Ngôn ngữ trong tiểu thuyết chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại. Ngôn ngữ độc thoại rất ít, dù
có cũng tồn tại dưới dạng phát ngôn ngắn gọn, rất khó nhận ra nếu không có các từ dẫn
như “suy nghĩ” hay “nghĩ” ở trước đó. Đặc biệt, những diễn biến trong tâm lý nhân vật
thông thường đó là lời phát ngôn cho tác giả. Chẳng hạn như đoạn Tuấn Ngọc tự giác:
“cõi đời là bể khổ, đời người là giống cá ở trong bể mênh mông vô hạn. Cho nên gặp
cảnh nghịch chớ khá ngã lòng, vì người có tài thì hoá công hay thử Kìa các bực hoà
kiệt buổi xưa dễ mấy ai khỏi vong hoạn nạn, suy đó ta chẳng nên buồn rầu làm chi” [5;
tr. 96]. Đó là quan niệm của tác giả về cuộc đời như một dạng phát ngôn nửa trực tiếp.
Nhìn chung, ngôn ngữ nhân vật nói riêng và ngôn ngữ văn học nói chung thời kì này
vẫn còn mang nhiều dấu ấn của nền Hán học dân tộc, có pha lẫn ngôn từ địa phương, lối
nói có tính chất đăng đối nhưng cơ bản trong tiểu thuyết của Huỳnh Thị Bảo Hoà đó
là một trong các tiêu chí để đánh giá nhân phẩm của nhân vật.
Có thể nói rằng, trong bối cảnh văn học nửa đầu thế kỷ, ngôn ngữ tiểu thuyết đã tiến tới
hoà nhập vào tiến trình hiện đại hoá văn xuôi. Ngôn ngữ trong các tiểu thuyết của các
nhà văn nữ đang thoát dần khuôn sáo, ước lệ của ngôn ngữ trung đại hay câu chữ đối
chọi, hành văn dài dòng, còn sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, lời ăn tiếng nói hàng
ngày cho vào trong tác phẩm của mình. Trong dòng văn học (1900-1930), tiểu thuyết nữ
tuy chưa có được những cách tân, đột phá rõ rệt nhưng cũng đã chứng tỏ được sự cố
gắng của mình qua tái hiện xung đột, khắc hoạ tính cách nhân vật, qua những hành
động, suy nghĩ của nhân vật thể hiện qua ngôn ngữ.
3. KẾT LUẬN
Tiểu thuyết của các nhà văn nữ thật sự mở ra một diện mạo mới cho văn xuôi quốc ngữ
dầu thế kỷ XX. Trên phương diện nghệ thuật, có thể thấy tiểu thuyết của các nhà văn nữ
giai đoạn này đã phát huy những thành tựu của giai đoạn trước đó, đồng thời cũng có
một số cách tân đáng kể. Về nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật kết cấu tác
phẩm, tiểu thuyết nữ đã kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau của truyền thống
và hiện đại. Về phương diện kết cấu, các nhà văn nữ tiếp tục phát huy những dạng kết
cấu phổ biến trước đó như: kết cấu chương hồi, kết cấu theo hai tuyến nhân vật, kết cấu
theo trình tự thời gian đơn tuyến, thủ pháp kết cấu tác phẩm theo tâm lý nhân vật. Ngôn
ngữ tiểu thuyết mà các nhà văn nữ thể hiện trong tác phẩm là ngôn ngữ mang đậm hơi
thở của đời sống. Chúng ta ghi nhận những thành quả nghệ thuật của các tác giả nữ,
những đóng góp của họ vào quá trình hiện đại hoá văn học dân tộc, làm tiền đề, định
hướng cho những sáng tác của các cây bút nữ sau này
10 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 520 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những thể nghiệm về kỹ thuật tiểu thuyết của các nhà văn nữ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - Đặng Thị Ngọc Phượng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 01(37)/2016: tr. 16-25
NHỮNG THỂ NGHIỆM VỀ KỸ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ
VĂN NỮ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
ĐẶNG THỊ NGỌC PHƯỢNG
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Tiểu thuyết giai đoạn từ 1930-1945 là bộ phận quan trọng của tiểu
thuyết hiện đại. Thế nhưng trong một thời gian dài, mảng tiểu thuyết của các
nhà văn nữ ít được chú ý. Nghiên cứu tiểu thuyết nữ giai đoạn này để thấy
được những cách tân đáng ghi nhận của các chị trên phương diện nghệ thuật:
xây dựng nhân vật, kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ... Những thể nghiệm về kỹ
thuật tiểu thuyết của các tác giả nữ đã đánh dấu một chặng đường mới của văn
học; làm tiền đề, định hướng cho những sáng tác của các cây bút nữ sau này.
Từ khoá: tiểu thuyết, nhà văn nữ, nghệ thuật
1. MỞ ĐẦU
Những thập niên đầu thế kỷ XX văn xuôi Việt Nam đã có những bước chuyển động
nhanh chóng trên tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc, tạo nên một diện mạo mới và
mở ra khả năng hội nhập với các nước. Tiểu thuyết là một trong những thể loại đi tiên
phong trong tiến trình này. Nhiều công trình đi trước đã làm rõ tiến trình vận động của
tiểu thuyết Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX. Rất tiếc là trong các công trình đó
ít đề cập đến những sáng tạo của những cây bút nữ. Một trong những sự đổi mới cần ghi
nhận trong thi pháp tiểu thuyết nữ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là sự đa dạng về kết
cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ trần thuật. Bài viết này ghi
nhận những đổi mới ban đầu của những cây bút nữ nhìn từ kỹ thuật viết tiểu thuyết.
