Giới thiệu
1. Phụ lục này cung cấp những thông tin cơ bản về sông Mêkông và các tác động tiềm tàng do phát triển thủy điện ở thượng nguồn trong đó đáng kể sẽ thay đổi mô hình dòng chảy trong sông Mekong bắt đầu từ năm 2015. Hầu hết các thông tin đến từ nghiên cứu MRC về giai đoạn hai của chương trình phát triển lưu vực và nghiên cứu của Ngân hàng thế giới gần đây về biến đổi khí hậu. Nó trình bày bối cảnh về sông Mê Kông (kiến thức cơ bản về vật lý và sinh thái, dân số, sắc tộc, và di sản văn hóa , sử dụng nước); các kế hoạch phát triển thuỷ điện và tác động tiềm tàng do thay đổi khí hậu.
I. Bối cảnh trên sông Mekong
(a) Cơ sở vật lý và sinh thái
2. Địa hình. Sông Mê Kông, một dòng sông nội, là một trong những con sông lớn nhất thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng (cao nguyên cao nhất và lớn nhất trên trái đất, với độ cao trung bình khoảng 5.000 mét) chảy ra biển Đông. Con sông này chảy qua tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, vượt qua Myanmar, và chạy qua Lào, Thái Lan, Campuchia, và Việt Nam. Lưu vực sông Mêkông trên tổng thể trải dài qua các cao độ, khí hậu, vĩ độ và khu thực vật dọc theo 4.200 km (km) chiều dài của con sông. Phần trên ở Trung Quốc đã có một hành lang dài và tương đối hẹp và phù hợp cho phát triển thủy điện và Trung Quốc đang xây dựng một số trong số chúng. Trong tổng số lưu vực của sông Mê Kông (795,000 km ²) Hạ lưu sông Mekong (LMB) bao gồm 77 phần trăm của toàn bộ lưu vực và chiếm hơn bốn phần năm lượng nước chảy ra khỏi lưu vực mỗi năm. Nó bao gồm hơn 85 phần trăm lãnh thổ Lào và Campuchia, toàn bộ phần phía đông bắc của Thái Lan, và một phần phía nam của Việt Nam. LMB có một số tài nguyên quý giá tự nhiên của các giá trị có ý nghĩa kinh tế xã hội, môi trường và văn hóa, và một phần lớn dân số dựa vào các nguồn tài nguyên và dịch vụ mà con sông này cung cấp. Lưu vực bị hưởng mạnh bởi sự xói mòn và lắng đọng và các quá trình khí hậu và dòng sông khác.
16 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 1983 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những tác động tiềm tàng dự án quản lý thủy lợi phục vụ phát triển nông thôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHỤ LỤC 4 :
NHỮNG TÁC ĐỘNG TIỀM TÀNG CỦA PHÁT TRIỂN THƯỢNG LƯU
ĐẾN ĐỒNG BẰNG SÔNG MÊ KÔNG
MỤC LỤC:Giới thiệuI. Bối cảnh trên sông MekongII. Sử dụng nước và tiềm năng phát triểnIII. Tác động của biến đổi khí hậu đến dòng chảyIV. Những thay đổi tiềm tàng do bởi phát triển thượng lưu đến đồng bằng sông Mê KôngV. Những tác động xã hội tiềm tàng do biến đổi khí hậu
Giới thiệu
1. Phụ lục này cung cấp những thông tin cơ bản về sông Mêkông và các tác động tiềm tàng do phát triển thủy điện ở thượng nguồn trong đó đáng kể sẽ thay đổi mô hình dòng chảy trong sông Mekong bắt đầu từ năm 2015. Hầu hết các thông tin đến từ nghiên cứu MRC về giai đoạn hai của chương trình phát triển lưu vực và nghiên cứu của Ngân hàng thế giới gần đây về biến đổi khí hậu. Nó trình bày bối cảnh về sông Mê Kông (kiến thức cơ bản về vật lý và sinh thái, dân số, sắc tộc, và di sản văn hóa , sử dụng nước); các kế hoạch phát triển thuỷ điện và tác động tiềm tàng do thay đổi khí hậu.
