Trở lại với vấn đề thực tiễn hiện nay, chúng ta thấy để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống bên cạnh việc giáo dục, tuyên truyền,phổ biến pháp luật, cần tìm hiểu những giá trị của luật tục để đưa ra sự điều chỉnh về mặt pháp luật cho phù hợp. Ngôn ngữ của pháp luật phải phổ thông, dễ hiểu, dễ áp dụng trên thực tế. Văn bản pháp luật phải dễ truy cập, kết hợp giải quyết tốt mối quan hệ về tính hợp lý và tính hợp pháp để pháp luật có được tính khả thi, đi vào cuộc sống.
- Mở rộng dân chủ công khai, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách đông đảo vào việc soạn thảo, thảo luận, đóng góp ý kiến về các dự án pháp luật để qua đó nâng cao YTPL của người dân.
- Đẩy mạnh sự lãnh đạo của Đảng trong công tác giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo thường xuyên, đầy đủ và toàn diện.
- Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng cán bộ pháp lý có đủ năng lực, trình độ, có phẩm chất chính trị và phong cách làm việc tốt để bố trí vào các cơ quan làm công tác pháp luật.
- Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, tổ chức cho nhân dân tham gia một cách mạnh mẽ vào công tác này, dùng sức mạnh pháp chế XHCN, kết hợp với dư luận quần chúng, đấu tranh chống những hành vi vi phạm pháp luật.
- Phải kết hợp giáo dục pháp luật vơi giáp dục đạo đức, văn hóa nâng cao trình độ chung của nhân dân.
59 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 3367 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ôn tập lý luận chung nhà nước và pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t
+ Nghị quyết.
Hiến pháp là luật cơ bản, quy định những vấn đề cơ bản nhất của quốc gia.
Luật điều chỉnh các loại quan hệ trong đời sống nhà nước và xã hội.
Nghị quyết giải quyết những vấn đề cụ thể, nhất thời.
2. UBTVQH: + Pháp lệnh
+ Nghị quyết
Nhiều pháp lệnh mang tính chất luật, điều chỉnh quan hệ xã hội chưa được pháp điển hóa thành luật.
Nghị quyết giải quyết những vấn đề cụ thể.
3. Chủ tịch nước: + Lệnh
+ Quyết định
Có hiệu lực pháp lý gần như ngang với văn bản của UBTVQH, cao hơn các văn bản của Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương.
4. Chính phủ: + Nghị quyết
+ Nghị định
Có hiệu lực pháp lý thấp hơn văn bản của Chủ tịch nước.
5. Thủ tướng Chính phủ: + Quyết định
+ Chỉ thị
Sử dụng quá trình điều hành Chính phủ.
6. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ: + Quyết định
+ Chỉ thị
+ Thông tư
Giới hạn trong phạm vi của 1 bộ, hoặc cùng các bộ, ban ngành, tổ chức xã hôi cùng thực hiện một vấn đề chung.
7. Hội đồng thẩm phán TANDTC: + Nghị quyết
8. Viện trưởng VKSNDTC: + Quyết định
+ Chỉ thị
+ Thông tư
9. HĐND: + Nghị quyết.
10. UBND: + Quyết định
+ Chỉ thị
Hệ thống VBQPPL ở Việt Nam theo Hiến pháp 1992 và luật ban hành VBQPPL bao gồm:
- Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, Nghị quyết.
- Văn bản do UBTVQH ban hành: Pháp lệnh, Nghị quyết.
- Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thi hành VBQPPL của Quốc hội và UBTVQH:
+ Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
+ Nghị quyết, nghị định của Chính phủ. Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
+ Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
+ Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
+Nghị quyết, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng VKSNDTC.
+ Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với các tổ chức chính trị- xã hội.
- Văn bản do HĐND, UBND để thi hành VBQPPL của Quốc hội, UBTVQH và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Văn bản do UBND ban hành còn để thi hàng Nghị quyết của HĐND cùng cấp.
+ Nghị quyết của HĐND.
+ Quyết định, chỉ thị của UBND.
II. Thực trạng:
1. Ưu điểm: (4)
- Pháp luật từ chỗ tản mạn nay đã có hẳn chương trình xây dựng pháp luật, có luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Bước đầu có sự pháp điển hóa thành các bộ luật, pháp luật trở nên gần gũi, khách quan và khả thi hơn.
- Pháp luật ngày càng ghi nhận các quyền và lợi ích chính đáng của con người mà trước đây chủ yếu nói về nghĩa vụ, bổn phận.
- Ta đã quan tâm đến cả 2 mặt pháp luật kinh doanh và pháp luật về các vấn đề xã hội phát huy những mặt tích cực và phát huy những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường, từng bước giải quyết 2 vấn đề tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội.
2. Hạn chế: (7).
- Quy trình, thể thức ban hành văn bản của ta về cơ bản còn lạc hậu so với các nước trên thế giới.
- VBQPPL của ta, qua đợt tổng rà sóat đã phát hiện nhiều sai phạm, nhiều văn bản chồng chéo, trái với quy định của luật, nghị định...
- Quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, xét về tổng thể, hệ thống VBQPPL của ta hiện rất lộn xộn, có nhiều văn bản hướng dẫn hay quy định 1 cách sai lạc so với quy định của pháp luật hoặc văn bản cấp trên.
- Văn bản pháp luật của ta thường xuyên thay đổi, mất đi tính ổn định của pháp luật.
- VBQPPL của ta thiếu tính minh bạch, nhiều quy phạm khôngcó cách hiểu thống nhất. Nhiều văn bản mức độ khái quát hóa cao, dẫn đến việc hiểu như thế nào cũng được, không khả thi và khó thực hiện.
- Nhiều văn bản pháp luật không được công khai hóa, khó cập nhật với người dân, dẫn đến tình trạng người dân không hiểu luật, thậm chí thờ ơ trước pháp luật.
- Trong những năm gần đây, không hẳn là chúng ta thiếu các văn bản pháp luật, tuy nhiên vấn đề thực thi trên thực tế lại không mấy hiệu quả do pháp luật của chúng ta chưa đi vào cuộc sống, chưa được áp dụng một cách triệt để và đồng bộ.
3. Phương hướng hòan thiện: (5).
- Dân chủ hóa trong việc ban hành các văn bản pháp luật, mục đích xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, tham gia lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, VBQPPL ban hành phải thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân.
- Nâng cao chất lượng soạn thảo, xây dựng VBQPPL, bằng việc khảo sát thực tế, phát hiện những vấn đề hợp lý nhưng chưa hợp pháp cần tháo gỡ để hoàn thiện.
- Hoàn thiện hệ thống VBQPPL để người dân có thể dễ dàng truy cập, ngôn ngữ cần phải đơn giản, dễ hiểu, dễ vận dụng trên thực tế.
- Văn bản cần phải minh bạch, chặt chẽ về mặt hình thức, đáp ứng được yêu cầu về mặt nội dung.
- Tăng cường công tác pháp điển hóa, tập hợp hóa các văn bản dưới luật để đề lên thành luật. Đồng thời kiểm tra, rà soát những văn bản đã hết hiệu lực.
Câu 15: Xu hướng cơ bản phát triển của pháp luật.
