng bộ tài chính; Thanh tra thuế để giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Hình thức , trình tự thủ tục thanh tra thuế: Dựa theo quy định tại Điều 81 luật QLT, có hai loại thanh tra thuế là : Thanh tra thuế theo kế hoạch và thanh tra thuế không theo kế hoạch.
Thanh tra thuế theo kế hoạch: Thanh tra thuế theo kế hoạch chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp có nghành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng. Thanh tra định kỳ một năm không quá một lần và được thực hiện căn cứ vào kế hoạch thanh tra hàng năm đã được phê duyệt. Việc lập kế hoạch thanh tra phải dựa trên cơ sở phân tích thông tin về người nộp thuế .Từ đó phát hiện và lập danh sách người nộp thuế có dấu hiệu bất thường trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế để lựa chọn đối tượng lập kế hoạch thanh tra. Căn cứ vào khoản 3 và khoản 4 Điều 37 Nghị định số 85/2007/NĐ-CP, kế hoạch thanh tra thuế của cơ quan thuế cấp dưới phải gửi lên cơ quan thuế cấp trên. Nếu có sự trùng lặp đối tượng thanh tra , cơ quan thuế cấp trên sẽ thực hiện việc kế hoạch thanh tra với đối tượng thanh tra đó. Trường hợp cơ quan thanh tra nhà nước có kế hoạch thanh tra thuế trùng với kế hoạch thanh tra của cơ quan thuế sẽ ưu tiên kế hoạch thanh tra thuế của cơ quan thanh tra nhà nước.
Thanh tra không theo kế hoạch: Thanh tra không theo kế hoạch sẽ áp dụng cho các đối tượng sau:
Người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế: Căn cứ vào khoản 2 Điều 36 nghị định số 85/2007/NĐ-CP ,Cơ quan hải quan thực hiện việc thanh tra thuế trong trường hợp phát hiện người nộp thuế có một trong những dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế như : người nộp thuế có hành vi vi phạm pháp luật thuế nhưng đã vi phạm nhiều lần, vi phạm tại nhiều địa bàn khác nhau, liên quan đến nhiều tổ chức cá nhân ; hoặc có dấu hiệu trốn thuế ; hoặc trong khi kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế, người nộp thuế có dấu hiệu tẩu tán tài liệu, tang vật có liên quan nhằm trốn thuế, gian lận thuế; hoặc sau khi tiến hành kiểm tra thuế hoặc sau khi ra hạn thời gian kiểm tra thuế, cơ quan hải quan có căn cứ về việc người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm mới hoặc vụ kiểm tra có tính chất phức tạp nghiêm trọng.
Thanh tra theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp, theo yêu cầu của Bộ trưởng Bộ tài chính
Thanh tra để giải quyết khiếu nại tố cáo: Điều 42 Nghị định số 85/2007/NĐ-CP qui định quyền khiếu nại, tố cáo của người nộp thuế, tổ chức, cá nhân. Cụ thể, cơ quan quản lý thuế có thể quyết định thanh tra thuế khi có đơn khiếu nại của các người nộp thuế, tổ chức, cá nhân hoặc có đơn tố cáo của công dân. Khi nhận được đơn khiếu nại, đơn tố cáo, cơ quan quản lý thuế sẽ xem xét nội dung đơn, xem xét các vấn đề có liên quan. Nếu có đủ căn cứ thì ra quyết định thanh tra thuế để làm rõ sự việc nêu trong đơn khiếu nại, tố cáo.
Qui định như vậy là rất hợp lý bởi lẽ, có nhiều trường hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức phát hiện được hành vi vi phạm pháp luật của người nộp thuế và nhờ hành vi tố cáo của họ mà cơ quan thuế kịp thời phát hiện hành vi vi phạm của người nộp thuế, và giảm tải được công việc cho cơ quan quản lý thuế.
Việc thanh tra thuế được thực hiện khi có quyết định thanh tra. Số lần thanh tra thuế và thời gian thanh tra trong mỗi lần phải thực hiện theo kế hoạch thanh tra đã được thủ trưởng cơ quản lý thuế phê duyệt ( qui định tại điều 37 nghị định số 85/2007/NĐ-CP) .
Đặc biệt, Luật QLT dành mục 4 chương X để qui định các biện pháp áp dụng trong thanh tra thuế đối với trường hợp có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế. Cụ thể: Khi người nộp thuế có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế liên quan đến các cá nhân , tổ chức khác hoặc có dấu hiệu trốn thuế , gian lận thuế có tính chất phức tạp, người có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp sau: Thu nhập thông tin liên quan đến hành vi trốn thuế , gian lận thuế; Tạm giữ tài liệu tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế; Khám nơi cất giấu tài liệu , tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế.
Quy định của pháp luật về kiểm tra thuế.
Kiểm tra thuế bao gồm các nội dung sau:
Chủ thể có thẩm quyền kiểm tra thuế: căn cứ vào khoản 3 điều 9 Luật QLT , chủ thể có thẩm quyền kiểm tra thuế là cơ quan quản lý thuế . Cơ quan quản lý thuế bao gồm cơ quan thuế và cơ quan hải quan. Cơ quan thuế gồm Tổng cục thuế , cục thuế, chi cục thuế. Cơ quan hải quan có Tổng cục hải quan, cục hải quan, chi cục hải quan.
Đối tượng bị kiểm tra thuế: Đối tượng bị kiểm tra thuế là người nộp thuế.
Người nộp thuế là người có nghĩa vụ nộp các khoản thuế do các luật thuế qui định. Người nộp thuế được qui định cụ thể tại Điều 2 nghị định số
Phạm vi tiến hành: Kiểm tra thuế thường được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, với nhiều hình thức và phương pháp kiểm tra thích hợp với yêu cầu, đặc điểm của từng khách thể điều tra.Hoạt động kiểm tra thuế được tiến hành trong thời gian tối đa không quá 5 ngày.
Hình thức, trình tự thủ tục kiểm tra thuế: Điều 77 và Điều 78 Luật QLT 2006 nghi nhận 2 hình thức kiểm tra thuế là : Kiểm tra thuế tại trụ sở cơ quan quản lý thuế và kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế.