I. Bối cảnh trên sông Mekong(a) Cơ sở vật lý và sinh thái
2. Địa hình. Sông Mê Kông, một dòng sông nội, là một trong những con sông lớn nhất thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng (cao nguyên cao nhất và lớn nhất trên trái đất, với độ cao trung bình khoảng 5.000 mét) chảy ra biển Đông. Con sông này chảy qua tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, vượt qua Myanmar, và chạy qua Lào, Thái Lan, Campuchia, và Việt Nam. Lưu vực sông Mêkông trên tổng thể trải dài qua các cao độ, khí hậu, vĩ độ và khu thực vật dọc theo 4.200 km (km) chiều dài của con sông. Phần trên ở Trung Quốc đã có một hành lang dài và tương đối hẹp và phù hợp cho phát triển thủy điện và Trung Quốc đang xây dựng một số trong số chúng. Trong tổng số lưu vực của sông Mê Kông (795,000 km ²) Hạ lưu sông Mekong (LMB) bao gồm 77 phần trăm của toàn bộ lưu vực và chiếm hơn bốn phần năm lượng nước chảy ra khỏi lưu vực mỗi năm. Nó bao gồm hơn 85 phần trăm lãnh thổ Lào và Campuchia, toàn bộ phần phía đông bắc của Thái Lan, và một phần phía nam của Việt Nam. LMB có một số tài nguyên quý giá tự nhiên của các giá trị có ý nghĩa kinh tế xã hội, môi trường và văn hóa, và một phần lớn dân số dựa vào các nguồn tài nguyên và dịch vụ mà con sông này cung cấp. Lưu vực bị hưởng mạnh bởi sự xói mòn và lắng đọng và các quá trình khí hậu và dòng sông khác.
3. Lượng mưa và chảy tràn. Khu vực hạ lưu sông Mê Kông có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa với mưa mùa lớn. Gió mùa đông bắc mang mang đến nhiệt độ thấp, ít mưa đến không mưa, trong khi đó gió mùa tây nam giữa tháng 5 và tháng 10 mang đến nhiệt độ cao hơn và mưa nhiều. Tổng lượng mưa trung bình là khoảng 475 km3 và dòng chảy mặt hàng năm trung bình dao động từ thấp 0-250 mm đến cao 1.751- 2.400 mm. Trong suốt mùa khô, dòng chảy ở những sông nhánh lớn giảm tới một phần nhỏ của mùa mưa và nhiều dòng suối nhỏ hoàn toàn khô cạn.Ở thượng lưu, dòng chảy từ Trung Quốc và Myanmar chiếm 18% tổng dòng chảy sông Mê Kông, với tỷ lệ cao hơn trong mùa khô, trong đó tuyết tan cũng góp phần đáng kể. Khoảng 2/3 dòng chảy( 63%) thuộc lãnh thổ Cộng hòa dân chủ nhận dân Lào và Campuchia, hầu hết từ các phụ lưu khởi nguồn trong các vùng đất cao. Việc quản lý các phụ lưu và các lưu vực của nó đóng vai trò then chốt trong quản lý khu vực hạ lưu sông Mê Kông.Trong hầu hết các phần của lưu vực, dòng chảy trong 3 tháng khô nhất chỉ chiếm ít hơn 10% so với tổng dòng chảy năm, trong khi dòng chảy trong 3 tháng mưa nhất tạo nên hơn 50% tổng lượng dòng chảy năm.Điều này giải thíchtrong suốt mùa mưa, 1 đến 4 triệu ha đất canh tác bị ngập, bao gồm cả Biển Hồ ở Campuchia. Việc vận hành các đập tại thượng nguồn Trung Quốc cũng như những đập khác được xây dựng trên dòng chảy chính này sẽ làm thay đổi đáng kể mô hình dòng chảy trên sông Mekong.