- Hiện nay nhà nước pháp quyền đang được coi là giá trị văn minh của nhân loại mà mọi người, mọi quốc gia muốn trở thành dân chủ, tiến bộ, văn minh đều phải hướng tới.
- ở Việt Nam, mặc dù nhà nước pháp quyền là vấn đề mới cả về phương diện lý luận nhận thức và thực tiễn nhưng mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN đã được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII, IX của Đảng, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 và đang được nghiên cứu, xây dựng cho phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước.
- Hiện nay, xung quanh vấn đề khái niệm nhà nước pháp quyền có nhiều quan điểm rất khác nhau thậm chí mâu thuẫn nhau nhưng tất cả các quan điểm đó đều đề cập đến 1 đặc điểm rất quan trọng và nổi b ật của nhà nước pháp quyền đó là vai trò to lớn của pháp luật.
- Pháp luật trong nhà nước pháp quyền chỉ là phương tiện quản lý mọi mặt của đời sống xã hội mà còn là sự ghi nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội, đối với mọi công dân tồn tại trong xã hội đó. Nó không chỉ là phương tiện để đảm bảo thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà còn là yếu tố đảm bảo và duy trì ổn định và phát triển xã hội, của đất nước, đảm bảo về mặt pháp lý quyền tự do dân chủ của công dân được thực hiện.
- Để thực sự phát huy được vai trò to lớn của mình trong nhà nước pháp quyền, để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, pháp luật Việt Nam cần đổi mới và phát triển theo các xu hướng sau:
1. Quy định rộng rãi hơn trong pháp luật các thiết chế dân chủ và những hình thức dân chủ trong đời sống xã hội, mở rộng các quyền tự do dân chủ của công dân, dân chủ hóa hoạt động tư pháp.
- Hiến pháp 1992 và các đạo luật tổ chức bộ máy nhà nước đã thực hiện tư tưởng cải cách bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền. Đối chiếu những điều khoản tương ứng của Hiến pháp 1992 với Hiến pháp 1980, có thể thấy vị trí, vai trò của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được nêu cao một bước. Pháp luật hiện hành cũng quy định chặt chẽ hơn địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội và quan hệ của các tổ chức đó với nhà nước, tạo điều kiện cho chúng tham gia quản lý những công việc của nhà nước và xã hội.
- Hiến pháp 1992( chương V) quy định rộng rãi và hợp lý hơn các quyền và nghĩa vụ của công dân so với Hiến pháp 1980. Có những quyền lần đầu tiên được Hiến pháp 1992 quy định, ví dụ: công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 57). Nhiều năm gần đây xuất hiện những quy định pháp luật mở rộng quyền tự do đi lại, ra nước ngoài thăm thân nhân, đi học tập, đào tạo...
- Pháp luật hiện hành điều chỉnh chi tiết hơn những hình thức để công dân và các tổ chức của họ tham gia vào đời sống chính trị, mở rộng hoặc quy định chi tiết hơn các hình thức như bầu cán bộ lãnh đạo, bỏ phiếu tín nhiệm, thảo luận góp ý kiến dự án pháp luật, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý, khiếu nại, tố cáo...tạo ra cơ sở cho công dân tham gia tòan diện hơn vào công tác quản lý nhà nước.
- Việc dân chủ hóa trong hoạt động tư pháp, việc ban hành pháp lệnh luật sư, sửa đổi quy định Hiến pháp về chức năng VKS, việc thành lập tòa kinh tê, hành chính trong hệ thống tòa án cùng với chế độ bổ nhiệm thẩm phán, công khai hoạt động xét xử, coi trọng nguyên tắc bào chữa và từ bào chữa của bị can , bị cáo... đã thể hiện bước tiến quan trọng của pháp luật nước ta.
2. Mở rộng sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội.
-Dưới tác động của quá trình xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu,bao cấp và xây dựng nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, phạm vi điều chỉnh của pháp luật nước ta có những thay đổi nhất định và ngày càng mở rộng. Xuất hiện những văn bản quy phạm pháp luật mới điều chỉnh những vấn đề: đầu tư của cá nhân, tổ chức nước ngoài vào Việt Nam, bảo vệ môi trường, đảm bảo về mặt xã hội đối với người lao động, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân... Để nhà nước thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế thị trường, bên cạnh đòi hỏi hoàn thiện luật dân sự chắc chắn sẽ phải có các văn bản điều chỉnh chi tiết hơn về hoạt động, tổ chức, ngoại hối, ngân sách, tín dụng, thuế, giá cả, chống độc quyền, phá sản, bảo vệ người tiêu dùng...
- Sự thay đổi và mở rộng phạm vi điều chỉnh của pháp luật diễn ra không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà ở các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Ví dụ: vấn đề dân số, di sản văn hóa, du lịch...
3. Nhân đạo hóa, vì con người và bảo vệ con người.
- Ngay từ khi hình thành, nguyên tắc nhân đạo của pháp luật nước ta đã được khẳng định. Ngày nay pháp luật Việt Nam ngày càng quan tâm nhiều hơn đến con ngừoi và cuộc sống của họ.
- Xu hướng nhân đạo hóa vì con người và bảo vệ con người được thể hiện ở chỗ chẳng những pháp luật ngày càng chú trọng tới lợi ích người sản xuất, người tiêu dùng, mở rộng quyền tự do dân chủ, nâng cao tinh thần trách nhiệm của công dân, thiết lập lối sống tập thể ; mà còn ở quá trình thay thế các biện pháp quản lý cứng nhắc mang tính chất trừng trị bằng các biện pháp mang tính nhân đạo hơn và giáo dục hơn.
Trong pháp luật hình sự có những hành vi ít nguy hiểm cho xã hôi trong điều kiện mới đã không bị coi là tội phạm mà chỉ bị xử lý hành chính. Pháp luật xử phạt hành chính hiện hành cũng xóa bỏ nhiều hình thức xử phạt trước đó và chỉ giữ 2 hình thức xử phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền và 2 hình phạt bổ sung là tước quyền sử dụng giấy phép và tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm.
- Xu hướng nhân đạo cũng được biểu hiện ở sự xóa bỏ 1 số hành vi trước đây coi là vi phạm pháp luật và chuyển giao cho các tổ chức xã hội, tập thể lao động giải quyết bằng giáo dục, thuyết phục và các biện pháp tác động xã hội khác.
- Tuy nhiên xu hướng nhân đạo hóa không loại trừ việc pháp luật quy định tăng nặng hình phạt và các chế tài khác đối với một số vi phạm nhất định nhằm thiết lập, củng cố trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ví dụ: Gần đây pháp luật hình sự nước ta đã quy định mức án cao nhất là tử hình đối với tội tham nhũng hoặc pháp luật xử phạt hành chính cũng có xu hướng tăng mức tiền phạt đối với buôn lậu, làm hàng giả và kinh doanh trái phép.
4. Sự phát triển pháp luật gắn liền vơi xu hướng pháp điển hóa các ngành luật.
- Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền là quá trình phải đề cao vai trò của pháp luật và các đạo luật, bộ luật ngày càng chiếm lĩnh vị trí chủ đạo trong việc điều chỉnh những lĩnh vực quan hệ xã hội quan trọng của đời sống. Thực tiễn đòi hỏi phải dần thay thế các văn bản dưới luật bằng những đạo luật, bộ luật, đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, khắc phục sự mâu thuẫn, chồng chéo và tình trạng cục bộ ngành, chủ nghĩa đa phương thể hiện trong pháp luật.
