Thí dụ: Các thay đổi kế toán. Có các trường hợp khác các
giám đốc có vẻ như cho rằng các nhà đầu tư thường có ảo
tưởng tài chính. Thí dụ, một vài doanh nghiệp dành một
lượng đáng kể công sức, mưu trí cho công tác “tác động”
đến tỷ suất sinh lợi báo cáo cho các cổ đông (báo cáo tỷ suất
sinh lợi ma), qua một hế thống “kế toán sáng tạo”, tức là
bằng cách chọn các phương pháp kế toán ổn định hàng hóa
và gia tăng tỷ suất sinh lợi báo cáo. Có thể các doanh
nghiệp này làm như vậy vì ban giám đốc tin rằng các cổ
đông chấp nhận các con số qua giá trị danh nghĩa của
chúng
137 trang |
Chia sẻ: thuychi20 | Lượt xem: 716 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích đầu tư chứng khoán - Chương 1: Môi trường đầu tư và thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o là vi phạm
trật tự công cộng, nhưng tại sao cổ phiếu lại sụt giá khắp thế
giới khi bảo hiểm danh mục chỉ đáng kể ở Mỹ? Hơn nữa,
nếu việc bán chủ yếu do chiến thuật bảo hiểm danh mục hay
chiến thuật giao dịch châm ngòi, hẵn chúng đã chuyển tải ít
thông tin cơ bản, và giá đáng lẽ đã phải tăng lên trở lại sau
khi các hỗn loạn của ngày thứ hai đen tối đã tiêu tan.
Ý tưởng giá thị trường là ước tính tốt nhất giá trị nội tại có
vẽ ít thuyết phục hơn trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng.
Có thể giá hoặc quá cao trước ngày thứ hai đen tối hoặc
quá thấp sau đó. Có thể lý thuyết các thị trường hiệu quả lại
là một hình thức khác của tổn thất khác của cuộc khủng
hoảng
Biến cố tháng 10 năm 1987 nhắc nhở chúng ta việc định giá
cổ phiếu thường từ đầu đặc biệt khó đến thế nào. Thí dụ,
trong tháng 1 năm 2003 chúng ta muốn kiểm tra xem các cổ
phiếu thường có được định giá phải chăng không. Ít nhất
việc đầu tiên chúng ta có thể làm là sử dụng công thức tăng
96
trưởng không thay đổi . Cổ tức mong đợi hàng năm của chỉ
số công nghiệp Standard and Poor’s vào khoảng 16,7. Giả
dụ cổ tức này được mong đợi tăng với một tốc độ đều đặn
10%/năm và các nhà đầu tư đòi hỏi một tỷ suất sinh lợi
hàng năm 11,4% từ các cổ phiếu thường. Công thức tăng
trưởng không thay đổi cho ta giá trị của chỉ số bằng:
PV(chỉ số) =
D
=
16,7
= 1.193
r – g 0,114 – 0,10
Trong đó,
D: cổ tức
r: lãi suất mong đợi
g: tốc độ tăng trưởng
Chỉ số giữa tháng 01/2003. Có thể tăng trưởng cổ tức có
khả năng thực hiện chỉ bằng 9.6%/năm. Điều này sẽ đưa
đến một điều chỉnh giảm 22% trong ước tính của chúng ta
về mức đúng của chỉ số, từ 1.193 xuống 928!.
PV(chỉ số) =
D
=
16,7
= 928
r – g 0,114 – 0,096
97
Nói cách khác, một sụt giá giống như trong ngày thứ hai
đen tối có thể đã xảy ra vào tháng 01/2003 nếu các nhà đầu
tư đột nhiên trở nên kém lạc quan khoảng 0,4% về tăng
trưởng cổ tức tương lai.
Khó khăn của việc định giá cổ phiếu từ đầu có hai hậu quả
quan trọng.
Thứ nhất, các nhà đầu tư hầu như luôn luôn định giá một cổ
phiếu thường tương ứng với giá ngày hôm qua hay giá của
ngày hôm nay của các chứng khoán có thể so sánh. Nói
cách khác, họ thường cho là giá ngày hôm qua đúng, điều
chỉnh tăng hay giảm trên cơ sở của thông tin ngày nay. Nếu
thông tin đến một cách suôn sẽ, thì khi thời gian trôi qua,
các nhà đầu tư trở nên càng lúc càng tin rằng mức thị trường
ngày hôm nay là đúng. Tuy nhiên, khi các nhà đầu tư mất
tin tưởng vào chuẩn mực giá ngày hôm qua, có thể có một
thời kỳ giao dịch rối loạn và giá cả biến động trước khi một
chuẩn mực mới được thiết lập.
Thứ hai, giả thuyết giá cổ phiếu luôn luôn bằng giá trị nội
tại hầu như không thể kiểm chứng chứng là vì khó tính toán
giá trị nội tại mà không tham khảo giá cả.
Nếu một trong hai công ty công bố tỷ suất sinh lợi tỷ suất
sinh lợi cao hơn ngoài mong đợi, chúng ta có thể tin rằng
98
giá cổ phiếu có thể đáp ứng ngay tức khắc và không thiên
vị. Nói cách khác, giá sau đó sẽ được định đúng tương ứng
với giá trước đó. Các bài học quan trọng nhất của thị trường
hiệu quả đối với giám đốc tài chính doanh nghiệp liên quan
đến hiệu quả tương đối.
3.1.2.4 Các bất thƣờng thị trƣờng và giám đốc tài chính
Nếu cổ phiếu của chúng ta thực sự được định giá cao, chúng
ta có thể giúp các cổ đông hiện tại của mình bằng cách bán
thêm cổ phiếu và sử dụng số tiền này để đầu tư vào các
chứng khoán thị trường vốn khác. Nhưng chúng ta đừng
bao giờ phát hành cổ phiếu để đầu tư vào một dự án cung
ứng một tỷ suất tỷ suất sinh lợi thấp hơn mức mà chúng ta
có thể kiếm được bằng cách khác trong thị trường vốn. Một
dự án như vậy sẽ có một NPV âm. Chúng ta luôn luôn có
thể làm tốt hơn là đầu tư vào một dự án có NPV âm: Công
ty của chúng ta có thể ra mua cổ phiếu thường ở thị trường.
Trong một thị trường hiệu quả, các vụ mua như vậy luôn
luôn có NPV bằng 0.
Ngược lại biết rằng cổ phiếu chúng ta bị định giá thấp.
Trong trường hợp này, rõ ràng là không thể giúp các cổ
đông hiện hữu của chúng ta bằng cách bán thêm cổ phiếu
“rẻ” để đầu tư vào các cổ phiếu khác được định giá phải
chăng. Nếu cổ phiếu của chúng ta bị định giá đủ thấp, có thể
99
có lợi ngay cả khi phải hy sinh một cơ hội đầu tư vào một
dự án NPV dương, hơn là cho phép các nhà đầu tư mới mua
cổ phiếu của công ty chúng ta bằng mộ giá thấp. Các giám
đốc tài chính tin rằng cổ phiếu của công ty họ bị định giá
thấp có thể do dự một cách hợp lý trong việc phát hành
thêm cổ phiếu, nhưng thay vào đó, họ có thể tài trợ kế
hoạch điều động đến lựa chọn tài trợ nhưng không ảnh
hưởng đến các quyết định đầu tư thực tế của doanh nghiệp.
3.1.3 BÀI HỌC CỦA THỊ TRƢỜNG HIỆU QUẢ:
Bài học 1: Thị trường không có trí nhớ
Theo hình thức yếu của giả thuyết thị trường hiệu quả,
chuỗi các thay đổi giá cả trong quá khứ không chứa đựng
thông tin về thay đổi giá trong tương lai. Các nhà kinh tế đã
diễn tả cùng ý kiến này một cách chính xác hơn khi nói rằng
thị trường không có trí nhớ.
Đôi khi một giám đốc tài chính sẽ có thông tin nội bộ cho
thấy là cổ phiếu của doanh nghiệp được định giá cao hay
định giá thấp. Thí dụ có một vài tin tức tốt mà chúng ta biết
trong khi thị trường không biết, là cổ phiếu của doanh
nghiệp được định giá thấp. Giá cổ phiếu sẽ tăng nhanh khi
tin tức được tiết lộ. Vì vậy, nếu công ty bán cổ phiếu với giá
100
hiện tại, công ty đang cung ứng một giá hời cho các cổ đông
mới với phần thiệt do các cổ đông hiện hữu gánh chịu.