4. Dòng chảy mùa mưa. Sông Mekong cũng như các phụ lưu của nó có đặc điểm là dạng lưu lượng chảy thay đổi theo mùa lớn với dòng chảy đáng kể trong suốt mùa mưa do tuyết tan ở dãy Himalaya và những trận mưa mùa ở hạ lưu sông Mê kong. Lượng mưa lớn nhất vào khoảng hơn 2500 mm/năm tập trung ở vùng núi phía Tây của Cộng hòa dân chủ Lào và thấp nhất là nhỏ hơn 1000 mm/năm ở vùng trung tâm của Thái Lan trong lưu vực sông Mun-chi. Dạng địa lý cho thấy rõ nhất, đóng góp lớn nhất cho dòng chảy chính trong mùa hè bắt nguồn từ các sống nhánh bờ trái lớn ở Lào. Điều này điển hình xảy ra ra trong tháng 7, 8 và có liên quan đến sự hình thành giảm của các hệ thống áp thấp nhiệt đới gió mùa. Đỉnh thứ hai trong tháng 9 và tháng 10 một phần liên quan đến tác động của cơn bão nhiệt đới và bão di chuyển qua LMB từ Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông. Sự xuất hiện đỉnh của chúng xảy ra từ tháng 9 đến tháng 11, mặc dù đường di chuyển trung bình của bão có xu hướng di chuyển từ Bắc vào Nam khi mùa mữa diễn biến.
5. Dòng chảy mùa khô.Những dòng chảy trên các sông chính đều bị giảm chỉ bằng một phần nhỏ của dòng chảy mùa mưa và rất nhiều dòng suối nhỏ bị khô cạn. Dòng chảy mặt trung bình hàng năm khoảng 475 km3/năm, với tài nguyên nước sắn có tính theo đầu người là 8500 m3/người/năm, khá dồi dào so với các lưu vực sông khác trên thế giới. Ở thượng lưu của lưu vực, những dòng chảy từ Trung Quốc và Myama tạo thành khoảng 18% tổng dòng chảy của Mekong, với một tỷ lệ cao hơn trong suốt mùa khô, do tuyết tan góp phần đáng kể.Gần 2/3 dòng chảy( 63%) bắt nguồn từ Lào và Campuchia, hầu hết từ các nhánh bắt nguồn từ vùng đất cao. Việc quản lý các và lưu vực của chúng đóng vai trò then chốt trong quản lý khu vực hạ lưu sông Mê Kông.Trong hầu hết các phần của lưu vực, dòng chảy trong 3 tháng khô nhất chỉ chiếm ít hơn 10% so với tổng dòng chảy năm, trong khi dòng chảy trong 3 tháng mưa nhất tạo nên hơn 50% tổng lượng dòng chảy năm.Điều này giải thích trong suốt mùa mưa, 1 đến 4 triệu ha đồng bằng lũ bị ngập, bao gồm cả Biển Hồ ở Campuchia. Chế độ thuỷ văn không thay đổi lớn trong các giai đoạn luân phiên của dòng chảy cao và thấp đã tạo nên những mô hình sinh kế nông thôn cơ bản, đồng thời cũng tạo nên những vùng đất ướt và vùng cửa sông màu mỡ kết quả là một đa dạng sinh học có ý nghĩa và những nguồn thủy sản dồi dào hỗ trợ đời sống cộng đồng.
6. Có những khác biệt cơ bản trong cơ sở hạ tầng thủy lợi theo chiều dài của sông Mekong, và những phần rộng lớn của sông Mekong vẫn chưa được chỉnh trị.Trong khi các phụ lưu mà đổ vào Mekong từ đông bắc Thái Lan đã được phát triển hết tiềm năng và đồng bằng châu thổ sông Mekong ở Việt Nam đã có sự phát triển cơ sở hạ tầng ở quy mô lớn, thì Lào và Campuchia chỉ mới khai thác khoảng 1% tài nguyên nước hàng năm sông Mekong trong lãnh thổ. Ngoài ra, điều tiết mùa dòng chảy sông bằng trữ lại ở các đập nước từ lâu đã không đáng kể, chỉ chiếm 2 phần trăm của dòng chảy trung bình hàng năm.