- Hiện nay các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đang đẩy mạnh hoạt động xây dựng pháp luật. Trên cơ sở Hiến pháp 1992, nhiều đạo luật mới, ví dụ các luật về tổ chức bộ máy nhà nước đã được ra đời. Thời gian tới nhà nước sẽ ban hành nhiều các đạo luật khác như Luật Tòa án hành chính, Luật công chức nhà nước.
- Bên cạnh Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật hàng hải... đã được ban hành, bộ luật dân sự cũng đang được quan tâm xây dựng.
- Thời gian qua, hoạt động xây dựng pháp luật theo hướng đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền đã được triển khai một cách có hiệu quả. Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN là xây dựng nhà nước pháp quyền thực sư của dân, do dân và vì dân. Pháp luật thực sự bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân và phục vụ nhân dân. Nhân dân là trung tâm, là mục tiêu hướng tới của pháp luật cũng như mọi thiết chế chính trị. Với những xu hướng phát triển cơ bản như trên, pháp luật chắc chắn sẽ đáp ứng những yêu cầu của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền và góp phần vào quá trình hiện thực hóa nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Câu 16: Quan hệ pháp luật.
I. Khái niệm quan hệ pháp luật.
- Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội dưới tác động điều chỉnh của các quy phạm pháp luật.
- Phân biệt quan hệ pháp luật với quan hệ xã hội: Không phải dưới tác động của quy phạm pháp luật, quan hệ xã hội sẽ trở thành quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật cũng không phải là 1 bộ phận của quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội luôn tồn tại khách quan, quan hệ pháp luật là phạm trù chủ quan xuất hiện trên cơ sở ý chí của nhà làm luật. QHXH được nhiều khoa học xã hội khác nhau nghiên cứu, còn QHPL do khoa học pháp lý nghiên cứu. Nhưng 2 khái niệm này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi một QHXH được khoác chiếc áo pháp lý thì vẫn tồn tại song song 2 loại quan hệ: QHXH nội dung vật chất của QHPL, QHPL là hình thức pháp lý của QHXH. QHPL có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc làm trật tự hóa QHXH, hướng nó phát triển phù hợp với ý định của nhà làm luật.
- Đặc điểm:
1. QHPL là quan hệ mang tính ý chí.
- QHPL phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật, mà nội dung quy phạm pháp luật phản ánh ý chí nhà nước.
- Trong đa số các trường hợp, trong khuôn khổ quy phạm pháp luật đã xác định, QHPL phát sinh, thay đổi và chấm dứt do ý chí của các bên tham gia.
2. QHPL là một loại quan hệ tư tưởng, quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng.
- Pháp luật nói chung là một hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng. QHPL xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật vì vậy nó thuộc kiến trúc thượng tầng. Tính chất và nội dung QHPL phụ thuộc vào tính chất quan hệ sản xuất.
- Sự phụ thuộc của QHPL vào cơ sở kinh tế: là 1 loại quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng, QHPL thay đổi phù hợp với sự thay đổi của cơ sở kinh tế, kiểu quan hệ sản xuất nhất định sẽ sản sinh ra kiểu QHPL tương ứng.
-Sự tác động trở lại của QHPL với cơ sở kinh tế: sở dĩ như vậy vì hầu hết các quan hệ kinh tế XHCN đều thực hiện dưới hình thức pháp lý- QHPL. QHPL không chỉ có vai trò quan trọng trong việc củng cố các quan hệ kinh tế mà còn tạo điều kiện cho nó phát triển thuận lợi. Không loại trừ khả năng nó kìm hãm, hạn chế sự phát triển của quan hệ kinh tế.
3. QHPL xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật.
- Không có quy phạm pháp luật thì không có QHPL. QHPL là phương tiện thực hiện quy phạm pháp luật, vì quy phạm pháp luật được thực hiện trong đời sống thông qua QHPL.
- Quy phạm pháp luật xác định trước điều kiện xuất hiện của QHPL, chủ thể tham gia quan hệ, quyền và nghĩa vụ pháp lý và những biện pháp bảo vệ quyền và nghĩa vụ ấy khi chúng bị vi phạm.
4. QHPL là quan hệ mà các bên tham gia( chủ thể) quan hệ đó mang quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.
- Quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý được quy phạm pháp luật quy định cấu thành nội dung của quan hệ quy phạm. Quy phạm pháp luật luôn quy định sao cho quyền chủ thể của một bên phải tương ứng với nghĩa vụ pháp lý của bên kia và ngược lại, nghĩa vụ pháp lý của 1 bên phải phù hợp với quyền chủ thể của bên còn lại.
5. Sự thực hiện quan hệ pháp luật được đảm bảo bằng cưỡng chế nhà nước.
- QHPL xác định rõ trách nhiệm phap lý của các chủ thể vi phạm nghĩa vụ pháp lý hoặc quyền chủ thể, đồng thời quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật, giám sát việc thực hiện pháp luật và xử lý khi có vi phạm.
- Tuy nhiên, QHPL được thực hiện trong đời sống không chỉ nhờ cưỡng chế mà còn được thực hiện nhờ ý thức tự giác, tự nguyện của các bên tham gia.
6. QHPL có tính xác định.
Trên cơ sở quy phạm pháp luật, nhiều QHPL được hình thành. QHPL có tính xác định cụ thể vì nó chỉ xuất hiện khi có sự kiện pháp lý, khi có chủ thể nhất định tham gia.
* Phân loại QHPL:
- Tương ứng với các ngành luật: quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hình sự...
- Căn cứ vào cách quy định quyền và nghĩa vụ giữa những bên tham gia:
+ QHPL phức tạp: mỗi chủ thể có cả quyền và nghĩa vụ.
+ QHPL đơn giản: 1 bên thuần túy có quyền, 1 bên có nghĩa vụ.
- Tính chất nghĩa vụ được trao cho các bên tham gia:
+ QHPL tích cực: bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ bằng những hành động tích cực.
+ QHPL thụ động: bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ bằng không hành động.
- Căn cứ vào đặc trưng của sự tác động:
+ QHPL điều chỉnh: là quan hệ hình thành trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh.
+ QHPL bảo vệ: là quan hệ hình thành trên cơ sở quy phạm pháp luật bảo vệ trật tự pháp luật.
II. Chủ thể pháp luật và chủ thể QHPL:
- Chủ thể QHPL là những cá nhân, tổ chức có khả năng trở thành các bên tham gia QHPL , có được quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở những quy phạm pháp luật.
- Chủ thể pháp luật có thuộc tính đặc biệt do nhà nước trao cho là năng lực chủ thể.
+ Năng lực pháp luật: là khả năng chủ thể có được quyền và nghĩa vụ pháp lý m à nhà nước thừa nhận.
+ Năng lực hành vi: là khả năng của chủ thể, khả năng này được nhà nước thừa nhận, bằng các hành vi của mình thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý khi tham gia các QHPL.