2. NHỮNG THỂ NGHIỆM VỀ KỸ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN
NỮ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
2.1. Nghệ thuật xây dựng thế giới nhân vật
Trong tác phẩm văn học, nhân vật là yếu tố quan trọng đối với nhiều thể loại, đặc biệt là
tiểu thuyết. Tiểu thuyết không thể thiếu nhân vật, vì đó chính là phương tiện cơ bản để
nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nó không chỉ là “nơi tập trung mọi
giá trị tư tưởng hiện thực” mà còn là “công cụ khái quát hiện thực và phương tiện để tác
giả hiện thực hoá quan niệm nghệ thuật về con người dưới một hình thức biểu hiện
tương tự” [7; tr. 10].
Sự đa dạng của nhân vật tiểu thuyết là một trong những yếu tố đánh dấu bước phát triển
và hiện đại hoá của tiểu thuyết thời kỳ này. Nhân vật được xây dựng trên cơ sở thẩm mỹ
của đạo lý truyền thống nhưng cũng gắn bó chặt chẽ với lý tưởng thẩm mỹ và những
nhân tố đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử xã hội đương thời. Thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết các nhà văn nữ bao gồm nhiều tầng lớp xã hội thời Pháp thuộc như:
quan lại (các ông Phủ, ông Huyện, cai tổng), hương chức, viên chức, trí thức, thị dân, vô
NHỮNG THỂ NGHIỆM VỀ KỸ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ 17
sản lưu manh, giới giang hồ “xã hội đen”, địa chủ, nông dân Thế giới nhân vật đông
đúc dần với tầng lớp điền chủ, tầng lớp thượng lưu giàu có. Các ông Phán, bà Phán,
thầy thông ngôn, viên chức lớn nhỏ, trí thức trung lưu, thị dân giàu có, thị dân lưu manh
hoá, giới giang hồ xuất hiện trong các tiểu thuyết.
Các nhân vật trong tiểu thuyết của Phan Thị Bạch Vân đều là những người phụ nữ tài
năng, tiến bộ nhưng gặp phải những bất hạnh trong cuộc sống lứa đôi, trong gia đình
như Kiều Loan, Như Hoa Khi đã nhận thức được nguyên nhân của những bất hạnh đó
chính là ràng buộc của lễ giáo phong kiến, họ đã chủ động tìm con đường tự lập thân để
có thể sống một cuộc sống năng động, tự do. Những bộ tiểu thuyết như Giám hồ nữ
hiệp, Nữ anh tài được viết với bút danh Hoàng Thị Tuyết Hoa cũng rất tiến bộ trong
việc thể hiện người phụ nữ mới. Đó là người phụ nữ dám hy sinh vì nghĩa lớn như Thu
Cận trong Giám hồ nữ hiệp. Họ biết làm kinh tế để hỗ trợ cho hoạt động chính trị và
văn hoá. Những nhân vật trong Giám hồ nữ hiệp có những câu nói nổi tiếng: “Cách
mạng có cứ gì con trai con gái”, “hai tiếng nô lệ ở trong thiên hạ này còn có dân tộc nào
mà chịu mang không” [10; tr. 8]. Nhân vật Tú Anh trong Nữ anh tài rất có bản lĩnh
trong tình yêu, hôn nhân và sự nghiệp, khác hẳn với những nhân vật bi kịch nữ như
Kiều Loan, Như Hoa trong các tiểu thuyết Lâm Kiều Hoa, Kiếp hoa thảm sử.
Trong tiểu thuyết Ngọc chìm đáy biển, Mộng Hiệp nữ sĩ đã miêu tả những xung đột
trong nội tâm của cô Bích Ngọc và thầy Minh Tâm. Qua suy nghĩ của nhân vật, độc giả
hiểu rõ hơn cuộc sống đời thường và những tâm tư tình cảm của lớp người trí thức trong
xã hội đương thời. Bích Ngọc luôn đắn đo, suy nghĩ, tâm trí nàng giằng xé giữa sự lựa
chọn cuộc sống nghèo nàn, thanh bạch với cuộc sống giàu sang “lầu cao cửa rộng, sản
vật lúa ức, tiền muôn” [4; tr. 73] và phải sống chung với người mà cô không có cảm
tình. Lắm khi Bích Ngọc cũng muốn nhận lời cầu hôn của Kiêm Triệu “một cự phú cầu
hôn mà ta cứ từ chối mãi thì chẳng là ngu dại lắm sao” [4; tr. 60] nhưng nàng nghĩ lại,
nếu “nhắm mắt mà thờ một kẻ không được tâm đầu ý hợp thì lại càng ngu dại hơn nữa”
[4; tr. 61]. Nhưng thật ngang trái, người mà nàng tâm đầu ý hợp thì đã có vợ con, Hai
người có cảm tình với nhau “gặp nhau thì thêm phần khắng khít, vãng lai thù tạc càng
thêm mật thiết hơn xưa” [4; tr. 81]. Họ gần như “đã chìm đắm ở trong biển tình mà
không hề tự biết vậy” [4; tr. 83].