Bài học 2: Hãy tin vào giá thị trường
Trong một thị trường hiệu quả, chúng ta có thể tin vào giá
cả, vì giá cả chứa đựng tất cả thông tin có sẵn về giá trị của
mỗi chứng khoán. Điều này có nghĩa là trong một thị trường
hiệu quả, không có cách nào để hầu hết các nhà đầu tư đạt
được một tỷ suất sinh lợi cao hơn liên tục. Để làm được như
vậy, chúng ta không chỉ cần biết nhiều hơn bất cứ người
nào khác, mà còn cần biết nhiều hơn tất cả mọi người khác.
Thông điệp này rất quan trọng cho một giám đốc tài chính
chịu trách nhiệm về chính sách tỷ giá hối đoái hay về mua
và bán nợ của doanh nghiệp
Các tài sản của công ty cũng có thể chịu tác động trực tiếp
của niềm tin của ban giám đốc vào các kỹ năng đầu tư của
mình. Thí dụ, một công ty có thể mua một công ty khác đơn
giản chỉ vì ban giám đốc nghĩ rằng cổ phiếu của công ty kia
được định dưới giá. Khoảng phân nữa trường hợp cổ phiếu
của công ty bị mua lại, qua nhận thức sau đó hóa ra bị định
dưới giá. Nhưng phân nữa các trường hợp kia là được định
giá cao. Tính trung bình thì giá trị sẽ đúng
101
Bài học 3: Hãy đọc sâu
Nếu thị trường hiệu quả, giá cả chứa đựng tất cả thông tin
có sẵn. Vì vậy, chỉ cần chúng ta biết cách đọc sâu, giá cổ
phiếu có thể cho chúng ta biết nhiều về tương lai. Thí dụ,
chúng ta đã cho thấy thông tin trong các báo cáo tài chính
của một công ty có thể giúp giám đốc tài chính ước tính xác
suất phá sản như thế nào. Nhưng đánh giá của thị trường về
chứng khoán của công ty cũng có thể cung cấp thông tin
quan trọng về các triển vọng của công ty. Như vậy, nếu các
trái phiếu của công ty đang cung ứng một tỷ suất sinh lợi
đáo hạn cao hơn trung bình, chúng ta có thể suy diễn rằng
công ty có thể đang gặp vấn đề.
Còn một thí dụ khác: Giả dụ các nhà đầu tư tin rằng lãi suất
sẽ tăng trong năm tới. Trong trường hợp này, họ sẽ thích
chờ trước khi cung cấp các khoản vay dài hạn, và một
doanh nghiệp nào đó muốn vay dài hạn hôm nay sẽ phải
đưa ra một mức lãi suất cao hơn. Nói cách khác, lãi suất dài
hạn sẽ phải cao hơn lãi suất 1 năm. Chênh lệch giữa lãi suất
dài hạn và ngắn hạn cho chúng ta biết đôi chút về điều mà
các nhà đầu tư kỳ vọng sẽ xảy ra cho lãi suất ngắn hạn trong
tương lai.25
Thí dụ: Viacom đặt giá mua Paramount
102
Trong tháng 9/1993, công ty giải trí Viacom công bố đặt giá
8,2 tỷ đô la để mua hữu nghị công ty Paramount. Tuần lễ
kế tiếp QVC đã xướng một giá khác để mua Paramount là
9,5 tỷ đô la. Đó là mở đầu của cuộc chiến giành mua kéo
dài 5 tháng mà cuối cùng Viacom là người chiến thắng.
Khi Viacom công bố mức đặt giá, cổ phiếu của công ty này
sụt 6,8%, trong khi chỉ số của Standard & Poor’s sụt 0,4%.
Theo chứng cứ quá khứ, một thay đổi trong chỉ số thị
trường đã tác động đến cổ phiếu của Viacom theo mô hình
CAMP như sau:
Tỷ suất sinh lợi mong đợi của Viacom = α + β x tỷ suất tỷ
suất sinh lợi thị trường
= 0,01 + 0,78 x tỷ suất tỷ suất sinh lợi thị
trường
Hệ số α bằng 0,1 cho ta biết là khi thị trường không thay
đổi, cổ phiếu của Viacom tăng trung bình 0,1%/ngày. Hệ số
β bằng 0,78 cho thấy rằng mỗi 1% tăng trong số chỉ số thị
trường làm tăng thêm 0,78% cho tỷ suất sinh lợi của
Viacom. Vì thị trường sụt 0,4% vào lúc Viacom đưa ra đặt
giá, chúng ta sẽ mong đợi một cách thông thường là giá cổ
phiếu sẽ thay đổi 0,01+0,78x(-0,4) = -0,3%. Vì vậy, cổ
103
phiếu của Viacom đã cung cấp một tỷ suất sinh lợi không
bình thường bằng - 6,5%
Tỷ suất sinh lợi không bình thường = tỷ suất sinh lợi thực tế
- tỷ suất sinh lợi mong đợi = (-6,8) – (0,3) = -6,5%
Tổng giá trị của cổ phiếu của Viacom ngay trước khi đưa ra
mức đặt giá vào khoảng 7,9 tỷ đô la. Vì vậy sụt giảm không
bình thường trong giá trị của cổ phiếu của Viacom là 0,065
x 7,9 tỷ hay 515 triệu đô la.
Để thấy thành quả của cổ phiếu Viacom qua một thời kỳ
phần nào dài hơn, chúng ta có thể tích lũy các tỷ suất sinh
lợi không bình thường mỗi ngày. Như vậy, nếu cổ phiếu
Viacom cung ứng một tỷ suất sinh lợi không bình thường
+5% ngày này và +6% ngày kế tiếp, lợi nhuận không bình
thường tích lũy qua hai ngày của công ty sẽ bằng 1,05 x
1,06 – 1 = 0,113 hay 11,3%. Hình 3.6 cho thấy thành quả
không bình thường tích lũy của cổ phiếu Viacom trước và
sau khi đặt giá mua Paramount. Chúng ta có thể thấy là tỷ
suất sinh lợi không bình thường từ ngay trước khi đưa ra đặt
giá ban đầu đến sau khi mua lại thành công là khoảng -50%.
Điều này tương ứng với một sụt giảm bốn tỷ đô la trong giá
trị của cổ phiếu của Viacom. Khi giá cổ phiếu sụt giảm, các
nhà đầu tư của Paramount trở nên ít “mặn mà” hơn với cổ
phiếu của Viacom mà họ được cung ứng. Để chiến thắng
104
trong cuộc chiến này, Viacom đã phải tăng số tiền mặt cung
ứng và phải bảo đảm mua lại cổ phiếu từ các cổ đông của
Paramount nếu giá cổ phiếu sụt dưới một mức ấn định.
Lưu ý hai điểm trong thí dụ . Thứ nhất, đáp ứng không nhiệt
tình của thị trường trước đặt giá đáng lẽ đã ban cho ban
quản lý công ty thấy rằng các nhà đầu tư xem việc mua lại
đề nghị là một giao dịch tồi của Viacom. Hình 3.6 cho thấy
rằng, khi Viacom chiến đấu để giành quyền kiểm soát
Paramount, cổ phiếu tiếp tục sụt giảm và thông điệp cho
ban quản lý trở nên lớn hơn và rõ hơn một cách tương ứng.
Dĩ nhiên, hẵn các giám đốc của Viacom cũng có thể có
thông tin khác mà các nhà đầu tư thiếu và có thể quyết định
đúng khi vẫn tiếp tục việc mua lại. Điểm chúng ta muốn nói
ở đây đơn giản là giá cổ phiếu của Viacom đã cung cấp một
tóm lược có giá trị về ý kiến của nhà đầu tư.
Hình 3.6 Tỷ suất sinh lợi không bình thường tích lũy của cổ
phiếu Viacom quanh thời điểm của cuộc chiến giành quyền
sáp nhập Paramount. Tỷ suất sinh lợi không bình thường âm
theo sau đặt giá của Viacom cho thấy rằng các nhà đầu tư
xem việc mua lại này như một đầu tư có NPV âm.
Lợi nhuận không bình thường không tích lũy, %
105
Thứ hai, thí dụ của chúng ta minh họa một cách thức rất dễ
để tính toán tỷ suất sinh lợi bình thường của một cổ phiếu.