- Đặc điểm các loại chủ thể:
+ Công dân: . Năng lực chủ thể xuất hiện từ khi sinh ra.
. Năng lực hành vi: đến một độ tuổi nhất định, ngoài ra còn phụ thuộc vào trình độ, sức khỏe.
+ Người nước ngoài, người không có quốc tịch: có thể trở thành chủ thể QHPL theo các điều kiện áp dụng cho công dân Việt Nam. Tuy nhiên, trong 1 số lĩnh vực, năng lực chủ thể của người nước ngoài và người không có quốc tịch bị hạn chế hoặc trong trường hợp cá biệt được mở rộng hơn.
+ Các tổ chức: gồm tổ chức nhà nước (cơ quan quản lý, quyền lực nhà nước, tòa án, viện kiểm sát...); tổ chức xã hội; nhà nước nói chung; tổ chức kinh tế.
. Nhà nước là chủ thể đặc biệt của pháp luật, là chủ thể của QHPL quốc tế, của ngành luật nhà nước.
. Các tổ chức: có đặc trưng:
1) Cơ cấu tổ chức thống nhất quy định trong quy chế, điều lệ, hoặc trong văn bản của nhà nước.
2) Có năng lực pháp lý xác định.
3) Năng lực pháp luật, năng lực hành vi xuất hiện đồng thời với việc thành lập tổ thức.
4) Năng lực hành vi được thực hiện thông qua cơ quan, người đại diện.
5) Hoạt động của các tổ chức được gắn liền với những lĩnh vực nhất định của đời sống nhà nước và xã hội.
+ Trong lĩnh vưc dân sự, kinh tế, các tổ chức có tư cách pháp nhân:
1) Là tổ chức có cơ cấu thống nhất, hoàn chỉnh.
2) Có tài sản riêng và chịu trách nhiệm tài sản của mình.
3) Họat động với danh nghĩa riêng, có trụ sở và quốc tịch.
4) Có thể nhân danh mình tiến hành các hoạt động kể cả hoạt động tố tụng và chịu trách nhiệm về hậu quả phát sinh từ hoạt động đó.
II. Quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.
Là nội dung của QHPL, xuất hiện ở các cá nhân, tổ chức trên cơ sở quy phạm pháp luật.
1. Quyền chủ thể: là khả năng xử sự của những người tham gia quan hệ được quy phạm pháp luật quy định trước, được bảo vệ bởi sự cưỡng chế nhà nước.
- Đặc điểm quyền chủ thể:
+ Khả năng được hoạt động trong khuôn khổ do quy phạm pháp luật xác định trước.
+ Khả năng yêu cầu bên kia (chủ thể cùng tham gia QHPL) thực hiện nhiệm vụ của họ ( sự thực hiện có thể bằng hành động hoặc không hành động).
+ Khả năng yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết đối với bên kia để họ thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp quyền chủ thể của mình bị bên kia vi phạm.
- Quyền chủ thể xuất hiện trên cơ sở quy phạm trao nghĩa vụ: quyền năng. Là khả năng của 1 bên, khả năng đó được nhà nước bảo vệ, yêu cầu bên kia có xử sự cần thiết trong khuôn khổ do quy phạm pháp luật xác định.
- Quyền chủ thể xuất hiện trên cơ sở quy phạm trao quyền: là những loại biện pháp thuộc khả năng xử sự của bản thân chủ thể được nhà nước bảo vệ.
2. Nghĩa vụ pháp lý:
- Nghĩa vụ pháp lý trong QHPL là cách xử sự bắt buộc được quy phạm pháp luật xác định trước mà một bên phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền chủ thể của bên kia.
- Đặc điểm:
+ Là sự bắt buộc phải có những xử sự nhất định do quy phạm pháp luật xác định trước.
+ Các xử sự này nhằm thực hiện quyền chủ thể của bên kia.
+ Trong trường hợp cần thiết, nhiệm vụ pháp lý sẽ được thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
- Nghĩa vụ pháp lý xuất hiện trên cơ sở quy phạm trao nghĩa vụ: xuất hiện nghĩa vụ thụ động, tức bên có nghĩa vụ phải kìm chế mình không thực hiện những hành vi bị ngăn cấm.
IV. Khách thể QHPL:
- Khách thể QHPL là cái mà QHPL đó tác động tới.
- Các cá nhân, tổ chức tham gia vào những QHPL nhằm thỏa mãn những nhu cầu kinh tế, chính trị, tinh thần, hoặc thông qua những hành vi thực hiện quyền chính trị, quyền bầu cử... Những hành vi trên gắn chặt với quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.
Khách thể QHPL là các hành vi của các công dân, tổ chức khi tham gia vào QHPL, thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.
- Các hành vi này luôn hướng tới 1 đối tượng cụ thể như lợi ích vật chât (tài sản), giá trị tinh thần (danh dự, nhân phẩm, tự do) hoặc lợi ích chính trị (bầu cử). Các đối tượng này là khách thể của hành vi.
V. Sự kiện pháp lý:
- Sự kiện pháp lý là những điều kiện,hòan cảnh, tình huống của đời sống thực tế được chỉ ra trong phần giả định của quy phạm pháp luật mà nhà làm luật gắn chặt sự xuất hiện, thay đổi, chấm dứt của QHPL với sự tồn tại của nó.
- Không phải mọi điều kiện,hoàn cảnh, tình huống của đời sống thực tế là sự kiện pháp lý, mà chỉ những sự kiện có ý nghĩa pháp lý trong số đó và được nhà làm luật thừa nhận.
- Phân loại:
+ Phụ thuộc vào số lượng những hoàn cảnh, điều kiện làm này sinh hậu quả pháp lý:
. Sự kiện pháp lý đơn giản: Ví dụ: cái chết của 1 người.
. Sự kiện pháp lý phức tạp: Ví dụ: được nhận lương hưu phải có những điều kiện như thâm niên công tác, thời gian công tác, đơn xin về hưu, quyết định...
+ Căn cứ vào hậu quả sự kiện pháp lý.
. Sự kiện pháp lý làm phát sinh QHPL.
. Sự kiện pháp lý làm biến đổi QHPL.
. Sự kiện pháp lý làm chấm dứt QHPL.
+ Phân theo dấu hiệu ý chí:
. Sự biến: là những hiện tượng của đời sống khách quan xảy ra không phụ thuộc vào ý chí con người.
. Hành vi: bao gồm : hành động và không hành động.
Hành vi hợp pháp: là xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật; hành vi bất hợp pháp là xử sự trái với yêu cầu của pháp luật.
Câu 17: Thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật.
I. Thực hiện pháp luật.
- Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật.
- Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý chia thành những hình thức thực hiện pháp luật sau:
1. Tuân thủ pháp luật:
Là 1 hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hiện những hành vi mà pháp luật ngăn cấm. Ví dụ: 1 công dân kiềm chế không thực hiện những hành vi mà Bộ luật hình sự ngăn cấm- tuân thủ các quy định của bộ luật đó.
2. Thi hành pháp luật:
Là 1 hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình bằng hành động tích cực. Ví dụ: pháp luật quy định công dân nam từ 18-27 phải thực hiện nghĩa vụ quân sự, 1 thanh niên trong độ tuổi trên nhập ngũ, phục vụ trong quân đội- thi hành pháp luật.