Nhân vật Ngọc Lam trong Giọt lệ phòng đào của Nguyễn Thị Thanh Hà được thể hiện
qua những giằng xé nội tâm đau đớn. Nàng yêu Cẩm Tâm, một người bạn văn chương
nhưng bị sự ngăn cản bởi người dì, lại bị tên Bạc Nhân lừa gạt nhiều phen. Cuối cùng vì
mưu kế của Bạc Nhân mà nàng phải trả giá bằng cả tính mạng. Nàng đau đớn: “Em đã
nói rằng, thân em đã gửi cho anh thì em phải sống chết theo anh, em phải sống chết giữ
trọn chữ trinh, mà tạ lòng của anh. Nay nợ duyên lở dở, loan phượng phân ly, anh một
trời, em một biển; cái cảnh phòng không lạnh ngắt, cái chăn đơn, cái gối chiếc, cái cảnh
khổ đó có lẽ anh chịu nổi chứ em không tài nào chịu đặng, em phải sầu thảm rồi gầy
mòn mà thác” [2; tr. 51]. Dưới ngòi bút của các nhà văn nữ, xung đột trong thế giới nội
tâm của nhân vật được thể hiện khá sâu sắc, với những giằng xé, đau đớn trong tâm hồn
18 ĐẶNG THỊ NGỌC PHƯỢNG
để đến đỉnh điểm câu chuyện, tác giả mới để cho nhân vật được nói lên nỗi niềm sâu kín
tận đáy lòng.
Các nhà văn nữ chú ý đến xây dựng nhân vật qua sự kiện, hành động, tạo ra được tính
cách cho nhân vật. Đó là hình ảnh của nàng tiểu thơ Tú Anh, Ngọc Liên, hai bậc nữ lưu
có tư chất, phẩm hạnh tốt, có chí hướng tân tiến, thành lập hội để “chư tập văn nhơn”
Cùng với cách để cho nhân vật tự thể hiện mình qua những diễn biến của tâm lý, tác giả
Mộng Hiệp đã xây dựng khá thành công hình ảnh của nhân vật với những suy tư, trăn
trở của riêng mình.
Tiểu thuyết của các nhà văn nữ thể hiện niềm đam mê của họ đối với văn chương. Tuy
nhiên, trong những đóng góp ấy có không ít hạn chế. Tác giả chưa đi sâu khai thác yếu
tố tâm lý, miêu tả tâm lý nhân vật chưa sâu sắc, sự thay đổi về tư tưởng nhân vật còn
gượng ép. Các nhân vật trong các tiểu thuyết không đi đến cùng trong sự đấu tranh của
mình, còn mang tính nửa vời. Trong tiểu thuyết Sóng tình, nhân vật Minh Tiên rất yêu
Kiều Anh, vui mừng trước cái chết của Đình Ái do chính bàn tay mình gây ra. Nhưng
đến khi đứng trước toà, trước dư luận, đặc biệt trước vợ mình thì Minh Tiên không dám
chấp nhận mà đổ hết lỗi cho Kiều Anh. Hay tình yêu của Vân và Nhân trong Vì một
chữ tình không đi đến kết thúc tốt đẹp, họ đành chấp nhận chia tay vì gia đình Vân ép
gả cô cho Đức để trả ơn nghĩa. Nhà văn không để cho nhân vật phát triển theo quy luật
phát triển tâm lý mà theo ý hướng mang tính giáo dục, nên tác phẩm của bà mang tính
luận đề khá rõ.
Các nhân vật được thể hiện trong tiểu thuyết khá đa dạng, phong phú. Họ là những
người con gái xinh đẹp, có học thức như nàng Minh Phụng trong Vì nghĩa quên mình,
nàng Ngọc Hương trong Nhi nữ tạo anh hùng của Huỳnh Thị Bảo Hoà hay những nhi
nữ sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn nhưng có ý chí, có tinh thần yêu nước như nàng
Nguyệt Anh trong Thẹn phận tủi hồng của Lưu Thị Việt Nga, nàng Trần Thị trong
Tấm gương trung hiếu của Phan Thị Ngọc Sương. Họ là những phụ nữ chân yếu tay
mềm, vì hoàn cảnh phải sớm gánh vác gia đình. Thị Nghĩa trong Tình cốt nhục của
Nguyễn Thị Công, mẹ mất sớm, cha già yếu, một mình nàng vất vả, vừa chăm lo cha già
vừa lao động kiếm tiền, động viên em ăn học nên người. Thật là “gương chị thương em,
đời nầy tưởng ít có thay”. Thế nhưng cũng có những bậc nữ lưu như cô Ngô Như Liêng,
con ông quan Phủ Ngô Thơ Hương, vừa trẻ trung, xinh đẹp, vừa có học thức nhưng lại
là người đối nhân xử thế tệ bạc, suốt ngày chỉ biết trang điểm lại thường vô cớ quát
mắng kẻ tôi tớ trong nhà, không biết kính trọng cha mẹ chồng.
Cũng như các nhà văn nam giới, các cây bút văn xuôi nữ giai đoạn này không tránh
khỏi những non nớt, vụng về trong xây dựng nhân vật, phân tích tâm lý nhân vật.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên thuộc về lịch sử. Một thời gian dài trong
quá khứ, dưới sự chi phối của áp lực phong kiến, vai trò của người phụ nữ bị xem nhẹ,
không có quyền tham gia các hoạt động xã hội. Vươn lên và tự khẳng định, gây ấn
tượng cho người đọc, đó không phải là điều dễ dàng với người cầm bút. Đặc biệt lại
càng khó khăn đối với các cây bút nữ đã từng chịu nhiều trói buộc, kỳ thị nghiệt ngã của
xã hội, của gia đình. Nhiều ấn phẩm của các cây bút nữ gợi mở nhiều suy nghĩ, làm
NHỮNG THỂ NGHIỆM VỀ KỸ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ 19
rung động người đọc bởi những tình cảm chân thành, trong sáng và hấp dẫn bởi những
nét vẽ tài hoa, độc đáo khi xây dựng nhân vật.
2.2. Sự đa dạng về kết cấu
Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất, hoàn chỉnh được tạo nên từ
nhiều yếu tố. Để tạo nên chỉnh thể đó nhà văn phải suy nghĩ tổ chức các yếu tố trong tác
phẩm sao cho có tính nghệ thuật. Cách tổ chức các yếu tố bên trong và bên ngoài tác
phẩm như vậy gọi là kết cấu. Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục
của tác phẩm; là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung tác phẩm.
