Có thể nói, xưa kia hoạt động kinh tế của các cư
dân nơi đây hoàn toàn mang tính cá thể. Việc theo
dõi diện tích, năng xuất, sản lượng thường không
được họ quan tâm, mà họ chỉ biết năm đó gieo
được bao nhiêu kilôgam giống lúa, ngô, trồng
được bao nhiêu buổi. Họ không quan tâm vào năng
xuất mà họ chỉ quan tâm đến việc là năm đó họ
trồng được bao nhiêu. Ngày nay, cùng với những
kinh nghiệm ấy và với chính sách ưu tiên của
Đảng - Nhà Nước nên họ đã chú ý hơn về sản
lượng và áp dụng kỹ thuật vào sản xuất. Do vậy,
đời sống của cư dân Tày - Nùng nói riêng và đồng
bào nhân dân Định Hóa nói chung đã có nhiều
bước tiến mới, đời sống nhân dân được đầy đủ hơn
trước. Bấy lâu nay bà con không còn cảnh:
“Ba đồng một bát thịt trâu
Lấy chồng rục rạ gánh lâu cả đời”
8 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nông nghiệp truyền thống của người Tày - Nùng ở Định Hóa - Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Dân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 45 - 51
45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
NÔNG NGHIỆP TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI TÀY- NÙNG
Ở ĐỊNH HÓA - THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Dân*
Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Nguyên
TÓM TẮT
Nói đến nghề nông trồng lúa nước, tức là nói đến ruộng đất. Vì vậy, quản lý và không ngừng mở
rộng ruộng đất là những vấn đề sống còn của con người. Nhưng quản lý như thế nào, mở rộng như
thế nào, tùy thuộc vào những quan hệ xã hội đương thời chi phối. Định Hoá là một huyện miền núi
của tỉnh Thái Nguyên, với địa hình khá phức tạp và tương đối hiểm trở, núi thấp, đồi cao đã tạo
nên vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, thuận lợi phát triển kinh tế nông nghiệp ruộng nước. Dân tộc Tày-
Nùng là những dân tộc sinh sống lâu đời về ruộng nước, họ đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm
quý giá xuất phát từ thực tế sản xuất. Ngày nay, những kinh nghiệm ấy vẫn có giá trị phục vụ cho
sự phát triển nông nghiệp miền núi nói chung và Định Hóa nói riêng.
Từ khóa: khí hậu nhiệt đới ẩm, nông nghiệp ruộng nước, kinh nghiệm sản xuất, kinh tế nông nghiệp
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Kinh tế trồng trọt của các tộc người thiểu số ở
miền Bắc nước ta gồm hai loại hình chủ yếu: trồng
trọt trên nương rẫy và gieo cấy trên đồng ruộng,
hay nói cách khác là nương rẫy và ruộng nước. Đối
với nương rẫy đó chính là nguồn sống chính của
các tộc người cư trú ở vùng rẻo cao và rẻo giữa.
Với loại hình ruộng nước gồm các tộc người sống
ở vùng thấp, trong các cánh đồng, thung lũng miền
núi. Đối với cư dân nông nghiệp, để tồn tại và phát
triển, họ đã có một bước tiến dài trong công cuộc
đấu tranh với thiên nhiên để phát triển sản xuất, có
những phát minh, cải tiến kỹ thuật về canh tác.
Chẳng hạn như việc phát minh các công cụ sản
xuất như chiếc cày bằng sắt. Bên cạch đó, cùng với
sức kéo của trâu, bò trong sản xuất; kỹ thuật phối
kết hợp trong sản xuất nhằm đảm bảo sự thu hoạch
tối đa của sản phẩm cây trồng trên những mảnh
ruộng, làm tăng giá trị sử dụng và giá trị kinh tế
của đất đai; kéo theo sự thay đổi cả quyền sở hữu
ruộng đất và cơ cấu xã hội, lẫn hình thức tổ chức
và loại hình làng bản.
Tộc người Tày - Nùng ở Định Hóa, ngay từ những
buổi đầu sinh cơ lập nghiệp, họ đã biết vận dụng
lợi thế của khu vực vào trong thực tiễn quá trình
sản xuất nông nghiệp. Trong bài viết này đề cập
đến những kinh nghiệm ấy.
1.Ruộng nước
*
Tel: 02803601433
Ruộng đất vốn là cơ sở của nền sản xuất nông
nghiệp. Ở Định Hóa, đất đai không mấy màu mỡ
như đồng bằng và đều là ruộng loại 3 và là thu
điền. Song có thể thấy tính chất của nền sản xuất:
Đây là một nền nông nghiệp cá thể tiểu nông
(mang tính chất tư hữu). Điều này đã ảnh hưởng
rất lớn tới đời sống của cư dân nơi đây.