Kiểm tra thuế ở cơ quan quản lý thuế là kiểm tra dựa trên hồ sơ của người nộp thuế. Việc kiểm tra thuế ở cơ quan quản lý thuế được tiến hành theo trình tự thủ tục sau:
Khi các hồ sơ thuế của người nộp thuế gửi đến cơ quan thuế, công chức thuế tiến hành kiểm tra nội dung kê khai trong hồ sơ thuế, đối chiếu với cơ sở dữ liệu của người nộp thuế và tài liệu liên quan về người nộp thuế, so sánh các dữ liệu nộp thuế cùng nghành nghề, mặt hàng kinh doanh để phân tích, đánh giá mức độ tuân thủ hoặc phát hiện các trường hợp khai chưa đầy đủ thông tin, khai sai thông tin nhằm trốn thuế, lậu thuế, gian lận thuế.
Sau khi kiểm tra, công chức thuế xác nhận kết quả kiểm tra thuế vào hồ sơ thuế : Nếu hồ sơ khai thuế bảo đảm tính đầy đủ , chính xác của các thông tin , tài liệu, không có dấu hiệu vi phạm thì chấp nhận. Nếu hồ sơ chưa đủ tài liệu theo qui định của pháp luật hoặc khai chưa đầy đủ các chỉ tiêu theo qui định ,cơ quan thuế thông báo cho người nộp thuế biết để hoàn chỉnh hồ sơ.
Trường hợp qua kiểm tra đối chiếu so sánh phân tích thấy có nội dung khai chưa đúng , số liệu khai không chính xác hoặc có nội dung cần xác minh liên quan đến số tiền phải nộp thuế, số tiền được miễn thuế, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế được hoàn, cơ quan thếu ra thông báo bằng văn bản đề nghị người nộp thuế phải giải trình hoặc bổ sung thông tin, tài liệu.Thời gian giải trình hoặc bổ sung thông tin tài liệu trong hồ sơ thuế là không quá 10 ngày. Người nộp thuế có thể đến cơ quan thuế giải trình trực tiếp .
Sau khi người nộp thuế đã giải trình , bổ sung thông tin , tài liệu theo yêu cầu của cơ quan thếu mà chứng minh số thuế đã khai là đúng thì hồ sơ thuế được chấp nhận. Trường hợp người nộp thuế đã giải trình hoặc bổ sung thông tin tài liệu mà không đủ căn cứ chứng minh số thuế đã khai là đúng, cơ quan thuế yêu cầu người nộp thuế khai bổ sung. Thời hạn khai bổ sung là 5 ngày kể từ ngày cơ quan thuế có thông báo khai bổ sung. Nếu hết thời hạn theo thông báo của cơ quan thuế mà người nộp thuế không giải trình , bổ sung thông tin hoặc không khai bổ sung hồ sơ thuế, cơ quan thuế có quyền ấn định số thuế phải nộp và thông báo cho người nộp thuế biết hoặc ra quyết định kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế nếu không đủ căn cứ ấn định số thuế phải nộp.
Kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế: kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế chỉ được tiến hành khi thuộc các trường hợp qui định tại khoản 1 Điều 78 Luật QLT, cụ thể gồm: Hết thời hạn theo thông báo của cơ quan thuế mà người nộp thuế không giải trình , bổ sung thông tin hoặc không khai bổ sung hồ sơ thuế và cơ quan thuế không đủ căn cứ ấn định số thuế phải nộp, cơ quan thuế ra quyết định kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế ; kiểm tra sau thông quan.
Việc kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế chỉ thực hiện khi có quyết định kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế do thủ trưởng cơ quan thuế ban hành.
Trình tự, thủ tục kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế được qui định cụ thể tại khoản 2 Điều 78. Cụ thể: Công bố quyết định kiểm tra thuế khi bắt đầu tiến hành kiểm tra thuế; Đối chiếu nội dung khai báo với sổ kế toán, chứng từ kế toán, báo cáo tài chính, các tài liệu có liên quan, tình trạng thực tế trong phạm vi, nội dung của quyết định kiểm tra thuế; Lập biên bản kiểm tra thuế trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn kiểm tra; Xử lý theo thẩm quyền hoặc chuyển cấp có thẩm quyền xử lý theo kết quả kiểm tra.
2.3 Quy định của pháp luật về xử lí vi phạm pháp luật thuế.
Đối tượng bị xử lí vi phạm pháp luật thuế:
Theo Điều 1 Nghị định 98/2007, đối tượng bị xử lí vi phạm pháp luật về thuế bao gồm: người nộp thuế có hành vi vi phạm pháp luật về thuế; cơ quan thuế, công chức quản lí thuế vi phạm pháp luật về thuế; người có thẩm quyền và trách nhiệm xử lí vi phạm pháp luật về thuế; cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác liên quan đến việc xử lí vi phạm pháp luật về thuế.
Người nộp thuế bị xử lí vi phạm pháp luật thuế khi có các hành vi:chậm nộp hồ sơ đăng ký thuế, chậm thông báo thay đổi thông tin so với thời hạn quy định; khai không đầy đủ các nội dung trong hồ sơ thuế; chậm nộp hồ sơ khai thuế so với thời hạn quy định; vi phạm các quy định về cung cấp thông tin liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế; vi phạm quy định về chấp hành quyết định kiểm tra, thanh tra thuế, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế và vi phạm chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá vận chuyển trên đường; chậm nộp tiền thuế; khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn; trốn thuế, gian lận thuế.
Theo Điều 16 Nghị định 98/ 2007/ NĐ- CP, cơ quan quản lí thuế, công chức quản lí thuế bị xử lí vi phạm khi có các hành vi quy định tại Điều 112, 113 Luật QLT. Cụ thể:
Cơ quan quản lí thuế bị xử lí vi phạm pháp luật thuế khi có hành vi quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 112 - thực hiện không đúng theo quy định của Luật QLT, gây thiệt hại cho người nộp thuế.
Công chức quản lí thuế bị xử lí vi phạm pháp luật về thuế khi có một trong các hành vi theo khoản 1, 2 Điều 113 Luật QLT: gây phiền hà, khó khăn cho người nộp thuế làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người nộp thuế; thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc xử lý sai quy định của pháp luật về thuế.