7. Lũ lụt và hạn hán. Lũ lụt và hạn hán là vấn đề quan trong trong quản lý tài nguyên nước ở khu vực này. Lũ lụt là một phần của quy luật tự nhiên trên dòng Mekong. Ở phía Bắc và trong suốt mùa mưa, những dòng chảy lớn thường xuên gây ra những trân lũ quét trên các phụ lưu và dòng chảy chính. Ở hạ lưu, những dòng chảy lớn tạo nên dòng nước vật trong Biển Hồ của Campuchia và mở rộng diện tích của nó ra gấp bốn lần so với mùa khô. Ở phía xa hơn của hạ lưu, sông Mekong tràn lên các đồng bằng phẳng và làm ngập những khu vực lớn trong vài tháng. Lũ mang đến những nguồn lợi đáng kể cho cộng đồng, như hệ sinh thái phong phú của đông bằng lũ và đất ướt phụ thuộc vào quy luật hàng năm của lũ đến và lũ rút( xem bảng A1.1 cho nguyên nhân và các đặc điểm) Những thay đổi mực nước theo mùa trên các đồng bằng lũ trên sông Mekong đã thúc đẩy sự chỉ trú của các loài chim nước giữa các vùng đất ướtVào mùa khô, những vùng đầm ướt là thiết yếu duy trì nơi đẻ trứng cho cá ở trong đồng bằng ngập trong khi mùa mưa các đồng bằng này hoạt động như là nơi sinh đẻ nuôi dưỡng cho nhiều loài cá. Quan trọng là hệ sinh thái này cùng với những lợi ích mà nó mang lại đã mang lại thu nhập và sinh kế nông thôn MRC đã đánh giá thiệt hại hàng năm trung bình do lũ lụt ở hạ lưu sông Mekong là khoảng 60-70 triệu đô la Mỹ trong khi lợi ích hàng năm trung bình của nó là 8 – 10 tỷ USD. Việc cần thiết là thiết lập cách quản lý lũ để tận dụng các lợi ích của lũ, trong khi giảm thiểu các thiệt hại tài sản và chi phí liên quan.
(b) Dân số,dân tộc và di sản văn hóa
8. Khoảng 60 triệu người sống ở hạ lưu sông Mekong, theo báo cáo dân số quốc gia của 4 nước thuộc hạ lưu sông Mekong.Số liệu cập nhật cho thấy tổng dân số đã tăng khoảng 12% so với số liệu báo cáo năm 2003(55 triệu người) dù vẫn có sự chênh lệch giữa các nước.Dân số tăng 25% ở Campuchia, 6% ở Lào, giữ nguyên tại Thái Lan và tăng 10% tại Việt Nam.Tỷ lệ dân số và lãnh thổ bên trong lưu vưc là thay đổi theo các nước .Campuchia và Lào chiếm một diện tích lớn trên lưu vực nhưng chỉ chiếm 30% dân số lưu vực.Khoảng 85% dân số của lưu vực sống ở các vùng nông thôn. Nhìn chung, mật độ dân số thấp khoảng 124 người/km2 mặc dù con số này là khác nhau giữa các nước.Hơn 70 dân tộc sống ở vùng Mekong, hầu hết họ canh tác trên các vùng đất cao.
9 Người Thái Lan và Việt Nam có khoảng 60.000.000 chiếm 70 phần trăm với mật độ dân số tương ứng là khoảng 125 người /km2 và 265 người /km2.. Lào có diện tich đất lưu vực lớn nhất vơi một dân số rất nhỏ (8 %)Tuy nhiên, khoảng 72 % tổng dân số ở hạ lưu sông Mekong sống ở vùng nông thôn và hầu hết là nông dân, cuộc sống của họ dựa vào dòng Mekong và các phụ lưu của nó, bao gồm trồng trọt, đánh bắt cá, khai thác lâm sản. Các dân tộc thiểu số ở lưu vực sông Mekong thuộc các nước ở hạ lưu sông Mekong. Dân số của những tỉnh tiêu biểu ở Lào và Campuchia thuộc các dân tộc không đồng nhất, với gần 40% tổng dân số từ các dân tộc thiểu số. Đáng kể dân số Lào Tum (trung Lào), chủ yếu là dân tộc Macon, tìm thấy trong các vùng lũ Xe Bang Fai, trong khi phần lớn dân số là người Lào ở các làng chài ở Champasuk. LMB cũng giàu giá trị lịch sử và giá trị văn hóa, những địa danh nổi tiếng nhất gồm Ankor Wat ở Campuchia và Luang Phrabang ở Lào. Bảng A1.3: hiển thị các chỉ số phát triển kinh tế xã hội và ở hạ lưu sông Mekong.