Ở Định Hóa ruộng thường có hai loại: “Nà nặm” là
loại ruộng sẵn có nguồn nước mạch tại chỗ hay có
thể thông qua hệ thống thủy lợi, thuận tiện cho
việc canh tác. “Nà Lẹng” thường là những chân
ruộng bậc thang cao, khô nước, không giải quyết
được nguồn nước, do vậy chờ nguồn nước mưa và
khe núi rót xuống.[3, tr 25-26]
Kỹ thuật canh tác
Đối với dân tộc Tày- Nùng ở Định Hóa thì khâu
làm đất cho lúa nước được cư dân tiến hành theo
những quy trình kỹ thuật khá hoàn chỉnh. Sau vụ
thu hoạch, trên đồng ruộng có rất nhiều rạ. Khi
mùa đông đến, trời lạnh, rạ khô, đồng bào hay đốt
rạ. Đồng bào thường cho rằng để làm cho đất thêm
khô ải, thêm tro, thêm màu mỡ cho đất, bên cạch
đó đốt rạ sẽ đốt cháy luôn cả trứng các loại côn
trùng, sâu bọ làm hại lúa. Theo thói quen cư dân
thường bắt đầu cày ải qua đông và công việc kết
thúc trước tết nguyên đán. Tục ngữ Tày - Nùng có
câu: “Ruộng cày tháng chạp, gánh thóc khó lên
vai”. Người nông dân nơi đây đều hiểu rõ giá trị
của cày đất phơi ải tức là làm cho đất tốt, tăng
Nguyễn Thị Dân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 45 - 51
46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thêm độ phì nhiêu, khi cấy lúa mau tốt, có tác dụng
gieo cấy đúng thời vụ, đất được phơi khô sẽ bị tơi,
gặp mưa đất ngấu nát ngay. [3, tr. 29]
Từ lâu, các dân tộc người ở vùng thung lũng chân
núi nói chung và Định Hóa nói riêng, họ đã biết
dùng sức trâu kéo, công cụ chính là cày, bừa. Cày
phổ biến là cày chìa vôi. Chiếc bừa cổ truyền là
bừa răng làm bằng gỗ hoặc tre bao gồm bừa đơn
và bừa kép. Có thể nói rằng chiếc bừa bằng gỗ
hoặc tre tiện lợi hơn bừa răng sắt, vì ngoài làm
ruộng nó còn có thể làm nương, khi vấp phải đá
nếu gẫy răng nào có thể thay thế ngay. Ngoài hai
công cụ trên còn có dao phát để phát cỏ bờ và cuốc
để cuốc góc và những chỗ cày lỏi. Tuy nhiên
những công cụ trên chỉ đạt hiệu quả tại những chân
ruộng khô ở ven các thung lũng. Giữa lòng thung
lũng, nhiều bùn, lầy thụt họ dùng bừa mà không
cày, nếu không cày bừa được thì dùng đàn trâu,
bò sục nát bùn và sau đó là cấy.
Kỹ thuật làm thủy lợi
Trong loại hình canh tác ruộng nước, nước có thể
coi là yếu tố hàng đầu thì thủy lợi sẽ chiếm vị trí
đặc biệt quan trọng. Trong quan niệm của các tộc
người thuộc ngôn ngữ Tày- Thái ở vùng Đông Bắc
nước ta cho rằng: “Có nước mới có ruộng, có
ruộng mới có cơm”, người Mường lại nói rằng:
“làm cơm phải có mó, làm ló phải có nước”. Cư
dân Tày- Nùng ở Định Hóa thường sử dụng nguồn
nước chính là nước mưa và nước của các con suối
chảy xuôi giữa lòng thung lũng, các khe mạch
thường xuyên hay định kỳ. Theo kinh nghiệm,
muốn sử dụng tốt nguồn nước, người ta phải tìm
cách gữi nước và tiêu nước, trên cơ sở địa hình
của từng vùng cảnh quan mà hình thành nên các
hệ thống thủy lợi khác nhau.
Ở vùng thung lũng chân núi người Tày, Thái,
Mườngxây dựng hệ thống thủy lợi theo 2 dạng
cơ bản: Phai và mương phai, là các con đập chắn
ngang dòng suối được làm từ những nguyên liệu
sẵn có như đất, đá, gỗ, tre. Bà con thường chọn
chỗ thuận tiện nhất để đắp phai tạo thành những
“bức tường” có tác dụng ngăn dòng chảy làm
nước suối dâng cao hơn mức bình thường từ 1m
đến 3m, nước dâng lên được dẫn về từng cánh
đồng theo hệ thống mương.
Mương: Là những đường khai dẫn nước vào
ruộng, nó có thể chạy men theo sườn đồi và dọc
các cánh đồng. Mương có ba loại: mương chìm
(mương đào); mương nổi (mương đắp) và mương
nửa chìm, nửa nổi. Ở nhiều vùng còn tùy thuộc
vào địa hình. [1, tr 69-70]
Đối với những nơi địa hình cao, người dân nơi đây
còn biết sử dụng các cọn nước. Cọn nước chỉ có
thể sử dụng trong mùa khô, khi mùa mưa đến thì
không còn tác dụng nữa. Những vùng địa hình rẻo
cao và rẻo giữa, thường dẫn nước về bằng hệ thống
máng nước dài hàng trăm mét.