Chúng ta sẽ gặp nhiều tình huống khi chúng ta đưa ra câu
hỏi một loại quyết định tài trợ cụ thể nào đó tác động thế
nào đến giá trị của doanh nghiệp. Để trả lời, chúng ta sẽ chú
trọng vào phần của tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu mà không
do các biến động của thị trường. Chúng ta gọi phần này là
tỷ suất sinh lợi không bình thường của cổ phiếu doanh
nghiệp. Nhớ rằng:
Tỷ suất sinh lợi không bình thường = tỷ suất sinh lợi
thực tế - tỷ suất sinh lợi mong đợi có chú ý đến tỷ suất
sinh lợi thị trường.
106
Để đo lường tỷ suất sinh lợi mong đợi, chúng ta có thể
xem cổ phiếu của doanh nghiệp đã đáp ứng thế nào
trong quá khứ trước các biến động thị trường.
Bài học 4: Không có các ảo tưởng tài chính
Trong một thị trường hiệu quả, không có các ảo tưởng tài
chính. Các nhà đầu tư chỉ quan tâm một cách thực tế đến
các dòng tiền của doanh nghiệp và phần của các dòng tiền
này mà học có quyền hưởng.
Thí dụ: Cổ tức cổ phiếu và các chia nhỏ cổ phiếu. Chúng ta
có thể minh họa bài học thứ tư này bằng cách xem xét tác
động của cổ tức cổ phiếu và chia nhỏ cổ phiếu. Mỗi năm
hàng trăm công ty gia tăng số cổ phiếu đang lưu hành, hoặc
bằng cách chia nhỏ số cổ phiếu hiện hữu hoặc bằng cách
phân phối thêm cổ phiếu dưới hình thức cổ tức. Việc này
không tác động đến dòng tiền tương lai của công ty hay tỷ
lệ của các dòng tiền này dành cho mỗi cổ đông. Thí dụ, giả
dụ giá cổ phiếu của Chaste Manhattan đang được bán với
giá 210$/cổ phiếu. Một chia nhỏ cổ phiếu ba cho một sẽ
thay thế mỗi cổ phiếu đang lưu hành bằng ba cổ phiếu mới.
Chaste có thể sắp xếp việc này bằng cách in hai cổ phiếu
mới cho mỗi cổ phiếu nguyên thủy và phân phối các cổ
phiếu mới này cho các cổ đông như một “món quà tặng,
không mất tiền”. Sau khi chia nhỏ, chúng ta sẽ mong đợi giá
107
bán mỗi cổ phiếu là 210/3 = 70$. Cổ tức mỗi cổ phiếu, thu
nhập mỗi cổ phiếu và tất cả các biến số từng cổ phiếu khác
sẽ bằng 1/3 mức trước đây.
Hình 3.7 tóm lược các kết quả của một cuộc nghiên cứu cổ
điển về chia nhỏ cổ phiếu trong suốt thời gian từ 1926 đến
1960.
30
Nó cho thấy thành quả không bình thường tích lũy
của các cổ phiếu quanh thời điểm chia nhỏ sau khi điều
chỉnh theo gia tăng số cổ phiếu.31 Lưu ý phần gia tăng giá
trước khi chia nhỏ. Công bố chia nhỏ hẵn đã xảy ra trong
tháng hoặc hai tháng sau cùng hoặc của thời kỳ này. Điều
này có nghĩa là quyết định chia nhỏ vừa là hậu quả của mộ
gia tăng giá cả vừa là nguyên nhân của một gia tăng giá cả
tiếp theo. Có vẻ như các cổ đông không thuộc loại cứng đầu
như chúng ta đã tưởng. Hình như họ quan tâm cả hình thức
lẫn chất lượng. Tuy nhiên, trong suốt năm kế tiếp, hai phần
ba của các công ty chia nhỏ cổ phiếu đã công bố gia tăng
trên trung bình trong cổ tức tiền mặt. Thông thường một
công bố như vậy sẽ tạp nên một gia tăng bất thường trong
giá cổ phiếu, nhưng trong trường hợp các công ty chia nhỏ
cổ phiếu, điều này không xảy ra ở bất kỳ thời điểm nào sau
khi chia nhỏ. Giải thích rõ ràng của điều này là việc chia
nhỏ cổ phiếu được kèm theo một hứa hẹn rõ rệt hay hàm ý
về gia tăng cổ tức, và việc tăng giá vào thời điểm chia nhỏ
không liên quan gì đến một sự ưa chuộng chia nhỏ như vậy,
108
mà chỉ liên quan đến thông tin mà người ta cho rằng việc
chia nhỏ cổ phiếu này chuyển tải.
Hình 3.7 Tỷ suất sinh lợi không bình thường tích lũy vào
thời điểm chia nhỏ cổ phiếu. (Tỷ suất sinh lợi được điều
chỉnh theo gia tăng trong số cổ phiếu). Lưu ý gia tăng trước
khi chia nhỏ và việc không có các thay đổi bất thường sau
khi chia nhỏ.
Thay đổi trong giá cổ phiếu, %
Nguồn: “Điều chỉnh giá cổ phiếu trước thông tin mới” của
E.Fama, L.Fished, M.Jensen và R.Roll, Tạp chí kinh tế quốc
tế 10 (1/1969)
109
Hành vi này không hàm ý là các nhà đầu tư thích cổ tức gia
tăng cho lợi ích riêng của mình, vì các công ty chia nhỏ cổ
phiếu có vẻ thành công một cách khác thường theo các cách
khác. Thí dụ, Asquith, Healy, và Palepu đã tìm thấy rằng
chia nhỏ cổ phiếu thường đi sau các gia tăng cao trong tỷ
suất sinh lợi.32 Các gia tăng tỷ suất sinh lợi cao như vậy
thường chỉ có tính tạm thời, và các nhà đầu tư đã đúng khi
xem xét chúng với một sự nghi ngờ. Tuy nhiên, chia nhỏ cổ
phiếu có vẻ như đã cung cấp cho các nhà đầu tư một bảo
đảm rằng trong trường hợp gia tăng trong tỷ suất sinh lợi là
thường xuyên thực sự.
Thí dụ: Các thay đổi kế toán. Có các trường hợp khác các
giám đốc có vẻ như cho rằng các nhà đầu tư thường có ảo
tưởng tài chính. Thí dụ, một vài doanh nghiệp dành một
lượng đáng kể công sức, mưu trí cho công tác “tác động”
đến tỷ suất sinh lợi báo cáo cho các cổ đông (báo cáo tỷ suất
sinh lợi ma), qua một hế thống “kế toán sáng tạo”, tức là
bằng cách chọn các phương pháp kế toán ổn định hàng hóa
và gia tăng tỷ suất sinh lợi báo cáo. Có thể các doanh
nghiệp này làm như vậy vì ban giám đốc tin rằng các cổ
đông chấp nhận các con số qua giá trị danh nghĩa của
chúng.
33
110
Một cách nữa mà các công ty có thể tác động đến tỷ suất
sinh lợi báo cáo của mình là tính chi phí các hàng hóa đã lấy
ra khỏi kho hàng. Các công ty có thể chọn lựa giữa hai
phương pháp. Theo phương pháp FIFO (nhập trước xuất
trước), doanh nghiệp trừ chi phí của hàng hóa đã đưa vào
kho hàng trước. Theo phương pháp LIFO (nhập sau xuất
trước) các công ty trừ chi phí của hàng hóa mới nhất vừa
nhập vào kho. Khi lạm phát cao, chi phí của hàng hóa mua
trước tiên thường thấp hơn giá hàng hóa mua sau cùng. Vì
vậy, tỷ suất sinh lợi tính theo FIFO có vẻ cao hơn tỷ suất
sinh lợi LIFO.
Bây giờ, nếu như đây chỉ là vấn đề trình bày, sẽ không có
hại gì khi chuyển từ LIFO sang FIFO.Nhưng cơ quan thuế
qui định rằng phương pháp được dùng để báo cáo cho cổ
đông phải được dùng để tính thuế của doanh nghiệp. Vì
vậy, chi trả thuế ngay thấp hơn do việc dùng phương pháp
LIFO cũng đưa đến tỷ suất sinh lợi thấp hơn.
Nếu các thị trường hiệu quả, các nhà đầu tư sẽ hoan nghênh
một chuyển đổi sang kế toán LIFO, ngay cả khi nó làm
giảm tỷ suất sinh lợi. Biddle và Lindahl, người đã nghiên
cứu vấn đề này, kết luận rằng đây chính là điều xảy ra, vì
vậy việc chuyển sang phương pháp LIFO thường đi kèm
theo với một gia tăng bất thường trong giá cổ phiếu.34 Có vẻ
111
như các cổ đông nhìn đàng sau các con số và chú trọng đến
số tiền thuế tiết kiệm được.