II. Sử dụng nguồn nước và tiềm năng phát triển:
10. Nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành sử dụng nước chủ yếu của hạ lưu sông Mekong, nhờ vào mùa mưa và lũ tự nhiên của các vùng đất canh tác thấp.Ở các khu vực miền núi, rừng và hệ thống nông nghiệp quảng canh là sử dụng đất chính, mặc dù đã có sự mở rộng diện tích cây công nghiệp. Những vùng đất thấp ẩm ướt chủ yếu trồng lúa, lúa gạo đất thấp mùa mưa chiếm 84% ở Campuchia và Đông Bắc Thái Lan, 67% ở Lào(nơi lúa nương chiếm ưu thế hơn ) và 40%ở Việt Nam(hệ thống trồng lúa tưới đóng vai trò quan trọng). Lúa gạo tưới trong mùa khô hạn chế về quy mô do các dạng dòng chảy theo mùa của các dòng sông, nhưng tiềm năng của nó có thể tăng và tích nước sông thuông ngồn tăng các dòng chảy mùa khô.
11. Thủy điện. Khu vực hạ lưu sông Mekong đang trải qua thời kỳ phát triển then chốt.Sự phát triển liên tục và mạnh của nền kinh tế trong khu vực( tăng trưởng trung bình 8% trong suốt 5 năm gần đây) đã đặt ra những mối quan tâm trong việc sử dụng nguồn nước hiệu quả. Trong phát triển thủy điện nói riêng, chủ yếu là do khu vực tư nhân, được thúc đẩy bởi những yêu cầu và giá năng lượng cũng như yêu cầu cho an ninh năng lượng quốc gia.Ở 4 nước thuộc LMB: Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam khoảng 10 công trình thủy điện lớn đang xây dựng (> 10 MW) và gần 150 dự án thuộc ở các giai đoạn khác nhau lập kế hoạch/đề xuất, trong đó 11 công trình trên dòng Mekong chính.Ở Lào, 7 công trình thủy điện đang được xây dựng. Thêm vào đó, việc phát triển hệ thống tưới quy mô lớn, đặc biệt ở đông bắc Thái Lan và Campuchia cũng được lên kế hoạch để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, thị trường và an ninh lương thực. Giao thông thủy trên sông chính Mekong cũng tăng, đặc biêt ở hạ lưu của Phnom Penh và giữa Thái Lan- Trung Quốc do hoạt động kinh tế tập trung trong khu vực này.
12. Ở thượng nguồn sông Mekong, Trung Quốc đang hoàn thành bậc thang t thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong, dòng Lan Thương, bao gồm công trình thủy điện Tiểu Loan và các dự án thủy điện Nuozhadu ,trữ lượng nước 9900 và 12300 triệu m3 dung tích hoạt động. Hai công trình trên cùng với sự phát triển của các công trình và các dự án trên dòng chảy chính và các phụ lưu đã gây ra thay đổi đáng kể dòng chảy, phân phối lại dòng chảy theo mùa, mô hình dự đoán rằng dòng chảy mùa khô có thể sẽ tăng từ sự xả nước để phát điện , trong khi dòng chảy mùa mưa mà phần lớn nông nghiệp hiện đang phụ thuộc có thể bị giảm, đặc biệt là vào đầu mùa mưa khi những con đập được tái lấp đầy. Trung Quốc đang tăng cường đối thoại với 4 nước thuộc hạ lưu Mekong thông qua MRC và chia sẻ thông tin thủy văn thu được tại hai trạm thuỷ văn với MRC, trong khi cũng bày tỏ quan tâm trong hợp tác với MRC để phát triển các mô hình thủy văn xuyên biên giới.
III Những tác động của Biến đổi khí hậu đến dòng chảy
13. Biến đổi khí hậu cũng đặt ra một thách thức mới cho các nước ở hạ lưu sông Mekong. Khi những mô hình dự báo nhiệt độ nói chung tăng và dự báo về mưa ít chắc chắn. Tuy nhiên những hiện tượng thời tiết cực đoan, cả lũ lụt và hạn hán cũng trở nên thường xuyên hơn và ít dự đoán được.Lũ lụt và hạn hán gây ra nguy cơ nghèo đói cho cộng đồng, ví dụ ở những vùng đồng bằng ven biển, tác động chính tập trung vào sản xuất nông nghiệp do mực nước biển dâng và hậu quả của xâm nhập mặn.Việc dự báo khí hậu dài hạn là việc thiết yếu trong việc ra quyết định liên quan đến phát triển cơ sở hạ tầng, bao gồm cả thủy điện. MRC đã bắt đầu một phân tích khu vực về tác động của BĐKH đến thuỷ văn sông Mê Kông sử dụng phương pháp mô hình. Tuy nhiên dữ liệu hiện có và các hệ thống thu thập thông tin vẫn không đủ để nắm bắt sự phức tạp của lưu vực. Đồng thời, các nước ở LMB đã nhận ra cần phải nâng cấp hệ thống khí tượng thuỷ văn của mình để giải quyết các rủi ro gây ra bởi những hiện tượng thời tiết hiện tại và tương lai, chia sẻ thông tin giữa các nước ven sông, phát triển khu vực và cải thiện hệ thống quốc gia dự báo,cảnh báo lũ và hạn.