Tiểu thuyết của các nhà văn nữ thường sử dụng kết hợp nhiều dạng kết cấu khác nhau.
Bên cạnh một dạng kết cấu chính giữ vai trò chủ đạo, các nhà văn có xu hướng lồng
ghép thêm một số kết cấu phụ trợ nhằm đạt được hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Người
đọc có thể nhận thấy trong các tác phẩm, nhà văn đồng thời sử dụng nhiều dạng kết cấu
khác nhau như: kết cấu chương hồi, kết cấu theo thời gian đơn tuyến, kết cấu theo hai
tuyến nhân vật và cả dạng kết cấu đảo lộn trật tự thời gian, kết cấu theo diễn biến tâm lý
của nhân vật.
Tiểu thuyết Tây phương mỹ nhơn được xây dựng theo mô hình truyền thống với 15
hồi, đầu mỗi hồi đều có hai câu thơ khái quát toàn bộ nội dung chính.
Hồi thứ nhất
Cơn ngộ biến học đường lỡ bước
Lúc sa cơ phú hộ từ hôn.
Hồi thứ hai
Cuộc phong vân Âu địa chiến tranh
Chí hồ thỉ Nguyễn gia ứng mộ.
....
Tiểu thuyết mở ra cảnh gia đình Tuấn Ngọc vì oan ức mà rơi vào bi kịch tan gia bại sản,
xã hội không trọng dụng nên đăng ký tòng quân sang Pháp trong cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ nhất. Tại đây, anh đã gặp nàng Bạch Lan vừa đẹp người vừa đẹp nết, trải qua quá
trình bao biến cố hai người mới đến được với nhau. Chưa được bao lâu thì Tuấn Ngọc
phải về nước, vợ chồng chịu cảnh kẻ Âu người Á. Vượt ngàn khó khăn, bằng ý chí quyết
tâm, cuối cùng vợ chồng mới được đoàn tụ. Thời gian diễn biến của câu chuyện được sắp
xếp theo trình tự thời gian nên rất dễ tóm tắt được nội dung tác phẩm.
Ở tác phẩm Tây phương mỹ nhơn, người đọc đã tìm thấy một Huỳnh Thị Bảo Hoà rất
riêng, rất tài năng. Tài năng của bà được thể hiện qua việc vận dụng và phát huy những
mặt ưu của kết cấu truyền thống, đồng thời có sự sáng tạo riêng. Huỳnh Thị Bảo Hoà đã
khai thác kết cấu tiểu thuyết chương hồi nhưng không phải sao nguyên. Đối với tiểu
thuyết chương hồi bao giờ cũng có hạ hồi phân giải nhưng ở “Tây phương mỹ nhơn”
20 ĐẶNG THỊ NGỌC PHƯỢNG
chỉ có hai câu thơ tóm tắt nội dung chính của các hồi mà không có hạ hồi phân giải.
Chính sự linh động như vậy mà đã hạn chế sự cứng nhắc, nhàm chán cho người đọc.
Tiểu thuyết của Đạm Phương cũng có những thay đổi đáng kể. Mặc dù nội dung tư
tưởng tiểu thuyết bà mang nặng sắc thái đạo lý truyền thống, nhưng cốt truyện và kết
cấu tác phẩm đã có những bước biến đổi đáng ghi nhận. Những câu chuyện trong tiểu
thuyết của Đạm Phương đã được thu nhận từ hiện thực đời sống của xã hội Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX. Bước đầu, tác giả thoát khỏi lối vay mượn cốt truyện của
thời kỳ văn học trung đại, tiến dần đến việc phản ảnh hiện thực cuộc sống. Trong tiểu
thuyết Kim Tú Cầu, Đạm Phương đã thoát khỏi lối tiểu thuyết chương hồi trước đó mà
dụng công tạo nên một kết cấu khá éo le, hấp dẫn. Nếu so sánh với một số tác giả cùng
thời chúng ta dễ dàng nhận thấy kết cấu tiểu thuyết của Đạm Phương đã xóa bỏ dấu vết
của tiểu thuyết chương hồi để chuẩn bị cho sự vận động và phát triển của tiểu thuyết
hiện đại. Ở tác phẩm Kim Tú Cầu tác giả đã tổ chức truyện thành các phần và được
đánh dấu bằng các số I, II, III, IV. Ở Hồng phấn tương tri, kết cấu được chia thành
Chương I, II, Nếu so với kết cấu chương hồi trong tiểu thuyết Tây phương mỹ nhơn
của Huỳnh Thị Bảo Hoà thì cách tổ chức cốt truyện của Đạm Phương có phần mới hơn.
Đa số những tiểu thuyết nữ trong thời gian này sử dụng kết cấu chương hồi thường kết
hợp thêm một dạng kết cấu tác phẩm khác là dạng kết cấu theo thời gian đơn tuyến. Mỗi
chương,mỗi hồi trong tiểu thuyết chương hồi thường giải quyết một vấn đề, một câu
chuyện nhỏ trong toàn bộ tác phẩm. Các chương, hồi liên kết với nhau theo một trật tự
thời gian, thường là thời gian tuyến tính. Kết cấu theo trình tự thời gian giúp xâu chuỗi
các sự kiện, các sự việc trong từng chương, hồi nhằm xây dựng tổng thể nội dung câu
chuyện. Cuốn tiểu thuyết tiêu biểu dạng kết cấu này là Sóng tình của Cẩm Tâm. Những
cuốn tiểu thuyết của Cẩm Tâm là một bộ liên hoàn, bởi vì mỗi quyển chưa hẳn là một
câu chuyện hoàn chỉnh mà có cốt truyện và tình tiết truyện được liên thông từ cuốn này
sang cuốn khác. Mỗi tác phẩm có thể là một chương, một hồi được xâu chuỗi với nhau
bằng một khoảng thời gian.