Bài học 5: Phương án tự làm lấy
Trong một thị trường hiệu quả, các nhà đầu tư sẽ không trả
tiền cho người khác để nhờ làm việc mà tự họ cũng làm
được tốt như vậy. Như chúng ta sẽ thấy, nhiều cuộc tranh
luận trong tài trợ doanh nghiệp tập trung vào việc các cá
nhân có thể sao chép hay tái tạo các quyết định tài chính
doanh nghiệp tốt như thế nào. Thí dụ, các công ty thường
biện minh các sáp nhập trên cơ sở là chúng mang đến một
doanh nghiệp đa dạng hóa hơn và do đó ổn định hơn.
Nhưng nếu các nhà đầu tư có thể nắm giữ cổ phiếu của cả
hai công ty, tại sao họ lại phải cám ơn các công ty về sự đa
dạng hóa này? Thường thì việc đa dạng hóa dễ hơn và rẻ
hơn cho họ hơn là cho các công ty.
Giám đốc tài chính cần hỏi cùng câu hỏi khi xem xét liệu
phát hành nợ tốt hơn hay phát hành cổ phiếu thường tốt
hơn. Nếu doanh nghiệp phát hành nợ, doanh nghiệp sẽ tạo
ra đòn bẩy tài chính. Kết quả là cổ phiếu sẽ rủi ro hơn và sẽ
phải cung ứng một tỷ suất tỷ suất sinh lợi mong đợi cao
hơn. Nhưng các cổ đông có thể đạt được đòn bẩy tài chính
mà không cần doanh nghiệp phát hành nợ: họ có thể vay
tiền cho riêng họ. Vì vậy, vấn đề của giám đốc tài chính là
112
quyết định xem liệu công ty có thể phát hành nợ rẻ hơn là
cá nhân cổ đông không.
Bài học 6: Đã xem một cổ phiếu, hãy xem tất cả
Tính co giãn của cầu đối với bất cứ một vật phẩm nào đo
lường phần trăm thay đổi trong số lượng cầu cho mỗi phần
trăm tăng thêm của giá cả. Nếu vật phẩm có các sản phẩm
thay thế tương lai, tính co giãn sẽ âm; nếu không, nó sẽ gần
zero. Thí dụ, cà phê là một hàng hóa ổn định, có tính co
giãn của cầu khoảng -0,2. Nghĩa là một thay đổi 5% trong
giá cà phê làm thay đổi doanh số khoảng -0,2 x 0,05 = -
0,01; nói cách khác, nó chỉ làm giảm mức cầu khoảng 1%.
Người tiêu dùng thường xem các nhãn hiệu cà phê khác
nhau như là các sản phẩm thay thế gần hơn của nhau.
Các nhà đầu tư không mua một cổ phiếu vì các tính chất
độc đáo của nó; mà vì nó cung ứng một triển vọng tỷ suất
sinh lợi phải chăng so với rủi ro cỉa nó. Điều này có nghĩa là
các cổ phiếu, hầu như là các thế phẩm tuyệt đối. Vì vậy,
mức cầu đối với cổ phiếu một công ty sẽ có tính co giãn
cao. Nếu tỷ suất sinh lợi triển vọng của nó quá thấp so với
rủi ro, sẽ không ai muốn nắm giữ cổ phiếu này. Nếu ngược
lại, mọi người sẽ tranh nhau mua.
113
Giả dụ chúng ta muốn bán một lượng lớn cổ phiếu. Vì cầu
có tính co giãn, thông thường chúng ta kết luận rằng chúng
ta chỉ cần cắt giảm nhẹ giá để bán cổ phiếu của mình.
Không may là mọi việc sẽ không nhất thiết diễn ra như vậy.
Khi chúng ta bán cổ phiếu, các nhà đầu tư khác có thể nghi
ngờ là chúng ta muốn vất bỏ nó vì một lý do nào đó mà họ
không biết. Vì vậy, họ sẽ điều chỉnh lại đánh giá của họ về
giá trị của cổ phiếu của chúng ta theo chiều hướng đi xuống
nghĩa là giá cổ phiếu sẽ giảm nhiều hơn. Cầu thì vẫn co
giãn, nhưng toàn bộ đường cong cầu sẽ đi xuống. Cầu co
giãn không ngụ ý là chúng ta có thể bán một lượng lớn cổ
phiếu sát với giá thị trường cho đến khi nào chúng ta có thể
thuyết phục các nhà đầu tư khác rằng chúng ta không có
thông tin riêng.
Sau đây là một trường hợp hỗ trợ cho quan điểm này: Trong
tháng 6/1977, Ngân hàng Anh Quốc đã đưa ra bán các cổ
phiếu của BP mà họ nắm giữ với giá 845 xu/cổ phiếu. Ngân
hàng sở hữu gần 67 triệu cổ phiếu của BP, vì vậy tổng giá
trị của số cổ phiếu họ nắm giữ là 564 triệu bảng Anh, hay
khoảng 970 triệu đô la. Đây là một số tiền khổng lồ mà
ngân hàng đề nghị công chúng tìm kiếm để mua cổ phiếu
BP.
114
Bất cứ ai muốn đặt mua cổ phiếu BP đã có khoảng gần hai
tuần để làm việc này. Ngay trước công bố của ngân hàng,
giá cổ phiếu BP là 912 xu. Trong hai tuần kế tiếp, giá sụt
xuống 898 xu, phần lớn ngang với thị trường vốn cổ phiếu
Anh. Vì vậy, vào ngày đặt mua cuối cùng chiết khấu do
ngân hàng đề nghị chỉ là 6%. Để đổi lại chiết khấu này, bất
kỳ người dự mua nào cũng phải tăng số tiền mặt cần thiết,
chấp nhận rủi ro là giá của cổ phiếu BP sẽ sụt giảm trước
khi biết kết quả của việc đăng ký mua, và đã phải chuyển
cho Ngân hàng Anh số cổ tức kế tiếp của BP.
Nếu cà phê Maxwell House được cung ứng với một chiết
khấu 6%, mức cầu sẽ không quá lớn. Nhưng chiết khấu của
cổ phiếu BP đủ để đưa số đăng ký mua cổ phiếu lên đến 4,6
tỷ đô la, gấp 4,7 lần số lượng cung ứng.
Chúng tha thừa nhận rằng trường hợp này có tính bất
thường về một phương diện nào đó nhưng một nghiên cứu
quan trọng của Myron Scholes về một mẫu lớn các cung
ứng lần thứ hai đã xác nhận khả năng của thị trường hấp thụ
một khối lượng lớn cổ phiếu. Tác động bình quân của các
cung ứng này là một sụt giảm nhẹ trong giá cổ phiếu, nhưng
sụt giảm này hầu như độc lập với số lượng cung ứng. Ước
tính của Scholes về độ co giãn của cầu cho cổ phiếu một
công ty là -3000. Dĩ nhiên, con số này không chắc chắn sẽ
115
chính xác, và một vài nhà nghiên cứu đã lập luận rằng cầu
không co giãn nhiều như nghiên cứu của Scholes cho thấy.
35
Tuy nhiên, có vẻ như có một sự nhất trí rộng rãi với quan
điểm chung là chúng ta có thể bán số lượng lớn cổ phiếu
với giá sát với giá thị trường, miễn là các nhà đầu tư khác
không suy diễn là chúng ta có một thông tin nào đó.
Ở đây, một lần nữa, chúng ta gặp phải một mâu thuẫn rõ rệt
với thực tế. Nhiều doanh nghiệp có vẽ tin rằng độ co giãn
của cầu không chỉ thấp mà còn thay đổi theo giá cổ phiếu,
vì vậy khi giá tương đối thấp, cổ phiếu mới chỉ có thể bán
được với một suất chiết khấu lớn ở thị trường chứng khoán
Mỹ. Các ủy ban điều phối tiểu bang và liên bang là những
cơ quan ấn định mức giá của các công ty điện thoại, các
công ty điện, và các công ty dịch vụ công ích địa phương,
đôi khi cho phép các tỷ suất tỷ suất sinh lợi cao hơn một
cách đáng kể để đền bù cho “áp lực” giá cả của các công ty
này. Áp lực này là sụt giảm trong giá cổ phiếu, được cho là
sẽ xảy ra khi cổ phiếu mới được cung ứng ra công chúng.