Có thể nói, hệ thống thủy lợi của cư dân Tày-
Nùng ở Định Hóa tuy đơn giản song lại rất có ích
trong việc cung cấp nước tưới cho cây lúa, và
trong chừng mực nào đó đã mang dấu ấn của trí
tuệ. Hiện nay bên cạch việc duy trì các biện pháp
thủy lợi truyền thống, nhờ sự giúp đỡ về vốn, vật
tư và kỹ thuật của Nhà nước, nhiều phai đập kè
cống đã được xây dựng ở nhiều nơi. Việc kết hợp
giữa hai hình thức: Xây dựng công trình thủy lợi
mới và thủy lợi truyền thống theo kiểu mương,
phai là hướng giải quyết hợp lý nhằm tận dụng
các nguồn nước trong việc khai thác các tiềm
năng của đất.
Trong phương thức canh tác ruộng nước, dân gian
Tày- Nùng ở Định Hóa đã đúc rút được kinh
nghiệm:
“Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”
Kỹ thuật gieo mạ
Trước khi gieo mạ, khâu chọn giống lúa luôn được
đồng bào chú ý, có những dân tộc đã ví “làm
ruộng không có giống, sống cũng như chết” hoặc
“tốt giống, tốt má, tốt mạ, tốt ló”, công việc chọn
lúa giống thường được tiến hành ngay hôm bắt đầu
thu hoạch thường do những người phụ nữ có kinh
nghiệm, chọn trực tiếp trên nương. Đồng bào Định
Hóa thường chọn những khu vực ruộng tốt, đều
cây, bông quả to giữ lại làm giống cho mùa sau.
Sau khi đã chọn trên ruộng, mang về nhà, phơi khô
dưới nắng vừa phải rồi buộc túm thành bó, treo
trên sàn bếp, hoặc sàn nhà để tránh mối, mọt, ẩm.
Có những gia đình phơi khô bằng nong, nia
(đống), cất vào sọt, bao tải hoặc chum vại. Chu
trình làm mạ, họ ngâm nước lã một ngày từ 12 đến
Nguyễn Thị Dân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 45 - 51
47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15 tiếng (đối với mạ chiêm họ ngâm lâu hơn một
vài tiếng). Sau đó tráng rửa bằng nước sạch, ủ kín
bằng lá chuối, hoặc bao tải. Về mùa đông, trời
lạnh, họ tưới nước ấm ngày hai lần, khi hạt giống
nảy mầm, đem tãi mạ ra nong, nia xoa cho gẫy bớt
rễ, sảy sạch trước khi mang gieo. Nếu có sương
muối, gió bấc, họ căng ni lông che kín mặt ruộng
mạ trong một hai tuần đầu sau khi gieo để giữ ấm
cho mạ phát triển tốt hơn.
Ruộng làm mạ được chọn tại những chân ruộng
cao, dễ thoát nước. Theo kinh nghiệm, “khoai đất
lạ, mạ đất quen”, vì thế ruộng làm mạ thường
được dùng cố định qua nhiều vụ. Ruộng mạ được
làm đất kỹ hơn, có nơi họ cho trâu quần thật nát
đất, thóc giống được lựa chọn thật kỹ và cất riêng.
Họ gieo lên trên ruộng đã được trang phẳng, có
nơi họ gieo mạ trên ruộng còn ít nước, sau khi mạ
bám rễ mới tháo cạn. Dân tộc Tày- Nùng nơi đây
thường cấy hai loại lúa: Lúa nếp và lúa tẻ, với
nhiều loại giống khác nhau, có những đặc tính
khác nhau, song đồng bào thường cấy hai loại
ngắn ngày và dài ngày.
Kỹ thuật cấy
Ở Định Hóa với đặc điểm của sản xuất nông
nghiệp mang tính quảng canh chỉ tập trung vào
trồng cây lương thực với trình độ kỹ thuật thấp.
Mọi loại cây trồng đều được gieo trồng vào trước
hoặc đầu mùa mưa hàng năm. Đến nay vụ chiêm
đã chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế
của họ.
Đối với lúa nước: Kỹ thuật cấy vụ chiêm và vụ
mùa không khác nhau là mấy. Dân gian có câu:
“Mạ 40 ngày ruộng cày hai lượt”, như vậy khi
gieo mạ được 40 ngày thì nhổ để cấy. Họ thường
nhổ mạ bằng tay, bó thành từng bó rồi dùng lạt
giang buộc lại và việc nhổ mạ, cấy lúa là công việc
chung của cả nữ giới và nam giới. Để cho cây lúa
không bị rườm rà và chóng phát triển người ta
thường cắt bằng lá trước khi cấy. Trong khâu canh
tác này trước đây người Tày - Nùng thường có tập
quán tương trợ, giúp đỡ nhau giữa những người
cùng dòng họ và cùng làng bản với hình thức đổi
công tự nguyện. Với tập quán này đã phần nào
khắc phục sự thiếu nhân công, đảm bảo thời vụ.