Kết cấu tiểu thuyết Ngọc chìm đáy biển được viết theo thời gian đơn tuyến. Thầy giáo
Minh Tâm và cô giáo Bích Ngọc tình cờ gặp nhau trong chuyến dạo chơi. Khi gặp tai
nạn trên biển, Bích Ngọc đã ra sức cứu thầy Minh Tâm. Từ đó, họ gặp gỡ, trò chuyện
cùng nhau. Họ rất tâm đầu ý hợp, dần dần nảy sinh tình cảm. Nhưng vì nhiều lý do cách
trở mà họ không đến với nhau được. Cổ Nguyệt Hương, Một đời mấy thân, Nữ anh
tài cũng có kết cấu như vậy.
Tiểu thuyết của các nhà văn nữ còn chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi (cổ điển)
Trung Quốc, điều này thấy rõ nhất là ở cốt truyện tài tử giai nhân và lối kết cấu theo ba
công đoạn quen thuộc: hội ngộ - lưu lạc - đoàn viên. Lối kết cấu này có thể tìm thấy ở
các tiểu thuyết như: Tây phương mỹ nhơn, Lương duyên túc đế Các đôi trai tài gái
sắc sau khi gặp gỡ, hẹn hò bỗng nhiên gặp gia biến hoặc cảnh ngộ éo le khiến họ phải
xa cách nhau. Sau bao thử thách, gian truân họ lại đoàn tụ, hưởng hạnh phúc bên nhau.
Những thử thách này là thước đo cho phẩm chất tốt đẹp của nhân vật. Việc cho các nhân
NHỮNG THỂ NGHIỆM VỀ KỸ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ 21
vật phiêu lưu qua nhiều vùng đất cũng giúp cho tác giả mở rộng được phạm vi hiện thực
được phản ánh.
Tiểu thuyết của các nhà văn nữ thường sử dụng lối kết cấu theo tuyến nhân vật. Nhân
cách của các nhân vật thuộc hai tuyến được miêu tả đối lập nhau.Tuyến nhân vật phản
diện luôn được miêu tả là những con người tham lam, độc ác, phản trắc, sẵn sàng dùng
thủ đoạn đê hèn để đạt được mục đích. Tuyến nhân vật chính diện được miêu tả là
những cá nhân luôn ý thức về trách nhiệm đối với đất nước và sẵn tấm lòng nhân ái cứu
giúp người hoạn nạn. Dạng kết cấu tác phẩm theo hai tuyến nhân vật rất phù hợp để các
nhà văn nữ thể hiện đạo lý. Càng ở giai đoạn sau, bên cạnh kết cấu theo hai tuyến nhân
vật, các nhà văn đã chú ý sử dụng những dạng kết cấu khác như kết cấu tâm lý, kết cấu
đảo lộn trật tự thời gian trong tác phẩm của mình.
Với lối kết cấu tâm lý, tiểu thuyết Sóng tình của Cẩm Tâm đi sâu khai thác những độc
thoại của nhân vật. Toàn bộ câu chuyện là diễn biến phức tạp của cuộc hành trình tâm lý
của nhân vật. Một nhân vật luôn có những dằng xé, đấu tranh giữa cuộc sống giàu và
nghèo, giữa tình yêu và sự nghiệp. Những hành động và đối thoại của các nhân vật ít
được tác giả chú ý mà chủ yếu là tâm lý nhân vật được khai thác triệt để. Lối kết cấu
theo tâm lý nhân vật làm cho tác phẩm tránh được sự đơn điệu mà những tiểu thuyết
khai thác đề tài đạo lý thường gặp.
Việc vận dụng lối kết cấu tác phẩm theo tâm lý của nhân vật là một cố gắng đáng kể của
các nhà văn nữ. Ở một số tiểu thuyết, lối kết cấu theo tâm lý nhân vật đã được nhà văn
nữ chú ý sử dụng tạo nên những nét cách tân cho nghệ thuật tiểu thuyết nữ.
2.3. Cốt truyện
Cốt truyện là một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật, tạo ra một trường
hành động cho các nhân vật, cho phép tác giả thể hiện và lý giải tính cách của chúng.
“Cái dệt nên cốt truyện là hành động của các nhân vật” [1; tr. 113] và cốt truyện được
xây dựng bằng nhiều biện pháp kết cấu khác nhau. “Lối kết cấu bằng trình tự liên tiếp
trước sau của các sự kiện, ở những tác phẩm có giá trị nghệ thuật thực sự, khiến cho
người đọc luôn thấy sự mới mẻ qua từng tình tiết” [1; tr. 117].
Cách xây dựng cốt truyện thời kỳ này rất đơn giản, theo mạch thẳng thời gian, giúp
người đọc dễ theo dõi, dễ nhớ, phù hợp với đặc điểm tâm lý, tính cách của người dân
Nam Bộ. Tác phẩm Vì nghĩa quên mình của Huỳnh Thị Bảo Hoà kể lại những hành
động của nàng Minh Phụng và chàng Phi Hùng vì quốc dân, đồng bào mà “quên mình”,
sẵn sàng đánh đổi cả tính mạng để làm thức tỉnh lòng yêu nước của dân tộc. Tình cốt
nhục của Nguyễn Thị Công đề cập đến hoàn cảnh nghèo khó của gia đình ông Văn -
Đống. Vợ chết, “Nhà thì xiêu, vách lại đổ”, “cơm ăn có đâu no đủ, ăn mặc có đâu kín
thân”, chỉ có người con gái là Thị Nghĩa giỏi giang, hiếu thảo, chăm sóc cha, nuôi em ăn
học thành tài.