Tuy nhiên, Paul Asquith và Divid Mullins, là người đã tìm
kiếm chứng cứ của áp lực này, tìm thấy rằng phát hành cổ
phiếu mới của các công ty dịch vụ công ích đã chỉ đẩy giá
cổ phiếu của các công ty này xuống khoảng 0,9%.36 Chúng
ta sẽ trở lại chủ đề áp lực này khi trình bày về phát hành cổ
phiếu.
116
3.2 Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM)
Mô hình định giá tài sản vốn (Capital Asset Pricing
Model CAMP) là cốt lõi của lý thuyết kinh tế tài chính hiện
đại. Nhà kinh tế học Henry Markowitz là người đầu tiên đặt
nền móng cho lý thuyết đầu tư hiện đại vào năm 1952.
Mười hai năm sau, hai nhà kinh tế học William Sharpe,
John Lintner và Jan Mossin tiếp tục phát triển mô hình
CAMP lên một đỉnh cao mới.Mô hình cho chúng ta khả
năng dự đoán được mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất ước
tính. Việc nghiên cứu mô hình định giá tài sản CAMP có
những ý nghĩa quan trọng như sau:
- Cung cấp cho chúng ta một lãi suất chuẩn để đánh giá và
lựa chọn phương án đầu tư có hiệu quả cao.
- Giúp chúng ta có thể phán đoán được lợi suất kỳ vọng
đốivới những tài sản chưa giao dịch trên thị trường. Ví dụ,
nó giúp chúng ta có thể định giá được cổ phiếu lần đầu tiên
phát hành ra thị trường. Ảnh hưởng của một quyết định đầu
tư với thu nhập của nhà đầu tư được thể hiện trên giá cổ
phiếu của công ty như ra sao?
Mặc dù trên mô hình CAMP không luôn luôn đúng trong
mọi trường hợp nhưng nó vẫn được coi là phương pháp phổ
biến nhất vì cho kết quả chính xác trong nhiều ứng dụng
phân tích.
3.2.1- Những giả định kinh tế cho thị trƣờng vốn
117
Những lý thuyết về kinh tế là sự sự giải thích thực tiễn. Do
vậy, chúng cần dựa trên một số những giả định. Mặc dù có
một số giả định được đưa ra là không thực tế nhưng những
giả định này làm đơn giản hoá việc tính toán. Trong mô
hình định giá tài sản CAMP, các giả định được phân ra làm
hai loại : Giả định về thị trường vốn và giả định về tâm lý
của các nhà đầu tư
* Những giả định về tâm lý của các nhà đầu tƣ
+ Giả định 1 : Các nhà đầu tư khi đưa ra quyết định của
mình đều dựa trên việc phân tích hai yếu tố: lợi suất ước
tính và rủi ro của chứng khoán.
Giả định này cho chúng ta biết những nguyên nhân dẫn tới
quyết định đầu tư. Một nguyên tắc quan trọng trong việc lựa
chọn các phương án đầu tư là mức độ rủi ro càng cao thì lợi
nhuận càng lớn để bù đắp cho các rủi ro mà nhà đầu tư phải
chịu.Vì vậy,các nhà đầu tư này được gọi là những nhà đầu
tư thận trọng.
+ Giả định 2: Các nhà đầu tư sẽ tìm cách giảm rủi ro bằng
việc đầu tư vào nhiều chứng khoán khác nhau trong tập hợp
danh mục đầu tư của mình
+ Giả định 3: Trong một khoảng thời gian nhất định các
quyết định đầu tư được đưa ra và kết thúc. Khoảng thời gian
này không nhất thiết phải được cố định. Nó có thể được tính
bằng 6 tháng, 1 năm, 2 năm ... .
118
+ Giả định 4: Các nhà đầu tư có cùng một kỳ vọng về các
thông số đầu vào được sử dụng để tạo lập danh mục đầu tư
hữu hiệu Markowitz . Chúng là các thông số : mức lợi suất,
độ rủi ro hay các quan hệ tương hỗ.
* Những giả định về thị trƣờng vốn
+ Giả định 1: Thị trường vốn là thị trường cạnh tranh hoàn
hảo. Nghĩa là trên thị trường có rất nhiều người bán và
nhiều người mua. Không có một nhà đầu tư riêng lẻ nào có
thể chi phối được thị trường. Do vậy, họ không lũng đọan
được thị trường.Giá cả trên thị trường chỉ chịu ảnh hưởng
của quan hệ cung cầu.
+ Giả định 2: Không có các loại phí giao dịch trên thị
trường hay bất cứ một sự trở ngại nào trong việc cung và
cầu của một loại chứng khoán.
+ Giả định 3: Trên thị trường tồn tại các loại chứng khoán
không có rủi ro mà nhà đầu tư có thể đầu tư. Mặt khác, nhà
đầu tư có thể vay với lãi suất bằng lãi suất không rủi ro đó.
Nói cách khác, lãi suất vay và lãi suất cho vay bằng nhau và
bằng lãi suất không rủi ro.
* Danh mục đầu tƣ thị trƣờng (Market Portfolio)
Danh mục đầu tư thị trường là một danh mục đầu tư
bao gồm tất cả những tài sản có rủi ro trên thị trường và mỗi
119
tài sản trong danh mục này chiếm một tỷ lệ đúng bằng giá
thị trường của tài sản đó trong tổng giá trị của toàn bộ thị
trường.
Ví dụ : Nếu giá trị của VNM chiếm 2% toàn bộ tài
sản có nguy cơ rủi ro thì trong danh mục đầu tư thị trường,
giá trị cổ phiếu của VNM sẽ chiếm 2%.
Nếu một nhà đầu tư nắm trong tay danh mục đầu tư
thị trường sẽ dùng 2% của tổng số tiền định dùng vào đầu tư
các chứng khoán có nguy cơ rủi ro để đầu tư vào cổ phiếu
của công ty VNM.
Để việc nghiên cứu được đơn giản, khi nhắc đến khái
niệm tài sản có nguy cơ rủi ro (Risky Assets) thường được
hiểu là các cổ phiếu.
* Đường thị trường vốn (the Capital Market Line –
CML)
Mô hình định giá tài sản vốn CAMP của Markowitz,
căn cứ vào khả năng chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư ã
cung cấp cho cho chúng ta nguyên tắc chọn danh mục đầu
tư tối ưu, Áp dụng mô hình trên, nếu thị trường tồn tại loại
chứng khoán phi rủi ro ( với lãi suất phi rủi ro – Risk – free
Rate – RF) và giả thiết rằng cá nhân nhà đầu tư có thể vay
không hạn chế trên cơ sở lãi suất này (giả thuyết 3 của thị
trường vốn) thì kết quả về lý thuyết lựa chọn danh mục đầu
tư sẽ được mô tả như hình 3.1
120
Tỷ suất sinh lợi mong đợi
Đường CML
M
Pb
Rf Đường Markowit
Độ lệch chuẩn
Hình 3.1
Trên hình 3.1, đường CML tiếp tuyến với đường
cong Markowitz tại M. phiá bên trái của M biểu hiện sự kết
hợp đầu tư của những tài sản có khả năng rủi ro và tài sản
có lãi suất an toàn. Còn phiá bên phải của M biểu hiện
phương án mua những tài sản có khả năng rủi ro mà những
tài sản này được mua bằng tiền đi vay với lãi suất an toàn.
Chúng ta hãy so sánh giữa hai danh mục đầu tư : một
nằm trên đường thẳng PB và một nằm trên đường cong PA .
Hai danh mục đầu tư này có cùng khả năng rủi ro như nhau.
Pa
121
PB là sự kết hợp của phương án đầu tư giữa tài sản có
lãi suất an toàn và danh mục đầu tư tối ưu M. PB hưá hẹn
đem lại lãi suất cao hơn PA . Những nhà đầu tư không thích
rủi ro nhất định sẽ lựa chọn danh mục PB hiệu quả hơn PA .
Thực tế điều này rất đúng cho bất kỳ điểm nào nằm trên
đường thẳng đó chỉ duy nhất trừ điểm M vì nó nằm trên
đường cong tối ưu cuả Markowitz.
Chúng ta có thể khẳng định về lý thuyết lựa chọn
danh mục đầu tư ;nhà đầu tư sẽ chọn những danh mục đầutư
nằm trên đường cong tối ưu trong mô hình của Markowitz.
Vấn đề lựa chọn danh mục trong số đó phụ thuộc vào khả
năng chấp nhận rủi ro của mỗi nhà đầu tư. Trường hợp nhà
đầu tư có thể cho vay và đi vay theo lãi suất phi rủi ro (RF)
thì họ sẽ chọn một trong các danh mục đầu tư nằm trên
đường thẳng CML.