Tổ chức, cá nhân có liên quan bị xử lí vi phạm pháp luật thuế khi có các hành vi quy định tại Điều 17 NĐ 98/ 2007/ NĐ- CP: thông đồng, bao che người nộp thuế trốn thuế, gian lận thuế, không thực hiện quyết định cưỡng chế hành chính thuế; không thực hiện trách nhiệm của mình theo Điều 98, 99, 100 Luật QLT.
Thẩm quyền xử lí vi phạm pháp luật về thuế được quy định tại Điều 109 Luật QLT và Điều 18, 19 Nghị định 98/2007/NĐ-CP , chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuế gồm: Cơ quan thuế và chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp.
Thời hiệu xử lí vi phạm pháp luật về thuế quy định tại Điều 110 Luật QLT. Cụ thể:
“ 1. Đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế, thời hiệu xử phạt là hai năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện.
2. Đối với hành vi vi trốn thuế, gian lận thuế chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, hành vi chậm nộp tiền thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế, thời hiệu xử phạt là năm năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện.
3. Quá thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế thì người nộp thuế không bị xử phạt nhưng vẫn phải nộp đủ số tiền thuế thiếu, số tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận vào ngân sách nhà nước.”
Như đã nói, các hành vi vi phạm tuy đa dạng nhưng thuộc một trong các loại hành vi vi phạm chủ yếu : vi phạm hành chính về thuế, vi phạm hình sự về thuế.
Hành vi vi phạm hành chính thuế là hành vi làm trái các qui định pháp luật hành chính trong lĩnh vực thuế , do các tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến các lợi ích mà các luật thuế bảo vệ nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Người vi phạm hành chính thuế phải chịu trách nhiệm hành chính. Trang 314 giáo trình luật thuế Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà nội – NXB công an nhân dân- Hà Nội 2008.
Hành vi vi phạm hình sự về thuế là hành vi làm trái các qui định pháp luật hình sự , do các tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý , xâm hại đến các lợi ích phát sinh từ quan hệ nộp thuế được Bộ luật hình sự năm 1999( sửa đổi bổ sung năm 2009) bảo vệ. Trang 315 giáo trình luật thuế Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà nội – NXB công an nhân dân- Hà Nội 2008.
Điều kiện, trình tự, thủ tục xử lý vi phạm pháp luật thuế:
Đối với xử lý vi phạm hành chính thuế: văn bản pháp luật điều chỉnh xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế là nghị định số 98/2007/NĐ-CP, Nghị định số 13/2009/NĐ-CP .
Điều kiện để xử phạt vi phạm hành chính thuế : Tổ chức, cá nhân chỉ bị xử phạt hành chính thuế khi :
*Thực hiện các hành vi qui định ở điều 103 Luật quản lý thuế ( vi phạm các quy định về thủ tục thuế; chậm nộp tiền thuế; Khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn; trốn thuế, gian lận thuế.)
*Có lỗi khi thực hiện hành vi: có thể là lỗi cố ý hoặc vô ý.
*Hành vi vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ Luật hình sự năm 1999.
Chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuế: Nhân viên thuế đang thi hành công vụ; Trạm trưởng Trạm Thuế, Đội trưởng đội Thuế; Chi cục trưởng Chi cục Thuế; Cục trưởng Cục Thuế; chủ tịch UBND các cấp.
Cách thức xử lý vi phạm hành chính thuế: Người vi phạm hành chính thuế sẽ bị áp dụng các chế tài hành chính thuế: phạt cảnh cáo, phạt tiền . Ngoài ra, còn có thể bị áp dụng hình thức phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
Hình thức xử phạt, mức xử phạt áp dụng với các hành vi vi phạm hành chính thuế được qui định cụ thể tại nghị định 98/2007/NĐ-CP và nghị định số 13/2009/NĐ-CP.
Đối với xử lý vi phạm hình sự thuế.
Văn bản điều chỉnh xử lý vi phạm hình sự thuế là Bộ luật hình sự năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật tố tụng hình sự năm 2003.
Trong đó, Bộ luật hình sự 1999 qui định những hành vi nào là hành vi vi phạm hình sự về thuế, qui định chế tài áp dụng cho hành vi vi phạm hình sự thuế. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 qui định trình tự, thủ tục thực hiện việc xử lý các hành vi vi phạm hình sự về thuế.
Khi người nộp thuế , cơ quan quản lý thuế hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan quản lý thuế vi phạm các qui định có liên quan đến lĩnh vực thuế được qui định trong Bộ luật hình sự 1999 thì hành vi đó được xác định là tội phạm. Theo qui định tại các điều 161, 278, 279, 281, 282, 285…Bộ luật hình sự năm 1999 , các hành vi vi phạm hình sự thuế được coi là tội phạm bao gồm các tội sau đây: Tội trốn thuế ( Điều 161); Tội tham ô tài sản( Điều 278); Tội nhận hối lộ ( Điều 279); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ ; ...
Khi có hành vi vi phạm pháp luật hình sự thuế , người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự mà biểu hiện cụ thể là chịu các hình phạt qui định tại điều 28 Bộ luật hình sự bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời hạn , tù chung thân.
Thủ tục xử lý vi phạm hình sự thuế được qui định trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 với các qui trình tố tụng trải qua nhiều giai đoạn như: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Trong nhiều trường hợp có thể còn có xét xử phúc thẩm ; giám đốc thẩm, tái thẩm.
Tuy trải qua nhiều giai đoạn tố tụng với sự tham gia của nhiều cơ quan khác nhau như cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án, cơ quan thi hành án nhưng việc tuyên bố một hành vi vi phạm hình sự về thuế là tội phạm chỉ thuộc thẩm quyền của toà án.