Hầu hết, các tác phẩm của các nhà văn nữ đều xây dựng những tình tiết tạo nên cao trào
của tác phẩm. Cách giải quyết vấn đề của họ nhẹ nhàng, thể hiện tấm lòng nhân ái, phúc
hậu của người phụ nữ. Cẩm Tâm đã tạo nên những tình tiết kịch tính, nhầm lẫn trong tác
22 ĐẶNG THỊ NGỌC PHƯỢNG
phẩm để đem đến kết thúc có hậu cho câu chuyện. Ông bà huyện lên Sài Gòn tìm Nga
nhưng lại nhìn lầm cô đào hát Đào Hoa là con mình, đem về gả cho Hữu Tâm như đã
hứa hôn. Đào Hoa biết ông bà Huyện nhầm nhưng cô vẫn im lặng, cô muốn trả ơn cho
Thanh Vân đã cứu cô thoát khỏi cuộc sống khổ ải, hơn nữa cô cũng cảm tình với Hữu
Tâm. Sự nhầm lẫn ấy đã tạo nên một kết thúc truyện có hậu. Thanh Vân và Nga nên vợ
nên chồng, Đào Hoa nên duyên với Hữu Tâm. Đó là ước mơ của tác giả, muốn thoả
hiệp giữa cái mới và cái cũ. Tác giả chưa dám bứt phá ra khỏi những giáo lý lúc bấy
giờ. Con cái không có quyền quyết định tình yêu hôn nhân của mình mà chịu sự chi
phối rất lớn từ gia đình, từ những quy chuẩn đạo đức xã hội đương thời.
Trong Nữ anh tài của Hoàng Thị Tuyết Hoa, khi Tú Anh phát hiện người bạn Vân Đạt
đã mua chuộc người đưa thư để đánh đổi bức thư của Hồng Minh gửi cho nàng thì nàng
chỉ đòi lá thư mà không trừng phạt hoặc tố cáo anh ta. Lần thứ hai, Vân Đạt lại thuê côn
đồ, đón đường nhằm hãm hại nàng với màn kịch rất hoàn hảo: “Chủ tôi là thầy Hồ Văn
Đạt, nhơn muốn cầu hôn với tiểu thơ mà không đặng, nên hồi sáng nầy, khi nghe tiểu
thơ ra tỉnh, thì bảo chúng tôi giả làm côn đồ, chừng nầy ra đón xe tiểu thơ mà giả bộ
hãm hại. Chủ tôi trú trong lùm xa kia để đợi khi có tiếng kêu la tiếp cứu, thì sẽ chạy đến
mà đánh chúng tôi để tiếng ơn cùng tiểu thơ” [6; tr. 31]. Khi đã tường tận mọi việc,
nàng đã không đánh đập hay la mắng mà còn rộng lòng nhân mà tha cho chúng: “Thôi
ta lấy lòng nhơn mà tha cho chúng bây một phen, và hãy về mà nói với chủ bây là Vân
Đạt từ rày khá tu tỉnh lại, nếu còn thói quen ấy nữa thì đừng trách ta sao độc thủ nghen”
[6; tr. 32]. Cả hai lần bị hại nàng đều không truy bắt, không tố cáo mà dùng lời khuyên
răn, nhắn nhủ để Vân Đạt tu sửa nhưng hắn không nghe mà còn hành động bất nhân
Mỗi câu chuyện đã thoát khỏi lối vay mượn cốt truyện của thời kỳ trung đại. Những tác
phẩm của các nhà văn nữ đã đi sâu phản ánh hiện thực đời sống của xã hội Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX. Tiểu thuyết Kim Tú Cầu viết về mảnh đất xứ Huế: “Hồi ba
bốn mươi năm về trước, ở xứ Kinh, thuộc về con đường Đông Ba, đi xuống dạo Ao Hồ,
ngả Tả Duệ, thời phần nhiều phủ đệ các đức ông, đức bà ở rất đông, nhà cửa lâu đâì
chồng chập, nào rạp hát, trường gà, đua ngựa đánh quần” [3; tr. 341]. Hồng phấn
tương tri dẫn dắt người đọc đến với mảnh đất Quảng Bình: “Từ hồi nàng đến Đồng Hới
được vài tuần, thì trong tỉnh đã nhiều người biết tiếng, tài sắc và đức hạnh của nàng,
tranh nhau phùng nghinh; nàng thường lấy sự thù tạc làm phiền, nhưng không sao
khước đặng” [3; tr. 377].
Điểm mới trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, kết cấu tác phẩm của các nhà văn nữ là
ở phần kết thúc truyện. Bên cạnh nhiều tác phẩm viết theo lối kết thúc có hậu, cũng xuất
hiện vài tác phẩm có kết thúc bất ngờ, “không có hậu”, đi ngược với “truyền thống”.
Điển hình là tác phẩm Ngọc chìm đáy biển của Mộng Hiệp nữ sĩ. Nàng Bích Ngọc sắc
nước hương trời, thông minh trí tuệ, thương mến thầy Minh Tâm. Hai người có tình cảm
sâu đậm nhưng không ai bày tỏ cùng ai. Đến khi thầy Minh Tâm lên Sài Gòn, làm chủ
bút tờ báo Việt Nam dân báo thì ở Bạc Liêu, cô Bích Ngọc ôm niềm đau thương nhớ,
lại gặp cảnh éo le ngang trái mà liều chết, giữ trọn mối chung tình.