* Xây dựng công thức cho đƣờng CML:
Để rút ra công thức cho đường CML, chúng ta giả
thuyết rằng nhà đầu tư tạo dựng một danh mục đầu tư bao
gồm chứng khoán phi rủi ro (RF) với tỷ trọng vốn đầu tư
WF và danh mục thị trường M với tỷ trọng đầu tư WM.
a) Tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục đầu tư :
Tỷ suất sinh lợi mong đợi của một danh mục gồm hai tài
sản rủi ro và tài sản phi rủi ro.Đây là bình quân tỷ trọng của
hai tỷ suất sinh lợi :
122
p
R = Wf Rf + WMRM
Trong đó :
p
R là tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục
đầu tư
Wf là tỷ trọng đầu tư vào tài sản phi rủi ro
WM là tỷ trọng đầu tư vào danh mục thị trường gồm
các tài sản rủi ro
Rf là tỷ suất sinh lợi của tài sản phi rủi ro
RM là tỷ suất sinh lợi của của các tài sản rủi ro
Ta có : Wf + WM = 100% = 1 hay là Wf = 1 - WM
Do đó :
p
R = (1 – WM) Rf + WMRM = Rf + WM(RM – Rf)
(3.1)
b) Độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư :
Phương sai của danh mục đầu tư :
22
,
222 2 MMMfMfffp WWWW
Tài sản phi rủi ro có độ lệch chuẩn bằng 0.
2
p
= 22 MMW
MMp W = (1 – Wf) M (3.2)
Như vậy độ lệch chuẩn của danh mục kết hợp giữa một tài
sản phi rủi ro với các tài sản rủi ro là tỷ lệ tuyến tính của độ
lệch chuẩn danh mục các tài sản rủi ro.
123
Từ (3.2)
M
p
MW (3.3)
Thay (3.3) vào (3.1)
Ta có :
p
R = Rf +
M
p (RM – Rf) = Rf +(RM – Rf)
M
p (3.4)
Phương trình (3.4) được biểu diễn bằng đường thẳng có tên
gọi là đƣờng thị trƣờng vốn CML (The capital market
line).(Hình 3.1) (Hình 3.2)
c) Kết hợp rủi ro và tỷ suất sinh lợi - Đường thị trường
vốn CML (The Capital Market Line) :
Vì cả tỷ suất sinh lợi và độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi của
một danh mục là kết hợp tuyến tính. Hình 3.2
Dọc theo đường thẳng Rf - A chúng ta có thể đạt
được bất kỳ điểm nào bằng việc đầu tư một tỷ lệ danh mục
vào tài sản phi rủi ro Wf (tín phiếu kho bạc) và phần còn lại
(1 – Wf =WM) sẽ đầu tư vào danh mục tài sản rủi ro ở điểm
A trên đường biên hiệu quả. Các tập hợp có thể của danh
mục kết hợp có ưu thế hơn tất cả các danh mục tài sản rủi ro
trên đường hiệu quả bên dưới điểm A vì một danh mục nào
đó nằm trên đường Rf – A có cùng phương sai nhưng lại có
tỷ suất sinh lợi cao hơn tỷ suất sinh lợi của danh mục nằm
dưới điểm A trên đường biên hiệu quả ban đầu.
Tương tự, chúng ta có thể đạt được bất kỳ điểm nào
trên đường Rf – B bằng cách đầu tư vào các kết hợp tài sản
124
phi rủi ro và danh mục tài sản rủi ro ở tại điểm B. Theo đó,
các kết hợp tiềm năng này có ưu thế hơn tất cả các danh
mục nằm dưới điểm B trên đường biên hiệu quả ban đầu (kể
cả đường Rf – A). Chúng ta có thể vẽ các đường thẳng khác
từ Rf đến đường biên hiệu quả Markowitz ở các điểm ngày
càng cao hơn cho đến khi chúng ta đạt đến một điểm mà ở
đó đừơng thẳng này sẽ tiếp xúc với đường biên hiệu quả,
thể hiện ở điểm M trên hình 3.2. Tập hợp các danh mục
nằm trên đường Rf – M có ưu thế hơn tất cả các danh mục
nằm dưới điểm M. Chẳng hạn như chúng ta có thể đạt được
một kết hợp rủi ro và tỷ suất sinh lợi giữa điểm Rf và điểm
M (điểm C) bằng cách đầu tư một nửa vào tài sản phi rủi ro
(có nghĩa là cho vay tiền với lãi suất phi rủi ro Rf) và đầu tư
nửa kia vào danh mục tài sản rủi ro ở điểm M.
Các khả năng có thể có của rủi ro – tỷ suất sinh lợi trong
trƣờng hợp có sử dụng đòn bẩy. Một nhà đầu tư có thể
muốn đạt được một tỷ suất sinh lợi cao hơn tại điểm M
nhưng phải chấp nhận mức độ rủi ro cao hơn. Cách thứ nhất
là đầu tư vào một trong số số các danh mục tài sản rủi ro
trên đường biên hiệu quả nằm xa danh mục tại điểm M
chẳng hạn như danh mục tại điểm D. Cách thứ hai là sử
dụng đòn bẩy tài chính bằng cách đi vay ở lãi suất phi rủi ro
và đầu tư số tiền này vào danh mục tài sản rủi ro M.
Như vậy cả tỷ suất sinh lợi và rủi ro đều tăng theo đường
thẳng tuyến tính Rf – M ban đầu và mở rộng về phía bên
phải. Các điểm nằm trên đường mở rộng này có ưu thế hơn
mọi điểm nằm trên đường biên hiệu quả Markowitz. Do đó,
125
chúng ta có được một đường hiệu quả mới : đó là đường
thẳng từ Rf tiếp xúc với điểm M. Đường thẳng này được
xem là đường thị trường vốn CML và được thể hiện trong
hình 3.2 với phương trình đã được xét ở trên là :
p
R = Rf + (RM – Rf)
M
p phản ánh quan hệ giữa rủi ro và tỷ
suất sinh lợi của danh mục đầu tư gồm tài sản phi rủi ro và
danh mục tài sản rủi ro.
Vì đường CML là đường thẳng đi lên, nên tất cả các danh
mục trên đường CML có tương quan dương hoàn toàn với
nhau. Mối tương quan dương này ngược lại với các quan sát
của chúng ta vì tất cả các danh mục trên đường CML là kết
hợp danh mục tài sản rủi ro M và một tài sản phi rủi ro. Bạn
có thể đầu tư một phần vào tài sản phi rủi ro (tín phiếu kho
bạc) (có nghĩa là bạn cho vay với lãi suất phi rủi ro Rf) và
phần còn lại đầu tư vào danh mục tài sản rủi ro M, hoặc đi
vay với lãi suất phi rủi ro Rf và đầu tư phần tiền này vào
danh mục tài sản rủi ro. Trong cả hai trường hợp, tất cả tính
khả biến của danh mục bắt nguồn từ danh mục tài sản rủi ro
M. Sự khác biệt duy nhất giữa các danh mục khác nhau trên
đường CML là độ lớn của tính khả biến, tính khả biến này
do tỷ lệ phần trăm của danh mục tài sản phi rủi ro trong
danh mục kết hợp gây ra.
Vì danh mục M nằm tại điểm tiếp tuyến nên nó có khả năng
kết hợp của các danh mục cao nhất và mọi nhà đầu tư đều
126
muốn đầu tư vào danh mục M và đi vay hoặc cho vay để đạt
được một điểm nào đó trên đường CML.
Hình 3.2 : Các khả năng danh mục khi kết hợp một tài
sản phi rủi ro với các danh mục tài sản khác nhau trên
đƣờng biên hiệu quả Markovitz. Đƣờng thị trƣờng vốn
CML với giả định vay và cho vay với lãi suất phi rủi ro
* Ý nghĩa của đƣờng thị trƣờng vốn :
A
B C
D
M
Rf
Độ lệch chuẩn
Tỷ suất sinh lợi mong đợi
CML
Cho vay
Đi vay
127
Trong phần trên, chúng ta đã giả thiết các nhà đầu tư có
cùng thông số đầu vào của mô hình định giá tài sản vốn (giả
thuyết 4). Với sự đồng nhất về khả năng thu được lợi nhuận,
độ lệch chuẩn của thị trường ( M) và độ lệch chuẩn của
danh mục đầu tư P( P); sự nhất quán của thị trường trong
việc đánh giá lợi suất của danh mục thị trường và danh mục
đầu tư P, độ nghiêng của đường CML là ;
Rm – RF
M
+ Xét về ý nghĩa kinh tế :
Tử số thể hiện phần vượt trội của lợi suất ước tính
thu được từ đầu tư vào chứng khoán rủi ro (danh mục thị
trường) so với mức lợi suất thu được từ việc đầu tư vào
chứng khoán phi rủi ro (tín phiếu Kho bạc). Nói cách khác,
đây là phần bù đắp rủi ro của việc nắm giữ chứng khoán rủi
ro thay cho chứng khoán phi rủi ro.