Đánh giá các quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
Kể từ khi ban hành Luật QLT, vấn đề về kiểm tra thuế, thanh tra thuế, xử lý vi phạm pháp luật thuế đã có những bước phát triển vượt bậc ,có nhiều điểm mới tiến bộ hơn so với trước đây, cụ thể : pháp luật quản lí thuế đã quy định rõ các nguyên tắc cơ bản về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế nhằm đổi mới và định hướng cho việc nâng cao hiệu quả của các công tác này; có sự phân định rõ ràng giữa thanh tra và kiểm tra thuế; cách thức kiểm tra thuế, thanh tra thuế, xử lý vi phạm pháp luật thuế đã có những bước đột phá mới phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay…
Tuy nhiên, pháp luật thanh tra , kiểm tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật thuế ở nước ta hiện nay vẫn còn một số hạn chế nhất định:
Thứ nhất, pháp luật thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế còn một số quy định chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu tính khả thi.
Pháp luật thanh tra, kiểm tra quy định về trách nhiệm của cơ quan thuế còn rất chung chung, không cụ thể. Tại khoản 3 Điều 85, Luật QLT quy định “ Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trưởng đoàn thanh tra thuế, thanh tra viên đoàn thanh tra thuế phải chịu trách nhiệm trước quyết định và hành vi của mình.” Trong khi Luật QLt đã quy định rất rõ về các quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế và khi người nộp thuế không chấp hành các nghĩa vụ của mình, họ có thể bị áp dụng các biện pháp như: kê biên tài sản, khấu trừ một phần tài sản…Khi thanh tra viên làm trái với nhiệm vụ quyền hạn của mình thì trách nhiệm pháp lí đến đâu và chế tài xử phạt như thế nào thì pháp luật chưa có quy định.
Luật QLT và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan thuế và các thanh tra viên gây ra trong quá trình thực thi nhiệm vụ quản lí thuế nói chung và thực thi chức năng thanh tra nói tiêng. Tại điều 79, điều 86 Luật QLT mới chỉ có quy định đối tượng kiểm tra, thanh tra thuế có quyền được khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tại thông tư 49/ 2008/ TT- BTC hướng dẫn về bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế, người khai hải quan do hành vi vi phạm của cán bộ, công chức thuế, cán bộ, công chức hải quan gây ra. Nhưng như thế nào được coi là đã gây thiệt hại cho người nộp thuế, người khai hải quan, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở mức độ nào, các hình thức bồi thường…thì thông tư trên chưa có quy định rõ.
Thứ hai, pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế hiện nay chưa đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, còn mang tính chắp vá, tản mạn.
Pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế không chỉ được qui định trong luật QLT và các văn bản hướng dẫn thi hành mà còn đựợc qui định rải rác ở trong nhiều các văn bản pháp luật khác có liên quan như : Luật thanh tra và nghị định hướng dẫn thi hành , luật khiếu nại tố cáo,...Do đó mà trong một số trường hợp đã không tạo ra được sự thống nhất. Điển hình như, trong qui trình thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp ban hành kèm theo quyết định 1166/QĐ-TCT ngày 31 tháng 10 năm 2005 của tổng cục thuế, tại điểm 2.3 khoản 2 mục III qui định” trưởng đoàn thanh tra , kiểm tra ký kết luận thanh tra, biên bản kiểm tra . Điều này là mâu thuẫn với khoản 1 Điều 135 nghị định 41 /2005/NĐ-CP ngày 25 tháng 3 năm 2005 của chính phủ qui định huớng dẫn thi hành một số điều của luật thanh tra năm 2004.
Luật quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban hành . Tuy nhiên đến thời điểm áp dụng luật QLT là 1/7/2007 và cho đến nay tổng cục thuế vẫn chưa ban hành qui trình hướng dẫn công tác thanh tra , kiểm tra theo luật QLT, nên hiện này qui trình này vẫn đang thực hiện theo quyết định số 1166, trong đó có nhiều điểm chưa phù hợp với qui định của luật QLT.
Thứ ba, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính thuế đã bộc lộ một số điểm bất cập như: nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính thuế chưa đầy đủ; các quy định về hình thức xử phạt hiện hành chưa phong phú, không đáp ứng được đòi hỏi của công tác đấu tranh, phòng chống các vi phạm hành chính trong tình hình mới , Các quy định về thẩm quyền xử lý vi phạm, hình thức xử phạt vi phạm hành chính, chồng chéo, trùng lặp giữa các văn bản.
III- Thực tiễn thi hành pháp luật thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
Với những điểm đạt được và một số hạn chế như trên của pháp luật quản lý thuế về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế, công tác thực thi pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định và bên cạnh đó còn tồn tại những hạn chế, vướng mắc. Cụ thể như sau:
Những kết quả đạt được.
Luật QLT được ban hành ngày 29- 11- 2006 tạo cơ sở pháp lí cho việc đổi mới hiện đại hoá toàn diện công tác quản lí thuế, trong đó có công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế. Thực tiễn thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế ở các quốc gia cho thấy : khi bộ máy thanh tra, kiểm tra, giám sát thuế đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả sẽ làm tăng tính tự giác, tuân thủ pháp luật của người nộp thuế.
Trên thực tế mấy năm gần đây, đặc biệt từ khi luật QLT có hiệu lực thi hành ( 1/7/2007), công tác thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật đã đạt được những bước phát triển nhất định. Cụ thể : Cơ quan thuế các cấp đã tiến hành áp dụng rỗng rãi kĩ thuật quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế với việc tăng cường thu nhập thông tin về người nộp thuế, các đoàn kiểm tra tiến hành phân tích, đánh giá các thông tin về đối tượng nộp thuế để lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra. Vì vậy việc thanh tra có tập trung, trọng tâm trọng điểm chọn đúng đối tượng thanh tra, kiểm tra tiết kiệm được chi phí của cả cơ quan thuế và người nộp thuế và đem lại số truy thu lớn. Do kiểm tra, thanh tra thuế có hiệu quả nên giúp phát hiện kịp thời đối tượng vi phạm pháp luật thuế và xử lý vi phạm pháp luật thuế các đối tượng này được nhanh chóng, đúng người, đóng góp vào ngân sách nhà nước những khoản tiền lớn. Các con số cụ thể như sau:
Trước khi luật QLT có hiệu lực, năm 2005, toàn ngành thuế đã kiểm tra, thanh tra được 56.700 đối tượng và phát hiện ra 53.567 đối tượng vi phạm phát luật thuế, xử phạt được 1.718 tỷ đồng .Trong 9 tháng đầu năm 2006 , toàn nghành thuế đã thanh tra, kiểm tra đựơc hơn 63.000 đối tượng , số thuế ghi thu qua kiểm tra là 2.905 tỷ đồng. So với cùng kì năm 2005, số đơn vị được thanh tra, kiểm tra giảm 10% trong khi số thuế truy thu tăng 169%. Báo cáo tổng kết công tác quản lý thuế 10 năm từ năm 1995 đến 2005 của Bộ tài chính
Đến khi Luật QLT có hiệu lực, nửa cuối năm 2007 ngành thuế đã kiểm tra , thanh tra thuế được 32.304 cơ sở kinh doanh, phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật truy thu 3776,5 tỷ đồng trong đó, số thuế trốn lậu đuợc phát hiện truy thu qua kiểm tra là 3096 tỷ đồng, số thuế nợ đọng là 680,4 tỷ đồng.