NHỮNG THỂ NGHIỆM VỀ KỸ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ 23
Cốt truyện là một đặc trưng nghệ thuật xây dựng tác phẩm của các nhà nữ. Đa số những
tiểu thuyết được dựng lên trong những tình huống, biến cố, sự kiện tác động đến nhân
vật và đó là điểm tựa để nhân vật bộc lộ những diễn biến bên trong của chính mình theo
dòng chảy suy tưởng và cảm xúc.
2.4. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là chất liệu cơ bản, là “yếu tố thứ nhất” của văn học. Thông qua ngôn ngữ,
nhà văn xây dựng những hình tượng văn học, tái hiện lời nói và thế giới tư tưởng của
con người. Nếu ngôn ngữ sử thi là ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, giàu kịch
tính với lối nói ví von, khoa trương thì ngôn ngữ tiểu thuyết gần gũi với đời sống, bởi
tiểu thuyết là cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư, là miêu tả cuộc sống như một thực tại
cùng thời.
Khảo sát tiểu thuyết của cây bút nữ, hầu hết các tác phẩm đều sử dụng ngôn ngữ bình
dị, dễ hiểu, giúp người đọc có cảm giác thân thuộc, gần gũi. Cách diễn đạt nhẹ nhàng,
dẫn dắt người đọc đến với câu chuyện: “Một buổi chiều chúa nhựt trời êm biển lặng, làn
nước bích gió đùa, cảnh mùa thu mây cuốn. Một nàng tha thước (thướt) bóng hồng, đậm
đà vẻ ngọc, dáng điệu rất thanh tao, thân thể thêm vừa vặn, đương ngồi trong một chiếc
thuyền nan, tấp dựa một gò cát nổi lên giữa mặt bể” [4; tr. 3]. Cách viết tỉ mỉ, thể hiện
sự quan sát tinh tế. Ngôn từ của Cẩm Tâm trong tiểu thuyết khá gần gũi với lời ăn tiếng
nói lúc bấy giờ, không xa lạ với tầng lớp bình dân trong xã hội. Những tác phẩm của chị
khá ngắn, thường chỉ khoảng 30 trang, nội dung đơn giản, không nhiều kịch tính cũng
như nhân vật.
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Đạm Phương phản ánh tính giao thời rõ nét nhất ở sự pha
trộn giữa lớp ngôn từ mới và lớp ngôn từ cổ, giữa cách hành văn hiện đại và lối hành
văn biền ngẫu. Nhiều khi sự pha trộn đan xen này xuất hiện ngay trong một câu văn.
Những hình thức mới mẻ về ngôn ngữ cùng hiện diện bên cạnh các hình thức ngôn ngữ
vốn có trong văn học trước kia không hẳn đã là nhược điểm. Bởi trong giai đoạn giao
thời thì cả hai đều có vai trò cần thiết, làm nên những món ăn tinh thần phù hợp thị hiếu
người đọc lúc bấy giờ.
Những năm đầu thế kỷ XX, ngôn ngữ của tiểu thuyết vẫn còn mang dấu ấn của câu văn
biền ngẫu. Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách vẫn còn ảnh hưởng của loại câu văn này.
Thế nhưng khi đọc tiểu thuyết của Đạm Phương, người đọc nhận thấy rằng ngôn ngữ
đời sống, ngôn ngữ thuần Việt lại hiện hữu trong tác phẩm của bà. Trong Hồng phấn
tương tri có câu: “Ngoài mặt nàng gượng gạo làm dáng tươi tỉnh, bỏ cái thơ vào túi áo,
mà trong lòng bấy giờ phần lo, phần sợ, phần buồn, phần yêu, rối rít như tơ, không sao
kể cho xiết” [3; tr. 386]. Hay ở Kim Tú Cầu: “Người đàn ông nóng nảy, chạy lui chạy
tới, rồi nói rằng: Vậy thời ta sang tả ngạn bên kia sông, đuổi bắt nó đã, nếu không được
ta lui về nhờ nhà sư chỉ hộ cho” [3; tr. 345].
Ngôn ngữ người kể chuyện trong tiểu thuyết Tây phương Mỹ nhơn có tính nhịp điệu
rất rõ ràng. Tạo nên những câu trần thuật ngắn, người viết phải có khả năng giản lược
tối đa câu chữ và các thành phần không cần thiết để có được câu văn rất cô đọng và vẫn
24 ĐẶNG THỊ NGỌC PHƯỢNG
đảm bảo lượng thông tin cần thiết. Đặc biệt, những đoạn tác giả miêu tả cảnh sắc hoặc
kể lời văn ngắn gọn, đối nhau vừa tạo tâm thế gấp gáp vừa tạo sự nhịp nhàng cho người
đọc. Ngôn ngữ dẫn dắt của tác giả biến chuyển nhịp nhàng như lời ăn tiếng nói hằng
ngày, trong đó xuất hiện các từ địa phương như “nhơn”, “chi”, “bịnh”, “lịnh công”
Đoạn Tuấn Ngọc chưa hiểu chuyện chi, những cũng cứ thiệt khai rằng: nàng Bạch Lan
ấy chính là vợ tôi, chẳng hay quan hỏi có chuyện chi?” [5; tr. 185] rồi “Đương còn nghi
ngại, thì quan lại hối rằng”, “Chừng ấy Tuấn Ngọc mới tin là thiệt” [5; tr. 186] Tần
số các từ địa phương lặp lại rất nhiều cho thấy sự thâm nhập của các yếu tố đời thường
vào nội dung tiểu thuyết.