Thường thì cấy lúa là công việc của phụ nữ Tày -
Nùng nói chung. Khi cấy họ thường đi giật lùi, tay
trái cầm bó mạ, tay phải nhúm lấy từng nhúm mạ
nhỏ được tách ra từ tay trái, cắm xuống ruộng.
Phương pháp cổ truyền là cắm ngửa tay và theo
hàng lối ngang, dọc nghiêm chỉnh.
Kỹ thuật chăm sóc cây trồng
Sau khi cấy đến khi thu hoạch là một quá trình
chăm sóc cho cây lúa. Điều quan trọng hàng đầu là
gữi đủ nước cho cây lúa phát triển. Vì vậy, hàng
ngày hay cách ngày, chủ nhà phải tranh thủ đi
vòng lượn qua các bờ ruộng xem có bị nước dò rỉ
qua bờ không? Phát hiện nơi bị dò rỉ chảy nước đi,
lập tức đồng bào đắp lại ngay; đồng thời tìm
nguyên nhân của sự dò rỉ đó. Nếu do lươn, do cua
đục bờ thì tìm cách bắt ngay chúng. Đối với lúa
nước, sau cấy khoảng 20- 40 ngày là thời kì làm cỏ
bằng cách sục bùn, ít nhất một lần. Ở một số chân
ruộng sẵn cỏ dại, đồng bào làm cỏ lần thứ hai.
Khâu làm cỏ được tiến hành bằng chân. Người làm
cỏ dùng chân gạt cỏ dại, lấp bùn lên cỏ. Khi gặp
lúa bị sâu bệnh, cư dân thường dùng tro bếp, vôi
bột hoặc phân gà bột vãi lên lá vào sáng sớm, khi
trên lá còn đọng những giọt sương và toàn lá còn
bao phủ một lớp ẩm. Nhờ có lớp ẩm đó mà tro bếp
(vôi bếp hoặc phân gà bột) bám vào lá lúa làm chết
sâu, bệnh. Biện pháp thứ hai là tổ chức cúng, chủ
yếu là cúng thần thổ địa ở miếu và cúng thành
hoàng ở đình bản. Ngày nay, khi gặp sâu bệnh,
đồng bào áp dụng thêm biện pháp phun thuốc trừ
sâu. Do giá trị hiệu quả của biện pháp này, thuốc
trừ sâu ngày càng được sử dụng rộng rãi và đang
dần dần chiếm ưu thế trong việc phòng và trừ sâu
bệnh cho lúa.
Phân bón cũng đóng góp không nhỏ cho sự sinh
trưởng của cây lúa, tập quán làm phân, ủ phân đã
được các tộc người này sử dụng thành thạo, ruộng
lúa được bón phân dưới nhiều hình thức, có bón lót
và bón thúc. Vận dụng thực tiễn quá trình sản xuất,
dân tộc Tày- Nùng ở Định Hóa đã đúc rút ra những
kinh nghiệm và truyền lại cho con đời sau :
“Không thiếu phân lúc đầu, không thừa phân lúc
cuối”.
Tức là, lúc đầu khi cây lúa đang phát triển (được ví
như lúa thời con gái) cần bón đầy đủ phân để cây
lúa có khả năng sinh sôi nảy nở và sinh trưởng
mạnh, và khi cây lúa đã đã trổ đòng và phơi màu
thì không được bón phân nữa, bởi các cụ nhà ta
Nguyễn Thị Dân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 45 - 51
48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
cho rằng làm như vậy không những làm cho hạt
lúa bị lép mà còn gây sâu bệnh cho cây lúa.
Cư dân Tày- Nùng ở Định Hóa thường sử dụng
các nguồn phân bón chủ yếu:
Phân hữu cơ (cây xanh + phân chuồng)
Phù sa ở các sông suối bồi đắp.
Những đống rơm, gốc rạ sau những tháng bị bỏ
hóa đã mục nát.
Trước vụ gieo trồng, họ thu gom phân gia súc, gia
cầm, chất thành đống, dùng đất phủ kín, ủ ở ngoài
gầm sàn dùng để giữ được ẩm và tơi, dễ bón. Đối
với phân chuồng, họ chỉ dùng để bón lót trước khi
cấy. [1, tr 71]
Đối với ngô, sắn, khoai sau khi đào hốc, người
ta dùng phân chuồng bón lót trước khi tra hạt hoặc
đặt cây giống. Liều lượng phân bón lót tùy theo
từng loại cây trồng. Ngô có thể bón lót 1- 2 vốc/
hốc, sắn 3-5 vốc/hốc, khoai sọ 1-2 vốc/ đầu giống
(1 vốc tương đương 500gram).