14. Những tác động tiềm tàng của các hoạt động thủy điện ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Đặc biệt chú ý đến các tác động thuỷ văn tiềm tàng của của bậc thang các đập thủy điện đang được xây dựng trên dòng chính ở Trung Quốc, trong đó, khi phát triển đầy đủ vào năm 2020, tổng dung tích hoạt động của các đập là 23 km3, tương đương với 30% khối lượng dòng chảy hàng năm đi vào LMB từ Vân Nam. Điều này có nghĩa rằng mức độ điều tiết (tỷ lệ của dòng chảy trung bình mùa lũ chuyển sang dòng chảy mùa kiệt) có thể cao tới 20%. Các hậu quả hạ lưu cho các chế độ dòng chảy thấp kiệt bị khuếch đại, vì một khối lượng không cân xứng của khu vực dòng chảy mùa khô được tạo ra ở Vân Nam. Theo hạ lưu xuông tới Kratie nó tạo nên tới 40 % của dòng chảy trong tháng 4. Ngược lại, trong mùa mưa tỷ lệ giảm đến 15%. Các ý nghĩa rõ ràng là có quy mô lớn sông quy định tại Vân Nam sẽ có một tác động đáng kể về chế độ dòng chảy thấp trên toàn hệ thống thấp hơn. Xây dựng mô hình thủy văn của các tác động của đập thủy điện ở tỉnh Vân Nam (15.800 MW) đã xác nhận một gia tăng đáng kể lưu lượng trung bình trong mùa thấp dòng chảy, trong khoảng 40 % ở trên tầng cao và khoảng 20 phần trăm như xa hạ lưu như Kratie. Sự giảm dòng chảy mùa lũ là tương ứng nay nhỏ hơn (khoảng 15 phần trăm ở trên tầng cao và ít hơn năm phần trăm tại Kratie (MRC 2009a). Những thay đổi thủy văn thay đổi thời gian của các dòng chảy bốn mùa, bao gồm cả thời gian của các dòng chảy ngược để Tonle Sap Great Lake, và ảnh hưởng đến khu vực bị ngập lụt cũng như mùa khu vực khô, đó là thông số quan trọng cho năng suất Biển Hồ, bao gồm sản xuất thuỷ sản.
IV. Những thay đổi tiềm tàng do phát triển thượng lưu lên đồng bằng châu thổ Mekong
15. Trong thời gian 2008-2010, MRCS tiến hành hai nghiên cứu (một là một phần của kế hoạch phát triển lưu vực (BDP) và một chương trình như một phần của chương trình phát triển thủy điện tập trung vào sự phát triển của các đập trên dòng chính) để đánh giá những tác động tiềm năng phát triển thủy điện trong Mekong lưu vực về thủy văn, thủy sản, và sinh thái của sông Mekong, bao gồm cả những người trong dòng chính tại Trung Quốc. Các nghiên cứu kết luận rằng những phát triển thủy điện mặc dù có thể mang lại lợi ích đáng kể cho các quốc gia như một toàn thể có thể tạo ra tác động đáng kể và không thể đảo ngược trên các hệ sinh thái sông Mekong và dân địa phương. Ngoài ra còn có một số nghiên cứu liên quan đến tác động của biến đổi khí hậu ở lưu vực sông Mekong trong đó sẽ tiếp tục thêm vào sự phức tạp của hệ thống. Nghiên cứu đánh giá tác động BDP tiềm năng dựa trên sự thay đổi trong thủy văn, chất lượng nước, và các khía cạnh quan trọng khác bằng cách sử dụng một số kịch bản và một phím được một thời gian ngắn có mặt tại mục 3.1 và tác động của biến đổi khí hậu cũng đã được hợp nhất. Do một số bất ổn và tác động bất lợi tiềm năng trong số 12 đập trên dòng chính đề xuất, Đánh giá môi trường chiến lược (SEA) nghiên cứu đề nghị cho sự chậm trễ trong việc đưa ra quyết định xây dựng các đập trên dòng chính trong 10 năm. Mặc dù tất cả những nỗ lực này, sự không chắc chắn về các mô hình dòng chảy trên sông Mekong sẽ rất cao. Dưới đây tóm tắt một số kết quả chính từ các nghiên cứu này chứng minh mức độ ảnh hưởng tiềm năng trên đồng bằng sông Cửu Long.