Mẫu số thể hiện mức độ rủi ro của danh mục đầu tư
thị trường.
Như vậy, độ dốc của đồ thị biểu hiện mức độ bù đắp
thu nhập cho mỗi đơn vị rủi ro của thị trường, vì đường
CML biểu hiện mức lợi suất có thể nhận được cho mỗi mức
độ rủi ro mà nhà đầu tư chấp nhận. Mỗi điểm trên đường
128
thẳng thể hiện trạng thái cân bằng của thị trường ở các cấp
độ khác nhau. Độ dốc đường CML quyết định thu nhập phụ
trội cần thiết để bù đắp cho mỗi đơn vị thay đổi trong rủi ro
mà nhà đầu tư phải gánh chịu. Đó chính là lý do để coi
đường CML là giá trị thị trường của rủi ro ( Market Price of
risk)
3.2.2 Hệ số beta
Hệ số beta của một cổ phiếu là một chỉ số nêu lên
mức độ thu nhập của cổ phiếu đó thay đổi khi có sự thay đổi
về lãi suất của thị trường.
Lãi suất thị trường được đo bằng lãi suất trung bình
của một tập hợp những cổ phiếu lớn đang giao dịch trên thị
trường. Hệ số beta của thị trường bằng 1 và hệ số beta của
các chứng khoán khác được xem xét xoay quanh giá trị này.
Ví dụ, nói cổ phiếu A có hệ số beta = 0,72 có nghĩa
là nếu thu nhập của thị trường tăng lên 1% vào tháng tới thì
chúng ta có thể mong đợi lãi suất của cổ phiếu A tăng lên
0,72%.
Hệ số beta có thể là số dương hoặc một số âm, cổ
phiếu có hệ số beta là dương thì thu nhập của nó có mối
quan hệ thuận chiều với thu nhập của thị trường và ngược
lại. Theo thống kê, phần lớn các cổ phiếu có hệ số beta
mang giá trị dương.
129
Chứng khoán có hệ số càng cao thì yêu cầu lợi suất
càng cao.
* Một số tính chất của hệ số beta:
+ Những chứng khoán không có rủi ro thì có hệ số beta = 0
Nếu J = 0 : lợinhuận kỳ vọng của chứng khoán có J = 0
chính là lợi nhuận không rủi ro (kF) bởi vì trong trường hợp
này :
j
R = RF + J [
MR – RF]
Mà J = 0 nên jR = RF
Như vậy, lợi suất của chứng khoán không có rủi ro
chính bằng lợi suất của tín phiếu kho bạc (T-bill) không rủi
ro.
+ Danh mục đầu tư thị trường có hệ số beta = 1
Hệ số beta của danh mục thị trường được xác định
như sau :
M=
MM
=
2
M
= 1
2
M
2
M
(Ghi chú E(RM) = MR )
130
Do vậy : E(RM) = RF + 1 [E(RM) – RF] = (RM)
+ Nếu chứng khoán J nào đó có hệ số beta giống
như danh mục đầu tư thị trường (bằng 1) thì lợi suất ước
tính (lợi suất kỳ vọng) của nó bằng lợi suất ước tính của
danh mục thị trường.
Nếu J = 1 : Lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán J
= 1 chính là lợi nhuận thị trường E(RM) , bởi vì trong trường
hợp này :
E(RJ) = RF + J [E(RM) – RF] = RF + [E(RM) – RF]
= E(RM)
Trường hợp này, lợi suất ước tính của chứng khoán J
bằng lợi suất ước tính của danh mục thị trường. Nếu một
chứng khoán có hệ số lớn hơn của danh mục thị trường
( J > 1) thì có nghĩa nó có rủi ro cao hơn và dẫn đến lợi
suất kỳ vọng sẽ lớn hơn lợi suất của danh mục thị trường và
ngược lại.
+ Quan hệ tuyến tính : Quan hệ giữa lợi nhuận cổ
phiếu và hệ số rủi ro của nó là quan hệ tuyến tính được diễn
tả bằng đường SML có hệ số góc: E(RM) = RF
+ Beta của một danh mục đầu tư tính theo công thức:
P = W1 1 + W2 2 + ... + Wn n
131
P =
n
Wj j
j=1
Trong đó:
Wj : Tỷ trọng của chứng khoán J trong danh mục
(bằng tỷ lệ của giá trị thị trường của chứng khoán J trên
tổng giá trị thị trường của danh mục đầu tư có số lượng n
chứng khoán)
Vì vậy, rủi ro hệ thống của một danh mục đầu tư là
giá trị bình quân gia quyền cuả rủi ro hệ thống của từng
chứng khoáng riêng lẻ nằm trong danh mục đầu tư đó. Điều
này cũng có nghĩa là beta của một danh mục đầu tư có chưá
tất cả các chứng khoán (danh mục thị trường M) thì bằng 1
* So sánh giữa SML và CML:
CML thể hiện mối tương quan giữa lợi suất với rủi ro
của những danh mục tổng thể hiệu quả. SML thể hiện mối
quan hệ hàm số bậc nhất giữa lợi suất và rủi ro của từng
chứng khoán riêng lẻ.
Rủi ro hệ thống là mối quan tâm đốivới các nhà đầu
tư vì chúng không thể loại bỏ được bằng biện pháp đa dạng
hoá danh mục đầu tư.
Hệ số của một chứng khoán hay một danh mục đầu
tư là chỉ số rủi ro của hệ thống tài sản đó và được xác định
132
bằng phương pháp thống kê. Hệ số được tính toán dựa
trên số liệu quá khứ về lợi suất đầu tư của chứng khoán đó
và lợisuất của danh mục thị trường.
3.2.3- Quan hệ giữa lý thuyết thị trƣờng vốn và mô hình
định giá tài sản vốn CAPM :
Phương trình đường thị trường vốn CML :
p
R = Rf + (RM
– Rf)
M
p phản ánh mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất sinh
lợi mong đợi của danh mục đầu tư.
Giả sử chúng ta thay danh mục đầu tư bằng một chứng
khoán cá biệt j, thì phương trình trên có thể viết thành :
j
R = Rf + (RM – Rf)
M
j (3.5)
Đặt j =
M
j thì
j
R = Rf + (RM – Rf) j (3.6)
Như vậy, phương trình (3.6) chính là phương trình biểu diễn
đường thị trường chứng khoán SML. Do đó, có thể kết luận
rằng mô hình định giá tài sản vốn chỉ là một trường hợp đặc
biệt của lý thuyết thị trường vốn mà thôi.
3.2.4 MÔ HÌNH CAPM TRONG ĐIỀU KIỆN THỊ
TRƢỜNG VỐN VIỆT NAM
Việc ứng dụng các mô hình CAPM để dự báo tỷ suất sinh
lợi chứng khoán là rất cần thiết đối với các nhà đầu tư mang
tính chuyên nghiệp đối với hầu hết các thị trường vốn trên
thế giới và Việt Nam . Tuy nhiên, Thị trường vốn Việt Nam
mới được hình thành từ tháng 7 năm 2000 và cho đến nay
133
thị trường vốn Việt Nam vẫn chưa được phát triển, những
diễn biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời
gian qua là bằng chứng hiển nhiên cho việc thiếu vắng các
công cụ dự báo này. Đa số các nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán Việt Nam hiện nay đều thực hiện quyết định
đầu tư một cách cảm tính. Liệu có khả năng ứng dụng một
mô hình CAPM dự báo tỷ suất sinh lợi trên thị trường
chứng khoán Việt Nam hiện nay? Quả thật vấn đề áp dụng
CAPM ở Việt Nam còn rất nhiều khó khăn và trở ngại.
-Thứ nhất, hàng hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam
quá ít về chủng loại, nghèo nàn về số lượng và đặc biệt là
thiếu các hàng hóa cao cấp để các nhà đầu tư có thể yên tâm
đầu tư lâu dài. Mặc dù đã có những giải pháp và nỗ lực từ
phía Nhà nước nhằm tạo thêm sự phong phú về hàng hóa
cho thị trường chứng khoán nhưng hiệu quả thực sự là chưa
cao. Vì thế, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa hấp dẫn
các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư chuyên nghiệp
và có nguồn lực tài chính lớn.