Đồng bào Tày - Nùng ở Định Hóa thường canh tác
vào mùa mưa, nên việc thu hoạch các loại cây
trồng chủ yếu tập trung trong khoảng thời gian từ
tháng 8 đến tháng 11(bươn ất) âm lịch. Đây chính
là thời gian thu hoạch những cây lương thực chính.
Đối với lúa: Công cụ để gặt lúa là niềm, hái và
hép. Công cụ vận chuyển lúa về nhà gồm: Quang
treo, giành, gùi, đòn gánh, đòn sóc. Sau khi gặt, lúa
nương được bó lại thành những bó nhỏ, mỗi bó
gồm bốn, năm nắm. Khi vận chuyển về nhà, họ bó
lúa thành bó lớn, dùng đòn sóc xuyên qua, mỗi đầu
đòn sóc một bó, gánh về. Theo tập quán xưa,
người Tày-Nùng ở Định Hóa đập lúa trên ruộng
ngay sau gặt. Dụng cụ đập lúa là máng đóng bằng
gỗ (loóng). Cũng có gia đình dùng trâu quần trên
sân cho đến khi thóc rụng hết ra khỏi rơm. Thóc
được loại sạch rơm rác, phơi trên sân cho khô rồi
dùng quạt tay, hoặc quạt hòm quạt sạch trấu, hạt
lép, cất vào bồ, hoặc bao để trên sàn.
2. Tập quán canh tác trên nương rẫy.
Bên cạch việc trồng lúa nước, đồng bào Tày -
Nùng ở Định Hóa còn làm nương rẫy và phát triển
vườn theo lối truyền thống. Nương rẫy gắn liền với
quá trình sống du canh du cư của nhiều tộc người
miền núi. Nương rẫy gồm có hai loại: Nương bằng
và nương dốc. Nương bằng có thể cày bừa được và
canh tác lâu dài, đất tương đối màu mỡ. Nương
dốc: Chỉ trồng trọt được khoảng 2 - 3 vụ, vì bị
trôi lở hết đất màu, sau đó bỏ hóa 5 - 7 năm mới
trồng lại được.
Tập quán lựa chọn đất nương rẫy
Nhìn chung việc canh tác nương rẫy đều phải tuân
theo một quy trình nhất định, gồm nhiều công
đoạn: Chọn rừng, phát đốt, làm đất gieo trồng,
chăm bón và thu hoạch. Giải pháp đất trồng của cư
dân chủ yếu gắn chặt với điều kiện thổ nhưỡng, địa
hình. Đối với nương họ thường chọn những sườn
dốc có nhiều cây lá xanh sẫm. Đối với nương mới
được khai phá từ rừng già là tốt nhất, bởi đất màu
mỡ, thích hợp với nhiều loại cây trồng, năm đầu
tiên họ thường dành để trồng lúa, 2-3 năm sau thì
chuyển sang trồng ngô, sắn, sau đó bỏ hóa, cho
hưu canh một thời gian mới khai thác lại. Quy
trình khai thác đất theo chế độ luân canh vừa tận
dụng được đất, giữ được rừng, chống xói mòn,
tạo điều kiện tái sinh rừng nhanh.[1, tr 75]
Theo kinh nghiệm của đồng bào Tày - Nùng ở
Định Hóa, việc chọn đất, chọn rừng là bước quan
trọng nhất, năng suất và thời gian canh tác có lâu
dài hay không phụ thuộc vào chất lượng của đất,
người đi chọn đất làm nương thường là chủ nhà
hoặc có tuổi trong gia đình có nhiều kinh nghiệm
quan sát xem xét và phân tích đất. Nơi được chọn
là nơi có thảm thực vật tươi tốt, khi phát đốt mới
có nhiều tro than làm nguồn phân bón. Theo tập
quán của người Dao thì chọn sườn đồi, chân núi
phía mặt trời mọc hoặc phía mặt trời lặn để làm
nương. Để chắc chắn xem đất tốt, hay xấu, ở một
vài tộc người còn có cách nhấm thử xem đất có vị
chát hay mặn, chua hay đắng và theo kinh nghiệm
nếu thấy đất không chua mà hơi có vị chát và mặn
là tốt, thích hợp với các giống lúa nương.