The BDP/MRC study assessed the potential impacts of various scenarios and the most important one are summarized below (see description in table levow):
Nghiên cứu của BDP,MRC đã đánh giá các tác động tiềm tàng của các kịch bản khác nhau và tác động quan trọng nhất được tóm tắt dưới đây ( xem mô tả trong bảng dưới đây):
Baseline Scenario: Use 2009 data regarding the water uses (irrigation, hydropower, etc.).
Kịch bản cơ bản : Sử dụng dữ liệu năm 2009liên quan đé sử dụng nước( thủy lợi, thủy điện…)
Definite Scenario (2015 DFS): Represents the baseline plus all the hydropower projects that will be in operations starting year 2015 in the low Mekong basin (LMB).
Kịch bản xác định( 2015 DFS): Thể hiện kịch bản cơ sở cộng với tất cả các dự án sẽ được vận hành năm bắt đầu 2015 ở hạ lưu sông Mê Kông(LMB)
20 Year Foreseeable Future Scenario (20Y FFS): Represent year 2030 scenario comprising the DFS plus additional development expected during the next 20 years.
Kích bản tương lai nhìn thấy trước 20 năm (20 FFS): Thể hiện kịch bản năm 2030 bao gồm kich bạn DFS cộng với các phát triển thêm dự kiến trong 20 năm nữa
20 Year FFS and Mainstream dams (FFS+MSD): Represent the 20Y FFS plus 11mainstream dams (river-run-off) along the Mekong flowing through Lao PDR, Thailand, and Cambodia.
20 Năm FFS và các đập trên dòng chính (FFS + MSD): Thể hiện kích bản 20Y FFS cộng với 11 đập trên dòng chính (dòng chảy tràn sông) dọc theo sông Mê Kông qua Lào Thái Lan, và Campuchia
Mekong delta flood management scenario: Represent a number of specific flood management schemes on either side of Cambodia-Vietnam border and does not involve irrigation, hydropower, and water supply demand upstream.
Kịch bản quản lý lũ đồng bằng sông Mê Kông : Thể hiện một số lượng cụ thể các kế hoạch quản lý lũ cụ thể ở hai bên biên giới Việt Nam- Campuchia
Kịch bản
Loại hình phát triển
Thủy lợi
Tưới
Nhu cầu nước
Kịch bản xác định(2015)
6 đập của Trung Quốc
40 đập ở các nhánh thuộc hạ lưu sông Mekong
4 triệu ha
2,938 triệu m3
20Y FFS (2030)
6 đập của Trung Quốc
70 đập ở các nhánh thuộc hạ lưu sông Mekong
6 triệu ha
4,581 triệu m3
20Y FFS với 11 đập trên dòng chính
6 đập của Trung Quốc
70 đập ở các nhánh thuộc hạ lưu sông Mekong
11 đập ở dòng chính của hạ lưu sông Mekong
6 triệu ha
4,581 triệu m3
Kịch bản quản lý lũ đồng bằng sông Cửu Long
* Campuchia: tập trung vào các vùng lũ trên phía Tây Basacc + đồng bằng lũ giữa Basacc và Cửu Long, và vùng lũ trên bờ trái của sông Cửu Long và phía nam của NR # 1.
* Việt Nam: tập trung vào Tứ giác Long Xuyên (LXQ), giữa Bassac và phía bắc sông Mekong của Vàm Nao, và Đồng Tháp Mười, phía bắc của kênh Nguyễn Văn Tiếp.