3. Sử dụng pháp luật :
Là 1 hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện bằng những hành vi mà pháp luật cho phép). Ví dụ: pháp luật quy định quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, 1 công dân có quyền gửi đơn khiếu nại tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình bị vi phạm- sử dụng pháp luật.
Chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật trao cho theo ý chí của mình.
4. áp dụng pháp luật:
Là 1 hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật.
Trong trường hợp này các chủ thể thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật, tổ chức xã hội cũng có thể thực hiện hoạt động này.
* Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật là hình thức mà mọi chủ thể đều có thể thực hiện. áp dụng pháp luật là hình thức luôn có sự tham gia của nhà nước.
II. áp dụng pháp luật:
1. Khái niệm áp dụng pháp luật.
a) Sự áp dụng pháp luật xảy ra trong các trường hợp sau:
- Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế do các chế tài pháp luật quy định với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Ví dụ: 1 chủ thể pháp luật thực hiện hành vi phạm tội thì không phải ngay sau đó trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành hình phạt. Cần phải có hoạt động của cơ quan Tòa án, cơ quan bảo vệ pháp luật có liên quan điều tra, xét xử... ra bản án và buộc chấp hành.
- Khi quan hệ pháp luật với những quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý cụ thể không thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước.
Ví dụ: Hiến pháp 1992 quy định mọi công dân có quyền và nghĩa vụ lao động. Nhưng quan hệ pháp luật lao động với những quyền và nghĩa vụ lao động cụ thể giữa công dân với cơ quan, tổ chức nhà nước chỉ phát sinh khi có quyết định tuyển dụng.
- Khi xảy ra tranh chấp, quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được.
Ví dụ: tranh chấp giữa những bên tham gia hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự.
- Trong 1 số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại hoặc không tồn tại của 1 số sự việc, sự kiện thực tế.
Ví dụ: việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp.
áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước. Nó vừa là hình thức thực hiện pháp luật,vừa là cách thức cơ quan nhà nước tổ chức cho các bên chủ thể thực hiện pháp luật.
2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật.
- áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước.
+ Chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành: pháp luật quy định mỗi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện 1 số hoạt động áp dụng pháp luật nhất định. Trong quá trình áp dụng pháp luật, pháp luật được coi là phương tiện, công cụ cần thiết để cơ quan nhà nước thực hiện chức năng của mình.
+ Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành theo ý chí đơn phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành áp dụng pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng.
+ Sự áp dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và chủ thể liên quan.
+ Trong trường hợp cần thiết, quyết định áp dụng pháp luật được bảo đảm bằng cưỡng chế nhà nước.
- áp dụng pháp luật là hoạt động có hình thức, thủ tục được pháp luật quy định chặt chẽ.
+ Pháp luật quy định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ áp dụng pháp luật.
+ Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính thủ tục đó.
- áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt , cụ thể đối với các quan hệ xã hội.
+Đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật là những quan hệ xã hội yêu cầu sự điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên cơ sở những mệnh lệnh quy phạm chung.
+ Bằng hoạt động áp dụng pháp luật, những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa, cụ thể hóa vào đời sống xã hội.
- áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo.
+ Khi áp dụng pháp luật cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sácg tỏ cấu thành pháp lý, lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng và tổ chức thi hành.
+ Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ cần vận dụng 1 cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự.
* Định nghĩa: áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
3. Hình thức thể hiện của hoạt động áp dụng pháp luật là văn bản áp dụng pháp luật.
Đặc điểm:
- VBADPL là 1 yếu tố của sự kiện pháp lý phức tạp.
- Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách, tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền ban hành và được đảm bảo băng biện pháp cưỡng chế nhà nước.
- Có tính chất cá biệt, nó luôn hướng các cá nhân, tổ chức cụ thể trong những trương hợp cụ thể.
- Phải hợp pháp và phù hợp với thực tế. Phải phù hợp với luật và quy phạm pháp luật cụ thể nếu không sẽ bị đình chỉ, hủy bỏ. Không phù hợp với thực tế thì sẽ không thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả.
- Có những hình thức pháp lý nhất định: như bản án, quyết định...
4. Căn cứ vào nội dung và nhiệm vụ của VBADPL: chia thành 2 loại:
- Văn bản xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý theo hướng tích cực: là loại văn bản trong đó xác định cụ thể ai mang quyền chủ thể, ai mang nghĩa vụ pháp lý bằng con đường cá biệt hóa phần quy định của quy phạm pháp luật.
- Văn bản bảo vệ pháp luật: là văn bản chứa đựng những biện pháp trừng phạt, cưỡng chế nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật.
* VBADPL là văn bản pháp lý cá biệt, mang tính quyền lực nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở quy phạm pháp luật nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể mang tính tích cực của các cá nhân, tổ chức hoặc xác định những biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm pháp luật.
III. Thực tiễn áp dụng pháp luật:
ở nước ta trong điều kiện chuyển đổi cơ chế kinh tế và xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, xuất hiện 2 xu hướng có liên hệ mật thiết với nhau:
- Xu hướng thu hẹp phạm vi những quan hệ xã hội cần có sự điều chỉnh cá biệt mang tính quyền lực nhà nước. Nguyên nhân của xu hướng này là sự đổi mới vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế.
- Xu hướng nâng cao vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật nói chung và chất lượng của VBADPL nói riêng, trong đó đặc biệt quan trọng là đề cao hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án và hiệu quả của các quyết định xét xử của nó. Ngoài hệ thống Tòa án truyền thống xét xử những vụ việc hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình xuất hiện 1 loại tòa án mới như tòa hành chính, tòa kinh tế, tòa lao động.
Điều đó nhằm tạo ra cơ chế hữu hiệu để đảm bảo trật tự kỷ cương, các quyền tự do dân chủ, sự công bằng và tiến bộ xã hội.
Câu 18: ý thức pháp luật.
I. Khái niệm và chức năng ý thức pháp luật.
1. Khái niệm:
ý thức pháp luật là tổng thể các học thuyết, tư tưởng, tình cảm của con người thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hoặc không công bằng, đúng đắn hoặc không đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật trong quá khứ và pháp luật cần phải có, về tính hợp pháp hoặc không hợp pháp trong cách xử sự của con người, trong hoạt động của các cơ quan , tổ chức.
2. Đặc điểm:
- Với tính cách là 1 hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội nhưng có tính độc lập tương đối. Thể hiện:
+ Nó thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội. Thực tế đã chứng minh: tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng ý thức nói chung trong đó có ý thức pháp luật do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng trong 1 thời gian dài. Những tàn dư của quá khứ được giữ lại đặc biệt ngoan cố trong lĩnh vực tâm lý pháp luật, nơi mà các thói quen truyền thống đóng vai trò to lớn. Ví dụ: những biểu hiện tâm lý của pháp luật phong kiến như sự thờ ơ, phủ nhận đối với pháp luật vẫn phổ biến trong xã hội ta.