Trên khoảnh đất đã chọn, người Dao đánh dấu
bằng cách cắm một đoạn cây cao dài một sải tay,
phía đầu trẻ đôi và cài một đoạn cây ngắn khoảng
40cm hai đầu của đoạn cây hướng về 2 phía theo
chiều dài của khoảnh đất định phát, cách đánh dấu
như thế gọi là đao chám. Tùy theo địa thế của
nương mà mỗi tộc người có những cách xử lý khác
nhau. Nếu là nơi tương đối bằng phẳng ở ven suối
hay trong các lòng núi thì có thể cày, bừa gieo hạt,
ở chỗ đất dốc, sườn núi thì chọc lỗ hoặc bổ lỗ bằng
Nguyễn Thị Dân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 45 - 51
49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
cuốc để tra hạt. Ở những nơi nương quá dốc người
ta làm các đường tránh nước có nghĩa là xẻ rãnh
ngang trên đầu của mảnh nương và xẻ thêm một số
rãnh dọc sườn núi để khi mưa xuống nước sẽ thoát
theo những đường rãnh đó hạn chế được sự xói lở
làm hại đến cây trồng. Để tận dụng độ phì của đất
hầu hết các tộc người làm nương rẫy đều có cách
thức luân canh. Với một đám nương mới thường
thì hai năm đầu được trồng lúa, năm tiếp theo
trồng ngô, sắn [2, tr 80]
Trong quy trình canh tác nương rẫy, chặt đốt cây
rừng là công việc quan trọng nhất của chu trình
làm nương. Sau khi đốt mặt nương sẽ được phủ tro
và lớp tro này sẽ được dùng thay cho việc bón
phân. Nếu như chặt đốt cây rừng là công việc quan
trọng thì khâu chăm sóc cây trồng trên mảnh
nương cũng được đồng bào chú ý kèm theo đó là
nhiều nghi lễ, tín ngưỡng liên quan đến nông
nghiệp. Mỗi vụ lúa họ làm cỏ ba lần, lần thứ nhất
khi cây lúa mọc cao 30-45cm, đợt làm cỏ này
thường kết thúc trước khi ăn tết 14 tháng 7 âm lịch
và phải làm thật kỹ. Cư dân Tày - Nùng nơi đây họ
cho rằng làm cỏ ở thời điểm này sẽ có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển của cây lúa; Đối với
nương tra thành từng hàng thì người ta dùng cuốc
bướm và nạo (một công cụ chuyên làm cỏ), xới
nhẹ lên mặt đất cho đứt rễ cỏ rồi vứt bỏ trên những
thân cây mục. Lần thứ ba làm cỏ vào trước lúc lúa
trổ đòng. Riêng nương ngô chỉ làm cỏ một lần và
đơn giản hơn. Lúa sắp chín các gia đình dựng
chiếu lều nhỏ ngay trên nương và treo bù nhìn để
canh thú rừng, xua đuổi chim muông đến phá lúa.
[1, tr 78]
Có thể nói, qua kinh nghiệm trong sản xuất nông
nghiệp nương rẫy và những nghi lễ cho thấy:
Đồng bào làm kinh tế nương rẫy chủ yếu dùng kỹ
thuật thô sơ, hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên. Sự tác động của con người đến cây trồng
thông qua các khâu đốt phát, chăm sóc (làm cỏ)
nên việc thu hoạch mùa màng thường không ổn
định.
Việc trồng xen các loại cây trồng khác nhau trên
một mảnh nương như vậy về mặt kinh tế đảm bảo
cho mùa màng không bị thất thu vì tổng sản lượng
thu được trên một diện tích nhất định cao hơn hẳn
so với trồng đơn nhất một loại cây nào đó; nhưng
mặt khác nó có ý nghĩa quan trọng hơn đó là sự
tích lũy vốn tri thức của con người nhằm duy trì sự
bền vững của nền nông nghiệp.
Ngô: Thu hoạch bằng cách dùng tay bẻ, bóc hết áo
ngay trên nương, cho vào giành gánh về. Ngô được
tách hạt ra khỏi bắp, phơi khô, sau đó cất vào
chum, vại, bồ, hoặc bao, để trên sàn. Sắn: Chủ yếu
được thu hoạch vào cuối năm. Có những gia đình
có những nương sắn lưu niên có thể thu hoạch
quanh năm.
Nhìn chung cây trồng chính trên nương là lúa, ngô,
song để tận dụng nguồn đất và để có sản phẩm
phong phú đáp ứng nhu cầu phục vụ đời sống nên
trên từng đám nương đồng bào còn có tập quán
xen canh gối vụ. Cư dân ở vùng thung lũng chân
núi, ngày nay họ không chỉ làm ruộng nước mà
còn canh tác nương rẫy.