Như vậy, số lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra ngày càng giảm bớt nhưng nhờ các qui định trong việc tiến hành kiểm tra tại cơ quan thuế và nâng cao hiệu quả kiểm tra ở cơ sơ sản xuất kinh doanh mà ngành thuế đã phát hiện và xử lý vi phạm, truy thu được số thuế trốn lậu và gian lận không nhỏ góp phần chống thất thoát thu ngân sách nhà nước.
Công tác thanh tra kiểm tra việc hoàn thuế đã được đẩy mạnh chủ yếu vào những đối tượng hoàn thuế có số lượng lớn. Năm 2007 đã kiểm tra trước hoàn thuế tại 2869 đơn vị với số thuế mà doanh nghiệp đề nghị hoàn là 1909,5 tỷ đồng . Qua kiểm tra đã phát hiện số thuế không đủ điều kiện hoàn thuế , loại trừ 77,3 tỷ đồng, kiểm tra sau hoàn thuế tại 4114 đơn vị thu hồi về cho ngân sách nhà nước là 17,7 tỷ đồng. Kết quả nêu trên đã chứng tỏ công tác thanh tra, kiểm tra đã đúng đối tuợng, phát hiện kịp thời các trường hợp vi phạm, qua đó chấn chỉnh thái độ chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế, đảm bảo cho pháp luật thuế được thực thi nghiêm túc hơn.
Ngoài ra, một kết quả nữa phải nhắc tới đó là công tác kiểm tra nội bộ với mục tiêu 100% các đơn vị được cơ quan cấp trên kiểm tra hoặc tự kiểm tra nội bộ gắn với công tác chống tham nhũng. Chỉ tính riêng năm 2005, toàn ngành thuế đã tiến hành thanh tra, kiểm tra nội bộ 661 đơn vị, qua đó phát hiện và xử lí kỉ luật 96 trường hợp cán bộ vi phạm thu hồi 6.900 triệu đồng. Qua đó, kiểm tra, thanh tra thuế đã kịp thời phát hiện và xử lí những trường hợp vi phạm quy trình quản lí, vi phạm kỉ luật ngành đồng thời phát hiện các thiếu sót trong công tác QLT, chống thất thu thuế.
Những kết quả mà thanh tra, kiểm tra thuế, xử lí vi phạm pháp luật thuế đạt được còn được thể hiện cụ thể qua công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm pháp luật thuế tại một số địa phương tiêu biểu như: Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh. Ở đây, chỉ xin đề cập tới những kết quả của các công tác này tại Hà Nội. Cụ thể: từ khi chuyển sang mô hình quản lí chức năng theo Luật QLT, công tác thanh tra, kiểm tra tại cục thuế Hà Nội từng bước được đổi mới về nội dung, phương pháp và tổ chức thực hiện trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh các quy trình nghiệp vụ. Bên cạnh việc ngăn chặn và phát hiện các hành vi vi phạm của người nộp thuế để có biện pháp quản lí hữu hiệu, công tác thanh tra nội bộ còn giúp ngành thuế nhìn nhận và đánh giá các mặt còn tồn tại để kiện toàn bộ máy tổ chức. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm được tiến hành liên tục với từng doanh nghiệp kể từ khi đăng kí thuế, kê khai hàng hoá đến quyết toán thuế nhằm kịp thời chấn chỉnh các hành vi vi phạm. Phạm vi giám sát, kiểm tra bao quát toàn bộ các doanh nghiệp thuộc danh sách quản lí…Dựa trên cơ sở phân tích thông tin, phân loại rủi ro thời gian qua, cục Thuế Hà Nội đã kiểm tra được hơn 3400 doanh nghiệp, truy thu và phạt hơn 400 tỷ đồng. Với việc phối hợp với cảnh sát, viện kiểm sát, toà án năm 2008, ngành thuế đã kiểm tra 254.611 lượt hồ sơ khai thuế và kiểm tra tại 2160 doanh nghiệp. Tổng số thuế được xác định tăng thêm sau thanh tra, kiểm tra đạt hơn 163 tỷ đồng, đã thực hiện hoàn thuế cho 531 doanh nghiệp với 3103 tỷ đồng, tăng 25 % so với năm trước.
Mặc dù hiện nay bối cảnh kinh tế trong nước và trên thế giới có nhiều điều không thuận lợi nhưng công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế đã thúc đẩy cơ chế tự khai, tự nộp thuế, phát hiện xử lí kịp thời các vi phạm về thuế, góp phần tích cực trong việc chống thất thu ngân sách nhà nước, tăng cường tính hiệu quả của các chính sách thuế, tăng cường thêm ý thứ tuân thủ pháp luật của người nộp thuế, qua đó góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế đất nước.
Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân của nó.
Những kết quả đạt được ở trên đã chứng tỏ pháp luật về công tác kiểm tra, thanh tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế đã tạo ra hành lang pháp lí cần thiết để thực hiện tốt các công tác này. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế đã phát sinh nhiều hạn chế ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác này.