+ Trong những điều kiện nhất định, nhiều tư tưởng pháp luật, đặc biệt là tư tưởng pháp luật khoa học có thể vượt lên trên sự phát triển tồn tại xã hội. Nếu là tư tưởng pháp luật của giai cấp cầm quyền thì nó sẽ có cơ hội thuận lợi thể hiện thành pháp luật và tạo ra những tiến bộ trong đời sống xã hội.
+ ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của 1 thời đại nào đó, song nó cũng kế thừa những yếu tố nhất định thuộc ý thức pháp luật của thời đại trước. Tất nhiên những yếu tố được kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ.
+ ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, với ý thức chính trị, đạo đức, với các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng pháp lý như nhà nước và pháp luật.
Tùy thuộc vào ý thức pháp luật tiến bộ hoặc lạc hậu mà sự tác động của nó có thể là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các hiện tượng trên.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục pháp luật là phải biết phát huy mặt tích cực trong những biểu hiện của tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật và hạn chế tới mức thấp nhất những mặt tiêu cực của biểu hiện đó.
- ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp:
+ Thế giới quan pháp lý của 1 giai cấp nhất định được quy định bởi địa vị pháp lý của giai cấp đó trong xã hội.
+ Mỗi quốc gia chỉ có 1 hệ thống pháp luật nhưng tồn tại 1 số hệ thống ý thức pháp luật: có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, bị trị, của các tầng lớp trung gian.
+ Về nguyên tắc, ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới được phản ánh vào trong pháp luật. ý thức pháp luật của giai cấp bị trị mâu thuẫn với ý thức pháp luật của giai cấp thống trị trong xã hội.
+ Trong xã hội ta, giữa giai cấp công nhân , nông dân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội có lợi ích thống nhất với nhau về cơ bản, do đó ý thức pháp luật mang tính thống nhất cao. Nó phản ánh sự thống nhất về chính trị, tư tưởng của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội ta.
2. Chức năng của ý thức xã hội:
- Chức năng nhận thức: Để hình thành các quan điểm, quan niệm, lòng tin về các quy phạm pháp luật hiện hành và cần ban hành, phải phân tích hiện thực khách quan và nhận thức được hiện thực đó- ý thức pháp luật có chức năng nhận thức- tức nhận thức các quá trình kinh tế- xã hội, các giá trị đạo đức đã được thể chế hóa hoặc sẽ được thể chế hóa.
- Chức năng mô hình hóa pháp lý: Kết quả của quá trình nhận thức là sự hình thành nên các mô hình hành vi nhất định mà ý thức pháp luật đánh giá là các mô hình cần thiết và tất yếu để các quan hệ xã hội phát triển có kết quả.
- Chức năng điều chỉnh: ý thức pháp luật hướng cho hành vi của con người phù hợp với yêu cầu của hệ thống pháp luật hiện hành, hoặc làm cho hành vi của con người trở nên sai lệch với các yêu cầu đó- Thể hiện chức năng điều chỉnh của pháp luật.
II. Cơ cấu ý thức pháp luật:
1. Căn cứ vào tính chất, nội dung chia thành: + Hệ tư tưởng
+ Tâm lý pháp luật
- Hệ tư tưởng pháp luật là tổng những tư tưởng, quan điểm và học thuyết pháp luật. Những vấn đề lý luận và xây dựng pháp luật,giá trị xã hội và chức năng của pháp luật, sự bình đẳng của các thành viên, mối quan hệ quyền và nghĩa vụ, pháp chế trong tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước... thuộc hệ tư tưởng pháp luật.
- Tâm lý pháp luật: được hình thành 1 cách tự phát dưới dạng tâm trạng, xúc cảm, thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý.
Những tâm trạng, thái độ, tình cảm pháp luật phần lớn được hình thành dưới sự tác động của giao tiếp của con người, là sự biểu hiện phản ứng của con người trước các hiện tượng pháp lý.
- So sánh tư tưởng pháp lý và tâm lý pháp lý là bộ phận bền vững hơn, bảo thủ hơn. Tâm lý pháp luật gắn bó chặt chẽ với truyền thống, tập quán, thói quen của con người. Nó hình thành chậm chạp và ít biến đổi.
- Tư tưởng pháp luât và tâm lý pháp luật có mối quan hệ biện chứng: Mức độ xúc cảm, tình cảm pháp luật của cá nhân phụ thuộc vào đạo đức và trinh độ tư tưởng pháp luật. Ngược lại, sự phát triển của tư tưởng pháp luật chịu sự ảnh hưởng của tâm lý pháp luật. Tâm lý pháp luật cá nhân là tiền đề của những tư tưởng pháp luật mà cá nhân đó cần đạt tới.
2. Căn cứ vào mức độ và phạm vi nhận thức: chia thành:
+ý thức thông thường
+ ý thức mang tính lý luận
- ý thức thông thường phản ánh mối liên hệ bên ngoài, có tính chất cục bộ của hiện tượng pháp luật, chưa đi vào bản chất bên trong của hiện tượng này. 1người mang ý thứcpháp luật thông thương có nghĩa anh ta chưa có những kiến thức sâu sắc mang tính lý luận, hệ thống pháp luật nhưng đã có những hiểu biết nhất định về quy phạm pháp luật, kinh nghiệm giải quyết những vụ việc pháp lý cụ thể.
- ý thức pháp luật mang tính lý luận: Tồn tại dưới dạng học thuyết, quan điểm về pháp luật. ý thức pháp luật mang tính lý luận bao gồm những quan điểm về bản chất pháp luật, sự tác động qua lại của pháp luật với các hiện tượng xã hội khác, vai trò của cơ chế điều chỉnh pháp luật trong xã hội...
3. Căn cứ vào chủ thể mang ý thức pháp luật: chia thành: + YTPL xã hội.
+ YTPL nhóm.
+ YTPL cá nhân
- YTPL xã hội: là YTPL của bội phận tiên tiến đại diện cho xã hội. YTPL xã hội trê cơ sở khoa học cao. YTPL xã hôi chứa đựng những khái niệm khoa học về bản chất, chức năng, vai trò, nguyên tắc... của pháp luật và được hình thành dưới sự tác động của khoa học pháp lý. YTPL nhóm và cá nhân chịu ảnh hưởng to lớn của YTPL xã hội.
- YTPL nhóm: là những đặc điểm của nhóm xã hội. Đó là những quan điểm, nhận thức, tình cảm pháp luật của 1 nhóm người nhất định trong xã hội. Do giống nhau về điều kiện sống và lợi ích đã tạo cho các thành viên trong nhóm có những khái niệm, nhận thức, thái độ tương đối giống nhau đối với pháp luật.
- YTPL cá nhân: là những khái niệm, quan điểm, tâm trạng, tình cảm pháp lý, của mỗi công dân. Không phải ý thức pháp luật cá nhân của mọi cá nhân đều đạt tới YTPL xã hội. Trình độ YTPL của mỗi cá nhân có sự không giống nhau.
III. Quan hệ ý thức pháp luật- pháp luật.
YTPL là 1 hình thái ý thức xã hội cùng với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác cấu thành kiến trúc thượng tầng pháplý xã hội. YTPL và pháp luật là 2 hiện tượng pháp lý khác nhu nhưng có quan hệ biện chứng với nhau.