Lúa nương của đồng bào cư dân Tày- Nùng ở Định
Hóa có nguồn gốc từ rất lâu đời. Theo lời kể của
các già làng thì từ khi họ sinh ra đã có cây lúa
nương và đặt tên là “cây lúa quên chồng”: Chuyện
kể lại “Ngày xửa ngày xưa có một gia đình nhà nọ,
họ trồng được một giống lúa, năng xuất cũng
không cao (khoảng 50-60 cân thóc một sào) nhưng
lần đầu tiên người vợ nấu cơm bằng giống lúa đó,
đợi chồng đi làm nương mãi không thấy về, đói
quá người vợ đã lấy cơm ăn trước, càng ăn càng
thấy ngon, một bát rồi hai bát và cứ thế và hết cả
nồi cơm, lúc đó người vợ giật mình sao mình lại ăn
khỏe thế mình nấu một ống gạo kia mà. Người vợ
sợ chồng về không có cơm ăn nên đã đi nấu cơm
khác cho chồng”, sau này người dân đã đặt tên cho
cây lúa nương ấy là cây lúa quên chồng.
Có thể nói kinh tế nương là khâu thứ hai trong
kinh tế trồng trọt. Việc trồng sen canh gối vụ các
loại cây trồng khác trên một mảnh nương như vậy
về mặt kinh tế đảm bảo cho mùa màng không bị
thất thu vì tổng sản lượng thu được trên một diện
tích nhất định cao hơn hẳn so với trồng đơn nhất
một loại cây nào đó, nhưng mặt khác có ý nghĩa
quan trọng hơn đó là sự tích lũy vốn tri thức của
con người nhằm duy trì sự bền vững của nền
nông nghiệp
Nương du canh và nương định canh
Nguyễn Thị Dân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 45 - 51
50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nương định canh của đồng bào các dân tộc miền
núi phía Bắc nói chung và cư dân Tày- Nùng ở
Định Hóa nói riêng thường ở gần nhà, đất tương
đối bằng phẳng, nhiều màu dễ có điều kiện chăm
sóc cây trồng và sử dụng trong nhiều năm, có thể
coi đây là hình thức nương vườn. Nương du canh ở
xa nhà nằm trên các triền núi, được canh tác một
số năm, đất kiệt màu thì bỏ hoặc để hưu canh một
thời gian. [1, tr 73]
Căn cứ vào giống cây trồng có thể trồng cây lương
thực, thực phẩm và nương trồng cây công nghiệp.
Loại nương trồng cây công nghiệp gồm nương
bông, nương chàm, nương lanh Nương trồng
cây lương thực là cây: nương lúa và nương ngô.
Về quy trình sản xuất nương rẫy cũng tuân thủ
theo thời vụ, thời hạn chặt chẽ, liên quan mật thiết
với thời vụ và phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên.
Thông thường đồng bào thực hiện lịch thời vụ làm
nương rẫy như sau:
Tháng một, tháng chạp: Tìm chọn đất, phát cây và
chặt cây.
Tháng chạp, tháng giêng: Đốt nương, dọn rẫy,
trồng trọt các loại cây như lúa, ngô, đậu, đỗ.
Tháng 2, 3, 4: Chăm sóc, làm cỏ, vun sới.
Tháng 5, 6: Thu hoạch sản phẩm ngắn ngày: ngô,
đậu, bí
Tháng 7, 8, 9: Thu hoạch lúa nương, mố.
Tuy nhiên, tùy theo loại giống cây trồng mà đất
trồng được chuẩn bị sớm hay muộn. Cư dân Tày-
Nùng Định Hóa xưa kia có kinh nghiệm trồng ngô,
chàm, thường gieo vào tháng hai, còn trồng lúa
nương thì vào tháng 4. Họ trồng lúa, ngô trên
nương bằng phương pháp như cuốc hốc hoặc dùng
gậy chọc lỗ tra hạt. Công cụ chọc lỗ là chiếc gậy
(hủng) làm bằng cây chắc, đẽo nhọn đầu, chiều dài
khoảng 1,5m. Họ thường chọc lỗ, tra hạt theo
chiều từ dưới lên đỉnh nương. Sau đó họ dàn hàng
ngang, nam chọc lỗ, nữ theo sau bỏ hạt. Khoảng
cách giữa các hốc lúa tương đương với độ dài bàn
chân. Tra xong hạt họ gạt đất phủ kín hốc để tránh
chuột, kiến và muông thú phá hoại.
3.Các tập quán khác về canh tác nương rẫy
Khâu chăm sóc cây trồng trên nương cũng được
đồng bào chú ý thông qua nhiều nghi lễ, tín
ngưỡng liên quan nền nông nghiệp. Người Dao
quan niệm rằng: “Mài chuổng, mài moỏng chính
mài siêu”(có trồng, có chăm thì mới có thu hoạch).
Kỹ thuật thô sơ, chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện
tự nhiên. Sự tác động của con người đến cây trồng
thông qua các khâu phát, đốt, chăm sóc (làm cỏ)
nên việc thu hoạch mùa màng thường không ổn
định.
Trong việc chăm sóc bảo vệ mùa màng, có nhiều
nghi lễ và phong tục truyền thống họ xem đây là
những tiêu chuẩn đảm bảo sự sinh trưởng của cây
trồng. Hàng năm vào dịp tết Nguyên đán, tất cả các
loại lá đã hái về gói bánh, không dùng hết phải
mang để ở ngoài ngôi nhà; làm như thế sẽ hạn chế
sự phát triển cỏ dại trên đám nương cho vụ sau.