Thứ nhất, một thực tế không thể phủ nhận đó là vẫn còn tình trạng trùng lặp, chồng chéo trong hoạt động của cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm soát doanh nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao ( 36, 6%) và sự trùng lặp vẫn xảy ra nhiều nhất trong lĩnh vực thuế. Qua thống kê 827 doanh nghiệp cho thấy có 303 doanh nghiệp có từ 2 đoàn thanh tra trở lên kiểm tra , thanh tra trong vòng một năm với các nội dung giống nhau: 231 doanh nghiệp trong số 827 doanh nghiệp bị kiểm tra 2 lần trong 1 năm trong lĩnh vực thuế. Hiện nay có quá nhiều cơ quan , các cấp tiến hành kiểm tra , thanh tra dưới nhiều hình thức như thanh tra, kiểm tra , phúc tra, kiểm toán... đặc biệt hay tiến hành kiểm tra với các doanh nghiệp lớn làm ăn có lãi . Từ việc kiểm tra, thanh tra trùng lặp, chồng chéo nhau dẫn đến cùng một hành vi vi phạm pháp luật thuế có thể bị xử phạt nhiều lần gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Luật QLT đã có qui định là việc thanh tra được thực hiện căn cứ vào kế hoạch thanh tra ( trừ trường hợp thanh tra không theo kế hoạch). Việc lập kế hoạch thanh tra phải dựa trên những phân tích cơ bản về người nộp thuế , từ đó phát hiện và lập danh sách những người nộp thuế có dấu hiệu bất thường trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế . Kế hoạch thanh tra của cơ quan cấp dưới phải gửi lên cơ quan thuế cấp trên. Trường hợp có sự trùng lặp đối tượng thanh tra thì cơ quan thuế cấp trên sẽ thực hiện việc thanh tra.Trường hợp thanh tra nhà nước có kết quả thanh tra trùng lặp với kết quả thanh tra của cơ quan thuế thì ưu tiên kế hoạch thanh tra của cơ quan thanh tra nhà nước. Tuy nhiên do cơ quan thanh tra khác nhau của nhà nước không có sự trao đổi thống nhất với nhau về chương trình và kế hoạch thanh tra nên xảy ra tình trạng thanh tra doanh nghiệp bị trùng lặp. Khi tiến hành thanh tra cùng một hành vi vi phạm , ở cùng một thời điểm thì mỗi cơ quan phát hiện tiến hành xử phạt vi phạm pháp luật nên dẫn đến doanh nghiệp bị chịu phạt nhiều lần trong khi đáng lẽ chỉ bị phạt một lần.
Thứ hai, tình trạng gian lận thuế, trốn lậu thu, chiếm đạt tiền nợ thuế, nợ đọng thuế vẫn không chấm dứt triệt để, mà vẫn còn diễn ra ở nhiều loại thuế và ở nhiều địa phương trong cả nước. Tình trạng trốn thuế, gian lận thuế ngày càng tinh vi, trá hình, trong khi đó công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thuế của cơ quan quản lý thuế vẫn còn một số hạn chế và chưa lường hết được các thủ thuật của người nộp thuế .
Theo thông kê từ năm 1999 đến năm 2005 tổng số vụ thanh tra, kiểm tra thuế là 915.993 lần trong đó chỉ phát hiện 30% số vụ có trốn lậu thuế và chỉ thu được hơn 1000 tỷ đồng cho ngân sách nhà nước . Báo cáo tổng kết công tác quản lý thuế 10 năm từ năm 1995 đến 2005 của Bộ tài chính
. Tỉ lệ phần trăm số vụ phát hiện hành vi trốn thuế, gian lận thuế là còn thấp so với số vụ vi phạm trên thực tế. Rất nhiều doanh nghiệp dây dưa, chây ỳ nợ thuế, nhiều tổ chức, cá nhân còn cố tình tìm mọi thủ đoạn để trốn thuế hoặc lợi dụng những bất cập trong công tác quản lý thuế và thực hiện các hành vi gian lận ở mức độ khác nhau nhằm làm giảm mức thuế phải nộp và chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng từ ngân sách Nhà nước. Đơn cử như Công ty TNHH Thương mại và Du lịch Thiên Nam, có trụ sở tại số 9 - ngõ 596/1 đường Hoàng Hoa Thám, phường Bưởi, quận Tây Hồ. Qua kiểm tra, Chi cục thuế quận Tây Hồ đã phát hiện Công ty này bỏ ngoài sổ sách, không kê khai nộp thuế thông qua nhiều hóa đơn đã xuất bán cho khách hàng, do đó Chi cục Thuế đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính và truy thu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp của công ty. Đến nay, tổng số tiền mà Công ty TNHH Thương mại và Du lịch Thiên Nam còn nợ ngành thuế là trên 1 tỷ đồng. Mặc dù đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở nhưng Cty vẫn không chấp hành nghĩa vụ nộp thuế theo quy định, buộc Chi cục Thuế quận Tây Hồ phải có công văn gửi Công an quận Tây Hồ đề nghị cùng phối hợp thu hồi nợ.
Theo thống kê chưa đầy đủ của Cục Thuế Hà Nội, năm 2009, có gần 200 doanh nghiệp quốc doanh và dân doanh đang nợ đọng gần 130 tỷ đồng tiền thuế, trong đó các doanh nghiệp quốc doanh chiếm tỷ lệ rất lớn với số nợ khoảng 90 tỷ đồng. Có thể kể ra đây một số đơn vị có số nợ thuế lớn và đang trở thành những “con nợ khó đòi” của cơ quan thuế như: Công ty Xuất nhập khẩu Vật tư đường biển nợ 40,4 tỷ đồng, Công ty Cơ giới và Xây lắp số 12 nợ 11,3 tỷ đồng, Công ty Thương mại Đầu tư và Phát triển Hà Nội nợ 8,8 tỷ đồng... Cục thuế thành phố Hà Nội đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc đôn đốc, truy thu thuế của hàng trăm doanh nghiệp, cá nhân còn nợ đọng tiền thuế. Khi bị cơ quan chức năng phát hiện hành vi trốn nợ thuế, các doanh nghiệp thường áp dụng “chiêu bài” gửi công văn xin khất nợ nhiều lần, thậm chí đổi tên công ty hoặc tạm ngừng hoạt động và chuyển văn phòng đi nơi khác. Có thể thấy, những biện pháp như khoanh nợ ngân hàng, ngừng bán hóa đơn, nhờ công an đôn đốc...mà cơ quan thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp cố tình chây ỳ, trốn nợ thuế thời gian qua là chưa đủ mạnh, dẫn đến việc trốn tránh, nợ đọng tiền thuế tại các doanh nghiệp kéo dài từ năm này sang năm khác và ngày càng có xu hướng gia tăng.