1.YTPL và hoạt động xây dựng pháp luật.
- YTPL là tiền đề trực tiếp cho hoạt động xây dựng pháp luật. YTPL cao cho phép đánh giá đúng đắn tầm quan trọng pháp lý của các quan hệ xã hội, xây dựng pháp luật điều chỉnh chúng. YTPL cao đảm bảo cho hoạt động soạn thảo , xây dựng dự án pháp luật được tiến hành tốt.
- YTPL là nhân tố chủ quan, có ý nghĩa quyết định đối với nội dung của các VBQPPL. ở Việt Nam hiện nay, nhìn tòan cục, pháp luật hiện hành phù hợp với những tư tưởng cơ bản của ý thức pháp luật tiến bộ, ghi nhận và phản ánh trung thành các tư tưởng dân chủ, nhân đạo, công cụ bằng sự thống nhất quyền và nghĩa vụ...
- Xuất phát từ vai trò trên của YTPL đối với hoạt động xây dựng pháp luật, cần thiết phải hoàn thiện hệ tư tưởng pháp luật. Với tính cách là bộ phận lýluận khoa học của YTPL mà ở đó phản ánh các lợi ích và nhu cầu xã hội và chuyển hóa chúng thành các chế định và quy phạm pháp luật.
+ Liên quan tới sự nâng cao trình độ pháp luật nghề nghiệp của các cán bộ, cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật.
+ Đòi hỏi nâng cao YTPL cho các tầng lớp nhân dân lao động vì trong quá trình phát triển và mở rộng dân chủ, nhân dân lao động ngày càng tham gia rộng rãi hơn vào quá trình xây dựng pháp luật.
2. YTPL và thực hiện pháp luật.
- Sự thực hiện pháp luật cũng tùy thuộc vào trình độ nhận thức và trạng thái tâm lý pháp luật của con người.
+ Các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể thông qua sự tác động vào ý thức của họ.
+ Đối với các cá nhân, hành động nhận thức các yêu cầu của quy phạm pháp luật từ đó xác lập động cơ, mục đích,lựa chọn phản ánh xử sự xảy ra trước khi họ thực hiện hành vi pháp luật.
+ YTPL của các chủ thể càng cao thì sự tuân thủ pháp luật , sử dụng pháp luật, chấp hành pháp luật của họ càng đúng đắn.
- YTPL có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động áp dụng pháp luật.
+ Để giải quyết tốt vụ việc cá biệt, cụ thể, đòi hỏi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách phải thu thập nhanh chóng, phân tích chính xác các tình tiết của vụ việc, xác định rõ đặc trưng pháp lý của nó. Lựa chọn quy phạm pháp luật thích ứng để giải quyết vụ việc, làm sáng tỏ nội dung tư tưởng quy phạm pháp luật được lựa chọn, ra quyết định áp dụng pháp luật hợp pháp và hợp lý, tổ chức thi hành.
+ YTPL nghề nghiệp cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách giải quyết tốt các vụ việc pháp lý...
+ Trong điều kiện hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, YTPL cao cho phép áp dụng pháp luật tương tự được đúng đắn.
YTPL của các cán bộ có thẩm quyền áp dụng pháp luật càng cao thì hoạt động áp dụng pháp luật càng đúng và có hiệu quả.
3. Tác động của pháp luật đối với ý thức pháp luật:
- Pháp luật chịu sự tác động của YTPL nhưng ngược lại nó cũng tác động tích cực đến việc hình thành, củng cố, phát triển YTPL.
- Bản thân sự tồn tại của hệ thống pháp luật cũng tác động bằng cách này hay cách khác tới ý thức của từng thành viên trong xã hội, phát triển và nâng cao YTPL của họ. Hệ thống pháp luật càng hoàn chỉnh thì càng tạo điều kiện cho việc nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân.
- Trong pháp luật phản ánh những tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc pháp lý tiên tiến của YTPL xã hội. Khi đó pháp luật đóng vai trò như là phương tiện truyền bá YTPL xã hội tới YTPL cá nhân, nâng cao YTPL của các cá nhân lên ngang tầm với YTPL tiên tiến trong xã hội.
- Không có pháp luật với tính cách là tổng thể các phạm trù, mà tất cả các yếu tố hợp thành của kiến trúc thượng tầng pháp lý đều tác động tích cực tới sự hình thành và phát triển YTPL trong toàn bộ hoạt động này, vai trò của cơ quan bảo vệ pháp luật, đặc biệt là Tòa án trong hoạt động áp dụng pháp luật là rất quan trọng. Dựa trên cơ sở pháp chế, các nguyên tắc công bằng, nhân đạo, cơ quan bảo vệ pháp luật nhân danh nhà nước thực hiện công lý. Họat động của chúng tác động trực tiếp, tích cực đến việc hình thành, phát triển các quan niệm, tình cảm pháp luật đúng đắn, khẳng định trong ý thức công dân tính tất yếu, bất di bất dịch của những quyền và nghĩa vụ và tự do.
IV. Thực tiễn:
- Đại hội Đảng tòan quốc lần thứ VI nhấn mạnh:" Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật và cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân".
- Trên thực tế nước ta đi lên CNXH từ 1 điểm xuất phát thấp, thói quen sản xuất nhỏ, hạn chế về nhận thức, những tồn tại và tàn tích, tập tục lạc hậu vẫn còn vì vậy việc giáo dục nâng cao YTPL còn gặp rất nhiều khó khăn.
- Nhiều nhà nghiên cứu sử học khi nghiên cứu về truyền thống pháp luật ở Việt Nam đã từng nhận xét" Nước ta đã chịu hàng ngàn năm Bắc thuộc, nhưng chúng ta không mất đi cái bản sắc, không bị đồng hóa, mà cội rễ của nó chính là văn hóa làng xã đã ăn sâu và là đặc trưng truyền thống của người Việt. Với căn cứ đó các nhà sử học đã khẳng định rằng, trong 1 thời gian dài người Việt có thói quen chống lại luật pháp, không tuân thủ pháp luật của nước đô hộ mà coi trọng những quy định của làng xã mà nay gọi là hương ước nhiều hơn". Hiện nay, ở nhiều vùng dân tộc thiều số, nhiều vùng không biết đến pháp luật, dẫn đến hiện tượng vi phạm pháp luật, hoặc xử lý không đúng pháp luật.
- Đó là chưa kể đến qua đợt tổng rà sóat các văn bản quy phạm pháp luật vừa qua đã phát hiện nhiều sai phạm, nhiều văn bản chồng chéo. Thực trạng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn lạc hậu cả về thể thức ban hành và nội dung ban hành. Văn bản thiếu minh bạch, thiếu thống nhất, nhiều văn bản pháp luật ra đời nhưng không đi vào cuộc sống. Mặt khác, nhiều văn bản của ta còn khó cập nhật dẫn đến tình trạng trong 1 bộ phận người dân không hiểu luật, thờ ơ trước pháp luật.