Cũng giống như các dân tộc dưới xuôi, đêm 30 tết,
mọi nhà ngủ muộn hơn ngày thường, nhà nào
không thực hiện sang năm mới ngô lúa bị gió làm
đổ ảnh hưởng đến năng suất, nhà đó phải chịu
trách nhiệm trước làng bản. Đặc biệt phụ nữ đêm
đó không được kéo sợi vì theo họ làm như vậy sẽ
là dấu hiệu để cho những cơn bão lớn về gây thiệt
hại cho mùa màng vào năm mới. Trong những
ngày tết; quần áo, chăn màn, khăn mũ cấm mang
ra phơi ngoài trời, đêm đến đi chơi không được đốt
đuốc. [1, tr 79-80]
Một phong tục cho thấy ở cư dân nơi đây nói riêng
và các dân tộc miền núi nói chung đều có tục cắm
nêu sau khi tra nương song với lòng mong ước lúa
mọc cao như cây nêu. Cây nêu đồng thời cũng còn
là sự báo hiệu cho thần thánh biết rằng đám nương
ấy đã được gieo trồng, cần phải được bảo vệ. Có
khi người ta còn treo vào cây nêu ấy những ống
nứa con, những mẩu gỗ hoặc những hòn đá con
với ý nghĩa là sau này lúa sẽ có nhiều bông và hạt
thóc sẽ chắc mẩy. Ngược lại khi lúa không được
tươi tốt hay bị bệnh vàng lụi hoặc sâu bệnh, người
dân nơi đây thường làm phép đuổi ma tà bằng cách
lấy một ít nước mời thầy cúng phù phép vào đó rồi
vẩy lên những chỗ lúa bị hại.
TÓM LẠI
Có thể nói, xưa kia hoạt động kinh tế của các cư
dân nơi đây hoàn toàn mang tính cá thể. Việc theo
dõi diện tích, năng xuất, sản lượng thường không
được họ quan tâm, mà họ chỉ biết năm đó gieo
được bao nhiêu kilôgam giống lúa, ngô, trồng
được bao nhiêu buổi. Họ không quan tâm vào năng
Nguyễn Thị Dân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 45 - 51
51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
xuất mà họ chỉ quan tâm đến việc là năm đó họ
trồng được bao nhiêu. Ngày nay, cùng với những
kinh nghiệm ấy và với chính sách ưu tiên của
Đảng - Nhà Nước nên họ đã chú ý hơn về sản
lượng và áp dụng kỹ thuật vào sản xuất. Do vậy,
đời sống của cư dân Tày - Nùng nói riêng và đồng
bào nhân dân Định Hóa nói chung đã có nhiều
bước tiến mới, đời sống nhân dân được đầy đủ hơn
trước. Bấy lâu nay bà con không còn cảnh:
“Ba đồng một bát thịt trâu
Lấy chồng rục rạ gánh lâu cả đời”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Khổng Diễn (1996), Những đặc điểm kinh tế- xã
hội các dân tộc miền núi phía Bắc, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
[2]. Phan Đại Doăn (2001), Làng bản Việt Nam một số vấn
đề kinh tế - văn hóa - xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
[3]. Hoàng Nam (1991), Dân tộc Nùng ở Việt Nam, Nxb
Văn hóa dân tộc.
[4]. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (1997), Tình hình ruộng
đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn,
Nxb Thuận Hóa.
[5]. Ông Ma Đình Được, 73 tuổi, hiện là đảng bộ hội
người cao tuổi, trưởng thôn thuộc xóm Khuôn Tát - xã Phú
Đình - huyện Định Hoá.
SUMMARY
CONVENTIONAL AGRICULTURAL PRACTICE OF TAY – NUNG ETHNIC GROUP IN
DINH HOA – THAI NGUYEN
Nguyen Thi Dan
*
Thai Nguyen College of Education
In rice farming practice speaking, this meant to refer to land field. Therefore, management and continual
expansion of land are vital. But how to manage and how to expand land use are depended on the
contemporary social relations dominant. Dinh Hoa is a mountainous district of Thai Nguyen province, the
terrain is complex and relatively dangerous, which consists of low mountains and hills that made humid
tropical climate, this favorably facilitate economic development in paddy rice farming. Tay-Nung ethnic
people have been living on paddy farming for years; they have gained much valuable experience from actual
production. Nowadays, that experience is still valuable for the development of upland agriculture in general
and Dinh Hoa in particular.
Key words: tropical moist, water paddy farming, production experience, the agricultural economy
*
Tel: 02803601433
Nguyễn Thị Dân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 45 - 51
52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nong_nghiep_truyen_thong_cua_nguoi_tay_nung_o_dinh_hoa_thai.pdf