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra thuế theo phương pháp mới dựa trên cơ sở thông tin tổng hợp và kỹ thuật quản lý rủi ro còn hạn chế .
Kể từ khi chuyển sang phương pháp thanh tra, kiểm tra mới còn rất nhiều nơi đặc biệt là ở cấp chi cục việc áp dụng phương pháp này còn nhiều lúng túng, do vậy kết quả còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, phương pháp tiếp cận mới, đòi hỏi cán bộ làm công tác thanh tra phải sử dụng kỹ năng phân tích rủi ro trên những nguồn thông tin của người nộp thuế. Phương pháp kiểm tra thanh tra thuế này có ưu điểm là bảo đảm tính khách quan trong việc xác định đối tượng cần xem xét tới, vừa tạo ra một áp lực cho người nộp thuế trong việc tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế. Tuy nhiên có một bất cấp là: phương pháp này có thể gặp rủi ro đó là khả năng để sót các trường hợp gian lận mà không bị phát hiện và ngăn chặn kịp thời do người nộp thuế lợi dụng sự thông thoáng của cơ chế, tự khai tự nộp thuế. Trường hợp này xảy ra nhiều khi hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về người nộp thuế không được đảm bảo đầy đủ, hoặc bộ máy quản lý thuế không tinh nhệu, lực lượng phương tiện phục vụ cho công tác quản lý không đảm bảo cho việc phát hiện kịp thời các đối tượng cố tình khai man, trốn lậu thuế hoặc do bộ máy quản lý giám sát bị thoái hoá, biến chất, tham nhũng, cố tình làm ngơ cho các hành vi vi phạm.
Đặc biệt một điểm bất cấp nữa là: ở nước ta những thông tin về người nộp thuế chủ yếu do người nộp thuế cung cấp qua tờ khai thuế . Từ thông tin đó, cơ quan thuế sử dụng để xác định số thuế phải nộp và ra thông báo cho người nộp thuế thực hiện. Do phạm vi sử dụng thông tin trong quản lý thuế còn hạn hẹp, bởi vậy, các thông tin của người nộp thuế còn nghèo nàn và chỉ được lưu giữ, quản lý, sử dụng trong phạm vi cơ bản quản lý thuế trực tiếp đối với đối tượng nộp thuế. Thông tin về đối tượng nộp thuế mà cơ quan thuế có được là đơn lẻ, không đảm bảo độ chính xác cao.
Thứ tư, lực lượng thanh tra thuế hiện nay là rất mỏng. Ở các nước khác lượng lượng thanh tra chiếm tỷ lệ 25 đến 30% tổng số cán bộ ngành thuế còn ở Việt nam chỉ chiếm khoảng 12%. Ngoài ra, chất lượng cán bộ thanh tra thuế, kiểm tra thuế là còn chưa cao. Trong khi đó hồ sơ khai thuế tháng hiện nay, hầu hết người nộp thuế gần sát ngày hết hạn nộp thuế mới đến nộp cho cơ quan thuế. Do đó số lượng người nộp thuế tập trung quá đông trong một thời điểm mà đòi hỏi tiến hành trong thời hạn không quá 3 ngày nên không tránh được tình trạng hồ sơ thuế không được kiểm tra kĩ lưỡng.
Thứ năm, trình độ hiểu biết về thuế, ý thức chấp hành các luật, pháp lệnh về thuế của đại bộ phận nhân dân còn hạn chế, chưa tạo dư luận xã hội lên án mạnh mẽ các hành vi trốn thuế, gian lậu thuế thậm chí nhiều trường hợp còn thờ ơ, đồng tình gây khó khăn cho công tác thanh tra kiểm tra thuế.
Thứ sáu, thực tiễn cho thấy sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan, đặc biệt là các cơ quan kho bạc nhà nước, ngân hàng, cơ quan kế hoạch và đầu tư, tổng cục thống kê và các cơ quan khác có liên quan còn hạn chế.
Cơ quan thanh tra thuế thực hiện việc phân tích, đánh giá rủi ro lựa chọn đối tượng thanh tra trên cơ sở hệ thống thông tin về người nộp thuế bao gồm các thông tin từ ngân hàng, kho bạc, hải quan …Nếu như các cơ quan này không có sự phối hợp chặt chẽ thì sẽ gây khó khăn cho công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
IV- Phương hướng và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ thực trạng pháp luật thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế còn tồn tại nhiều bất cập, từ thực tiễn của những công tác này nảy sinh nhiều vấn đề và từ yêu cầu của quá trình quản lí nhà nước, đòi hỏi pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật về thuế cần hoàn thiện hơn nữa. Sau đây là một số ý kiến cá nhân về hoàn thiện pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
Thứ nhất, bổ sung các quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế trong Luật QLT. Cụ thể:
*Bổ sung trách nhiệm về bồi thường thiệt hại do cơ quan thuế, công chức thuế gây ra. Quy định về trách nhiệm bồi thường cần phải đảm bảo các nội dung sau:
Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải dựa trên các căn cứ: có hành vi trái pháp luật do lỗi của người thi hành công vụ gây ra; có thiệt hại thực tế do người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại; có quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại. Và quy định rõ về các trình tự thủ tục yêu cầu bồi thường thiệt hại.
*Bổ sung thêm quy định về phối hợp điều tra thuế nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra thuế kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật có tính chất phức tạp, tinh vi. Quy định về điều tra thuế nên theo hướng xác định điều tra thuế là chỉ điều tra hành chính, đồng thời với quy định về điều tra thuế cần bổ sung các quy định rõ về trách nhiệm của cơ quan thuế, công chức thuế trước các quyết định của mình.
*Bổ sung quy định về quyết toán thuế: thời gian nào phải thực hiện quyết toán thuế, trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc quyết toán thuế, phân biệt rõ được ranh giới của quyết toán thuế và thanh tra, kiểm tra thuế.