-Thứ hai, mô hình CAPM là mô hình dưới dạng một
hàm hồi quy trong đó biến độc lập là tỷ suất sinh lợi của
danh mục đại diện cho toàn bộ thị trường, còn biến phụ
thuộc là tỷ suất sinh lợi của chứng khoán cá biệt. Hiện nay
tại các nước phát triển trên thế giới vì thị trường chứng
khoán bao gồm rất nhiều chứng khoán khác nhau nên người
ta coi danh mục thị trường đồng nghĩa với danh mục cổ
phiếu lập chỉ số chính của thị trường cổ phiếu, chẳng hạn
như ở Mỹ là S & P 500, ở Pháp là CAC 40, ở Nhật là
Nikkei 225, còn ở Việt Nam chỉ có chỉ số VN Index. Tuy
nhiên hiện nay ở Việt Nam số lượng công ty và ngân hàng
niêm yết chưa nhiều nên chưa thể xem như là danh mục đại
diện cho toàn bộ thị trường.
134
-Thứ ba, là CAPM sử dụng hệ số bêta để liên kết khả năng
sinh lợi với hệ số Beta. Coi Beta là phương tiện để đo rủi ro
không phân tán được. Thế nhưng Việt Nam hiện nay đang
tồn tại một vấn đề lớn nữa là sự thiếu vắng hệ số Beta trong
việc phân tích rủi ro của các chứng khoán. Nói cách khác,
các nhà đầu tư chưa chú trọng đến hệ số Beta trong việc
đánh giá chứng khoán. Hiện nay, trên website các công ty
chứng khoán có liệt kê những tỷ số cơ bản về tài chính và
so sánh với tỷ số trung bình thị trường. Một số trang web
cũng đề cập đến hệ số Beta trong danh mục khái niệm các
chỉ số tài chính cần phân tích nhưng chưa thực sự có ý định
sử dụng nó. Phần lớn chỉ là nêu những chỉ số tài chính
chung có liên quan đến doanh lợi như chỉ số lợi nhuận/vốn
(ROE), lợi nhuận thuần/doanh thu, lợi nhuận/tài sản, hoặc
liên quan đến tình hình vay nợ như tổng vay nợ trên vốn
hoặc liên quan đến giá chứng khoán và lợi nhuận như P/E,
ngoài ra không thấy những chỉ số như tỷ số giá thị trường so
với giá sổ sách (PBV), betaCó thể nói rằng ở Việt Nam
hiện nay chưa có một tổ chức nào chuyên về vấn đề tính
toán và công bố Beta. Trong thực tế, hiện nay Beta của các
công ty niêm yết cũng đã được một số chuyên gia đang
nghiên cứu về vấn đề này quan tâm tính toán tuy nhiên chưa
đảm bảo được tính chuyên nghiệp như những nhà cung cấp
dịch vụ là Value Line Investment Survey, Market Guide và
Standard & Poor's Stock Reports ở Mỹ hay Burns Fry
Limited ở Canada. Do sự tác động của nhiều nhân tố phi thị
trường nên vai trò của Beta ở Việt Nam còn tương đối hạn
chế. Tuy nhiên, khi danh mục thị trường ngày càng hoàn
thiện, Beta sẽ phát huy tác dụng và theo kịp với sự phát
triển của thị trường. Thông qua hệ số Beta và các tỷ số thị
trường khác như như tỷ số giá trên thu nhập (P/E) và giá trị
thị trường trên giá trị sổ sách (PBV), doanh nghiệp sẽ
135
nhìn nhận rõ hơn về rủi ro và năng lực cạnh tranh của chính
bản thân mình. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng có điều
kiện để ứng dụng những kỹ thuật phân tích và dự báo một
cách hiệu quả hơn, gần với kỳ vọng hơn. Khi tính toán và
sử dụng hệ số Beta, việc nghiên cứu và sử dụng những mô
hình dự báo sẽ trở thành hiện thực hơn chứ không nằm trên
lý thuyết nữa.
-Thứ tư, mô hình CAPM ở thị trường chứng khoán Việt
Nam chỉ vận hành tốt khi các nhà đầu tư có được thông tin
ngang bằng nhau, thông tin không bị rò rỉ và vì thế minh
bạch hóa thông tin là điều kiện tiên quyết để phát triển thị
trường chứng khoán. Đây chính là nguyên tắc công khai,
được coi là một nguyên tắc quan trọng nhất của thị trường
chứng khoán. Có thể nói, nếu không có một hệ thống công
bố thông tin hoạt động theo đúng yêu cầu thì thị trường
chứng khoán không thể vận hành được. Thị trường chứng
khoán Việt Nam còn nhỏ bé và sơ khai. Tuy nhiên, các văn
bản pháp quy điều chỉnh vấn đề công bố thông tin trên thị
trường chứng khoán đã và đang được xây dựng nhằm đảm
bảo nguyên tắc công khai, minh bạch thông tin trên thị
trường và duy trì củng cố lòng tin của nhà đầu tư.
Tóm lại, mô hình CAPM nhằm mục đích giúp cho nhà đầu
tư có những dự báo bổ sung cần thiết cho hoạt động kinh
doanh của mình trên thị trường chứng khoán Việt Nam –
một thị trường mới nổi với những rủi ro và hạn chế. Tuy
nhiên, việc ứng dụng mô hình này sẽ có những hạn chế nhất
định trong thực tiễn. Thông qua những hạn chế này, chúng
tôi mong muốn nêu ra một vài vấn đề bức thiết mà chúng ta
phải nhìn nhận và giải quyết một cách triệt để nhằm tạo tiền
đề cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
trong thời gian sắp tới.
136
Bảng 3.1 : Hệ số beta, rủi ro tổng thể và rủi ro phi hệ thống
của các cổ phiếu tính theo ngày qua 4 năm (7.2000-7.2004)
Công
ty
Hệ số
beta
(b)
Rủi ro
tổng
thể
(d2)
(%)
Rủi ro
thị
trường
(dM2)
(%)
Rủi ro
phi hệ
thống
(de2 =
d2 -
b2dM2)
(%)
% của
rủi ro
phi hệ
thống /
rủi ro
tổng
thể (%)
Hệ số
tương
quan với
thị
trường
Số
phiên
giao
dịch
1 2 3 4 5 6=5/3 7 8
REE
SAM
HAP
TMS
LAF
SGH
CAN
DPC
BBC
TRI
GIL
BTC
BPC
1,088
1,010
0,861
0,956
0,809
0,658
0,827
0,794
1,121
0,855
0,896
0,462
0,824
0,047
0,041
0,054
0,052
0,049
0,052
0,029
0,030
0,035
0,027
0,027
0,035
0,028
0,031
0,031
0,031
0,031
0,032
0,028
0,013
0,013
0,012
0,012
0,012
0,012
0,012
0,010
0,009
0,031
0,023
0,028
0,040
0,020
0,022
0,020
0,018
0,017
0,033
0,020
21,8
21,7
57,3
44,8
57,3
77,1
68,8
73,1
56,4
66,8
64,2
92,8
72,1
0,886
0,886
0,654
0,744
0,654
0,479
0,559
0,520
0,662
0,577
0,600
0,269
0,529
839
839
836
836
780
694
652
636
627
623
621
613
570
137
BT6
GM
D
AGF
SAV
TS4
KHA
HAS
VTC
PMS
BBT
DHA
1,080
0,893
0,777
1,046
0,724
0,838
0,735
0,863
0,897
1,120
0,468
0,026
0,019
0,020
0,025
0,041
0,027
0,032
0,039
0,043
0,046
0,022
0,012
0,012
0,012
0,012
0,012
0,012
0,014
0,015
0,023
0,009
0,006
0,012
0,010
0,013
0,012
0,034
0,019
0,024
0,027
0,024
0,034
0,021
47,2
50,5
64,2
49,3
84,1
68,0
75,4
70,8
56,2
74,1
94,2
0,728
0,705
0,599
0,713
0,400
0,567
0,498
0,542
0,666
0,514
0,245
565
563
558
553
489
482
395
365
181
95
73
Trung
bình
0,035 0,017 0,022 62,8 0,591
Nguồn:Tính toán từ số liệu tập hợp từ
ttp://www.chungkhoandenhat.com,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_phan_tich_dau_tu_chung_khoan_p1_1587.pdf