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại. Ngôn ngữ độc thoại rất ít, dù
có cũng tồn tại dưới dạng phát ngôn ngắn gọn, rất khó nhận ra nếu không có các từ dẫn
như “suy nghĩ” hay “nghĩ” ở trước đó. Đặc biệt, những diễn biến trong tâm lý nhân vật
thông thường đó là lời phát ngôn cho tác giả. Chẳng hạn như đoạn Tuấn Ngọc tự giác:
“cõi đời là bể khổ, đời người là giống cá ở trong bể mênh mông vô hạn. Cho nên gặp
cảnh nghịch chớ khá ngã lòng, vì người có tài thì hoá công hay thử Kìa các bực hoà
kiệt buổi xưa dễ mấy ai khỏi vong hoạn nạn, suy đó ta chẳng nên buồn rầu làm chi” [5;
tr. 96]. Đó là quan niệm của tác giả về cuộc đời như một dạng phát ngôn nửa trực tiếp.
Nhìn chung, ngôn ngữ nhân vật nói riêng và ngôn ngữ văn học nói chung thời kì này
vẫn còn mang nhiều dấu ấn của nền Hán học dân tộc, có pha lẫn ngôn từ địa phương, lối
nói có tính chất đăng đối nhưng cơ bản trong tiểu thuyết của Huỳnh Thị Bảo Hoà đó
là một trong các tiêu chí để đánh giá nhân phẩm của nhân vật.
Có thể nói rằng, trong bối cảnh văn học nửa đầu thế kỷ, ngôn ngữ tiểu thuyết đã tiến tới
hoà nhập vào tiến trình hiện đại hoá văn xuôi. Ngôn ngữ trong các tiểu thuyết của các
nhà văn nữ đang thoát dần khuôn sáo, ước lệ của ngôn ngữ trung đại hay câu chữ đối
chọi, hành văn dài dòng, còn sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, lời ăn tiếng nói hàng
ngày cho vào trong tác phẩm của mình. Trong dòng văn học (1900-1930), tiểu thuyết nữ
tuy chưa có được những cách tân, đột phá rõ rệt nhưng cũng đã chứng tỏ được sự cố
gắng của mình qua tái hiện xung đột, khắc hoạ tính cách nhân vật, qua những hành
động, suy nghĩ của nhân vật thể hiện qua ngôn ngữ.
3. KẾT LUẬN
Tiểu thuyết của các nhà văn nữ thật sự mở ra một diện mạo mới cho văn xuôi quốc ngữ
dầu thế kỷ XX. Trên phương diện nghệ thuật, có thể thấy tiểu thuyết của các nhà văn nữ
giai đoạn này đã phát huy những thành tựu của giai đoạn trước đó, đồng thời cũng có
một số cách tân đáng kể. Về nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật kết cấu tác
phẩm, tiểu thuyết nữ đã kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau của truyền thống
và hiện đại. Về phương diện kết cấu, các nhà văn nữ tiếp tục phát huy những dạng kết
cấu phổ biến trước đó như: kết cấu chương hồi, kết cấu theo hai tuyến nhân vật, kết cấu
theo trình tự thời gian đơn tuyến, thủ pháp kết cấu tác phẩm theo tâm lý nhân vật. Ngôn
ngữ tiểu thuyết mà các nhà văn nữ thể hiện trong tác phẩm là ngôn ngữ mang đậm hơi
thở của đời sống. Chúng ta ghi nhận những thành quả nghệ thuật của các tác giả nữ,
NHỮNG THỂ NGHIỆM VỀ KỸ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ 25
những đóng góp của họ vào quá trình hiện đại hoá văn học dân tộc, làm tiền đề, định
hướng cho những sáng tác của các cây bút nữ sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lại Nguyên Ân (1999). 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[2] Nguyễn Thị Thanh Hà (1928). Giọt lệ phòng đào, NXB Xưa nay, Sài Gòn.
[3] Lê Thanh Hiền (1999). Tuyển tập Đạm Phương nữ sĩ, NXB Văn học, Hà Nội.
[4] Mộng Hiệp nữ sĩ (1927). Ngọc chìm đáy biển, Nhà in Xưa nay, Sài Gòn.
[5] Thy Hảo Trương Duy Hy (2003). Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hoà người phụ nữ viết tiểu
thuyết đầu tiên, NXB Văn học, Hà Nội.
[6] Hoàng Thị Tuyết Hoa (1929). Nữ anh tài, Bảo tồn - Nữ lưu thơ quán xuất bản, Sài
Gòn - Gò Công.
[7] Nhiều tác giả (2004). Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội.
[8] Hồ Thị Quế (1926). Cổ Nguyệt Hương, NXB Xưa nay, Sài Gòn.
[9] Nguyễn Thị Truyện, Trần Thái Nguyên (1927). Lưu duyên túc đế, Nhà in Nguyễn
Văn Của, Sài Gòn.
[10] Phan Thị Bạch Vân (1928). Lâm Kiều Loan, Bảo Tồn, Sài Gòn.
Title: THE EXPERIMENTS ON METHODS OF WRITING NOVELS OF VIETNAMESE
WOMAN WRITERS IN FIRST HALF OF 20TH CENTURY
Abstract: The novel of period 1930-1945 is an important part of the modern novel. But in a
long time, novels of woman writers have received little attention. Doing research of female
novels in this stage we can see the remarkable innovation of the women in terms of art:
character building, structure, content, language... The technical experiments on novels written
by woman authors marked a new way of literature; premises oriented for writings of woman
writers later.
Keywords: novels, woman writers, art
TS. ĐẶNG THỊ NGỌC PHƯỢNG
Khoa Giáo dục Mầm non, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
ĐT: 0914 313 085, Email: hongnhung22071996@gmail.com
(Ngày nhận bài: 03/10/2015; Hoàn thành phản biện: 16/10/2015; Ngày nhận đăng: 12/3/2016)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31_479_05_dang_thi_ngoc_phuong_8538_2020296.pdf