*Bổ sung quy định về thanh tra đột xuất: tiến hành thanh tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Quy định phải làm rõ được dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế đến mức độ nào thì cơ quan thuế mới có quyền tiến hành thanh tra đột xuất; phải làm rõ được việc giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được xác minh và xác định chính xác như thế nào thì cơ quan thuế mới tiến hành thanh tra đột xuất.
Thứ hai, nhanh chóng ban hành quy trình thanh tra, kiểm tra mới phù hợp với các quy định của Luật QLT thay thế cho quy trình thanh tra, kiểm tra đã được
ban hành theo Quyết định 1166/ 2005. Quy định mới ban hành theo hướng phân biệt rõ thanh tra, kiểm tra; trình tự, thủ tục khi tiến hành kiểm tra tại cơ quan thuế, tại trụ sở người nộp thuế; các trình tự thủ tục khi tuyên bố quyết định thanh tra, kiểm tra; việc xử lí kết quả thanh tra, kiểm tra; việc theo dõi việc thực hiện các quyết định xử lí.
Thứ ba, cần nhan chóng ban hành các quy định hướng dẫn một cách cụ thể về vấn đề kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các tài liệu thông tin trong hồ sơ thuế để tránh tính trạng cơ quan thuế à doanh nghiệp có cách hiểu khác nhau về trách nhiệm xác định tính đầy đủ và chính xác trong hồ sơ nộp thuế của người nộp thuế. Theo cơ chế quản lí thuế tự khai, tự nộp thuế, người nộp thuế phải chịu trách nhiệm về những thông tin, tài liệu đã khai trong hồ sơ nộp thuế, việc kiểm tra của cơ quan thuế và việc chấp nhận tờ khai của cơ quan thuế mới là các thủ tục chỉ mang tính chất hành chính. Do vậy, khi đã có những hướng dẫn thống nhất về cách hiểu này sẽ tránh được trường hợp người nộp thuế biện minh cho việc kê khai nộp thuế và tính không chính xác trong hồ sơ thuế.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định về mô hình tổ chức thanh tra, kiểm tra thuế đặc biệt là hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ quyền hạn của các tổ chức thanh tra thuế, thanh tra hải quan ở cấp tổng cục và chi cục để phù hợp với Luật QLT và luật Thanh tra 2004, tạo ra sự đồng bộ, thống nhất trong việc thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra thuế; tạo điều kiện cho các cơ quan thanh tra hoạt động có hiệu quả cao, theo đúng khuôn khổ pháp luật.
Thứ năm, nên xây dựng khung phạt theo hướng giảm nhẹ hơn mức phạt với hành vi vi phạm thủ tục thuế và chỉ phạt nặng với hành vi trốn thuế, vì nước ta là nước có trình độ phát triển chưa cao, trình độ quản lý còn thấp và hầu hết các doanh nghiệp nước ta là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên việc vi phạm thủ tục thuế là điều khó tránh khỏi đối với bất cứ doanh nghiệpnào. Nên xem xét đưa “ cố ý” và ” vô ý“ vào các chế tài của thông tư cho phù hợp và khung phạt được xây dựng theo hướng giảm nhẹ hơn đối với hành vi được coi là vi phạm do lỗi vô ý.
Thứ sáu, hoàn thiện các quy định của luật, các văn bản có liên quan. Công tác thanh tra, kiểm tra ngòa tuân thủ các quy đinh trong pháp luật quản lí thuế còn chịu sự điều chỉnh của Luật khiếu nại, tố cáo, pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính, luật cán bộ, công chức…Vì vậy để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, tạo điều kiến cho thanh tra, kiểm tra thuế có hiệu quả thì cần thiết phải rà soát lại các văn bản pháp luật có liên quan để loại bỏ các quy định đã lạc hậu, mâu thuẫn, từ đó sử đổi bổ sung cho phù hợp.
Những giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
Trước hết, cần tiến hành rà soát lại hiện trạng công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế trong thời gian vừa qua, qua đó đánh giá được những mặt đạt được và những nhước điểm vẫn còn tồn tại, qua đó nghiên cứu xây dựng các quy định pháp luật cho phù hợp với tính hình thực tế.
Rà soát, sửa đổi và bổ sung quy trình thanh tra thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế dựa trên các chuẩn mực quốc tế, trong đó bộ phận phân tích thông tin, đánh giá rủi ro tách biệt với bộ phận trực tiếp thanh tra, kiểm tra tại cơ sở. Qua đó mới nâng cao được tính chính xác, minh bạch của kết quả kiểm tra, thanh tra.
Nâng cao đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm thuế theo hướng tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan thuế và các cơ quan bảo vệ pháp luật, quản lí thị trường và các ngành có liên quan để chống buôn lậu, trốn thuế, gian lận thuế, tạo điều kiện cho các cơ quan pháp luật phát hiện và xử lí kịp thời các vi phạm pháp luật thuế.
Đẩy mạnh, nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế dưới nhiều hình thức phong phú. Hướng dẫn đầy đủ các thủ tục có liên quan đến thủ tục thuế để người nộp thuế tự mình thực hiện tốt các nghĩa vụ về thuế. Cơ quan thuế cần chủ động phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục quốc dân, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật để mọi tổ chức cá nhân hiểu biết rõ và tự giác nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
KẾT LUẬN.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra cho Việt Nam yêu cầu phải có những cải cách phù hợp tiến bộ trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó có cải cách về chính sách thuế. Pháp luật thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống pháp luật thuế. Vì vậy, vấn đề hoàn thiện những quy định pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế nói riêng và pháp luật thuế nói chung hiện nay rất cần thiết, điều đó đòi hỏi các cơ quan lập pháp cần phải hoàn thiện, đồng bộ, thống nhất hệ thống pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế để pháp luật được thực thi tốt hơn, góp phần thúc đẩy sự hội nhập, hợp tác của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005.
Luật quản lý thuế 2006.
Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt nam hiện nay, Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Thị Anh, 2009.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kỳ tài chính- Pháp luật về kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế- thực trạng và kiến nghị.doc