* Phương hướng hoàn thiện:
- Trở lại với vấn đề thực tiễn hiện nay, chúng ta thấy để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống bên cạnh việc giáo dục, tuyên truyền,phổ biến pháp luật, cần tìm hiểu những giá trị của luật tục để đưa ra sự điều chỉnh về mặt pháp luật cho phù hợp. Ngôn ngữ của pháp luật phải phổ thông, dễ hiểu, dễ áp dụng trên thực tế. Văn bản pháp luật phải dễ truy cập, kết hợp giải quyết tốt mối quan hệ về tính hợp lý và tính hợp pháp để pháp luật có được tính khả thi, đi vào cuộc sống.
- Mở rộng dân chủ công khai, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách đông đảo vào việc soạn thảo, thảo luận, đóng góp ý kiến về các dự án pháp luật để qua đó nâng cao YTPL của người dân.
- Đẩy mạnh sự lãnh đạo của Đảng trong công tác giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo thường xuyên, đầy đủ và toàn diện...
- Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng cán bộ pháp lý có đủ năng lực, trình độ, có phẩm chất chính trị và phong cách làm việc tốt để bố trí vào các cơ quan làm công tác pháp luật.
- Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, tổ chức cho nhân dân tham gia một cách mạnh mẽ vào công tác này, dùng sức mạnh pháp chế XHCN, kết hợp với dư luận quần chúng, đấu tranh chống những hành vi vi phạm pháp luật.
- Phải kết hợp giáo dục pháp luật vơi giáp dục đạo đức, văn hóa nâng cao trình độ chung của nhân dân.
Câu 19: Cơ chế điều chỉnh của pháp luật.
I. Điều chỉnh pháp luật:
1. Khái niệm điều chỉnh pháp luật:
- Điều chỉnh pháp luật được hiểu là việc nhà nước dựa vào pháp luật, sử dụng 1 loạt các phương tiện pháp lý đặc thù ( quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật, quan hệ pháp luật, những hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý) để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác động đến các quan hệ xã hội theo hướng nhất định.
- Đặc điểm: + Là 1 những loại hình của điều chỉnh pháp luật.
+ Là điều chỉnh có tính định hướng, tính tổ chức và tính hiệu quả.
+ Là sự điều chỉnh được thực hiện thông qua 1 hệ thống các phương tiện pháp lý cơ bản, đặc thù.
2. Phạm vi điều chỉnh pháp luật:
- Phạm vi điều chỉnh pháp luật là phạm vi các quan hệ xã hội được pháp luật nói chung điều chỉnh.
- Phạm vi điều chỉnh của 1 văn bản pháp luật là các quan hệ xã hội được các văn bản đó điều chỉnh. Nói cách khác, phạm vi điều chỉnh của 1 văn bản pháp luật là các vấn đề được đặt ra và giải quyết trong văn bản đó.
- Xác định phạm vi điều chỉnh của pháp luật là xác định ranh giới của việc sử dụng pháp luật vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
II. Cơ chế điều chỉnh pháp luật:
- Khái niệm "cơ chế điều chỉnh pháp luật" có ý nghĩa lớn về mặt phương pháp luận. Nó giúp cho người nghiên cứu tiếp cận pháp luật từ quan điểm hệ thống.
- Cơ chế điều chỉnh pháp luật là khái niệm phức tạp:
+ Dưới góc độ chức năng: là hệ thống các phương tiện pháp lý tác động đến các quan hệ xã hội thông qua chủ thể.
+ Góc độ tâm lý: là sự tác động đến ý chí của con người nhằm tạo ra cách xử sự thích hợp (với quy phạm pháp luật) ở chủ thể.
+Góc độ xã hội: nằm trong cơ chế xã hội, tức cơ chế tác động của các quy phạm xã hội lên các quan hệ xã hội nhằm tạo ra 1 trật tự xã hội phù hợp với lợi ích cộng đồng xã hội.
- Cơ chế điều chỉnh pháp luật là 1 quá trình thực hiện sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội: 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: là giai đoạn định ra các quy phạm pháp luật.
Cơ chế điều chỉnh pháp luật bắt đầu"hoạt động" bằng sự kiện đề ra các quy phạm pháp luật. Chính các quy phạm pháp luật buộc các chủ thể phải hành động phù hợp với lợi ích của sự phát triển xã hội mà khuôn mẫu của hành động đó do chính quy phạm đưa ra.
+ Giai đoạn 2: là giai đoạn áp dụng pháp luật. Đây là giai đoạn cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào các quy phạm pháp luật để ban hành các quyết định áp dụng pháp luật. ( có trường hợp không có giai đoạn này).
+ Giai đoạn 3: là giai đoạn xuất hiện các quan hệ pháp luật mà nội dung của nó là xuất hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể (cá nhân , tổ chức).
+ Giai đoạn 4: là giai đoạn thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý. Các chủ thể bằng hành vi của mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý trong thực tiễn đời sống.
- Các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật:
+Yếu tố 1: ý thức cơ sở của cơ chế điều chỉnh pháp luật là quy phạm pháp luật. Đây chính là sự mô hình hóa các hành vi xử sự trong quan hệ xã hội.
+ Yếu tố 2: là các quyết định áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có tính cá biệt, cụ thể, nhằm đảm bảo đưa các yêu cầu của quy phạm pháp luật vào cuộc sống; hoặc bảo đảm sự xuất hiện các quan hệ pháp luật hoặc bảo đảm sự thực hiện quyền và nghĩa vụ.
+ Yếu tố 3: là các quan hệ pháp luật. Trên cơ sở quy phạm pháp luật và các quyết định áp dụng pháp luật được ban hành theo sáng kiến hoặc trên cơ sở xuất hiện các sự pháp lý khác, các quan hệ pháp luật phát sinh với nội dung là các quyền và nghĩa chủ thể.
+ Yếu tố 4: là các hành vi thực tế của các chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Như vậy, trên cơ sở pháp lý của cơ chế điều chỉnh pháp luật là quy phạm pháp luật. Chính các quy phạm pháp luât tạo nên mô hình, khuôn mẫu cho hành vi của các chủ thể( cá nhân, tổ chức, cơ quan).
Trong nhiều trường hợp quy phạm pháp luật không thể tự thân đi vào cuộc sống nếu không có hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền. Nếu cơ chế điều chỉnh pháp luật có yếu tố quyết định áp dụng pháp luật: cơ chế điều chỉnh pháp luật phức tạp. Cũng có trường hợp quy phạm pháp luật được thực hiện 1 cách trực tiếp bởi các chủ thể mà không cần trải qua giai đoạn áp dụng pháp luật, trong trường hợp này ta có cơ chế điều chỉnh pháp luật đơn giản.
Ví dụ: chủ thể tuân thủ đúng những quy tắc hành vi chứa đựng trong pháp luật: làm việc phải làm, không làm việc bị cấm.
Các quy phạm pháp luật và các quyết định áp dụng pháp luật được ban hành kéo theo sự xuất hiện của quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh. Sự xuất hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật gắn liền với sự kiện pháp lý tức là những hoàn cảnh, điều kiện của đời sống thực tế quy định trong phần giả định của quy phạm pháp luật. Quan hệ pháp luật với nội dung là quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia chính là phương tiện để thực hiện quy phạm pháp luật. Và cuối cùng thông qua hành vi thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể mà quy phạm pháp luật được thực hiện trong cuộc sống.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ôn tập lý luận chung nhà nước và pháp luật.doc