17. Kết quả đánh giá chỉ ra rằng kịch bản quản lý lũ lụt đồng bằng sông Cửu Long, các biện pháp giảm thiểu rủi ro cho đồng bằng sông Cửu Long đang được lên kế hoạch theo chương trình (FFMP) của MRC sẽ có tác động tích cực và tiêu cực, mức rủi ro đầu tư thấp. Tuy nhiên đối với vùng Tứ giác Long Xuyên (LXQ) tại Việt Nam việc mở rộng các kênh rạch hiện có để phù hợp với lũ lụt có thể sẽ hiệu quả hơn so với xây dựng một hệ thống kênh mới ra biển. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, cần thiết tìm ra sự cân bằng giữa bảo vệ các vùng sản xuất tập trung và bảo vệ các khu vực đô thị và / hoặc cộng đồng.
18. Tác động chính của sự phát triển ở thượng nguồn đối với đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu là do thay đổi tốc độ dòng chảy theo mùa, trầm tích và vận chuyển chất dinh dưỡng, thay đổi trong hệ sinh thái sông ở đồng bằng, bao gồm cả sự xâm nhập mặn. Giảm tải trầm tích và mối liên quan của nó đến dòng chảy chất dinh dưỡng là điều quan trọng đối với các vùng đồng bằng , nghề cá biển, có khả năng tạo ra thiệt hại đáng kể cho cả nông nghiệp và khai thác thủy sản biển, do đó có khả năng ảnh hưởng xấu đến sinh kế của ngư dân ở vùng đồng bằng. Giảm tải lắng cũng sẽ làm giảm tính ổn định của bờ sông cũng như khu vực ven biển trong một thời gian dài. Hầu hết các tác động sẽ xảy ra do kịch bản tương lai xác định (DFS) được cho là sẽ xảy ra vào năm 2015. Tác động bổ sung của khoảng 10% nói chung có thể được dự kiến từ Year 20 FFS. Thêm những tác động tiềm năng của 11 con đập dòng chính đề xuất Year 20 FFS sẽ tạo ra một số tác động tiêu cực dẫn đến sự tuyệt chủng của nhiều loài đang bị đe dọa. Kết hợp các tác động BĐKH sẽ tạo thêm một lớp phức tạp. Với một số bất định và rủi ro cao, SEA đề nghị chì hoãn trong 10 năm.
19. Dưới đây nêu bật một số tác động chính trên đồng bằng sông Cửu Long vào mùa mưa và dòng chảy mùa khô; bồi lắng và chất dinh dưỡng; biến động nước, xung lũ và vùng lũ lụt và mực nước cục bộ, chất lượng nước cục bộ, và sinh thái cục bộ ở hạ lưu do các kịch bản phát triển thượng nguồn. Tác động chính sẽ bao gồm:
Thay đổi về lưu lượng nước và dạng xâm nhập mặn: DFS sẽ tăng lưu lượng mùa khô 70% tại các trạm đầu nguồn và 10% ở đồng bằng sông MêKông và sẽ làm giảm lưu lượng mùa mưa 18% tại các trạm đầu nguồn và 2% tại Đồng bằng sông Cửu Long. Gia tăng dòng chảy mùa khô sẽ làm giảm mức độ xâm nhập mặn ở vùng đồng bằng và có thể có lợi về 272.000 ha đất nông nghiệp là khoảng 16% diện tích hiện nay bị ảnh hưởng bởi độ mặn. Các tác động thêm do 20 Yr FFS và 20 Yr FFS với các đập trên dòng chính sẽ t giảm thêm 1%. Tác động thêm vào dòng chảy do biến đổi khí hậu có thể thông qua sự xâm nhập mặn tăng lên do nước biển dâng. Nghiên cứu chi tiết hơn trong lĩnh vực này sẽ là cần thiết.
Thay đổi lũ : Các DFS sẽ thay đổi đáng kể xung lũ tự nhiên cũng như thời gian lũ, thời gian lũ lụt, và vùng lũ lụt. Thời gian cho dòng chảy chuyển tiếp từ ,mùa khô đến mùa mưa sẽ được thay đổi bằng cách bắt đầu từ 7-8 tuần sớm hơn tại Chiangsan và khoảng 1 tuần sớm hơntại Kratie. Thời gian lũ trong giai đoạn chuyển tiếp từ kiệt đến lũ sẽ giảm 2-4 tuần tại thượng nguồn Pakse và bởi 1 tuần ở vùng đồng bằng lũ Mê Kông. Khu vực ngập lụt sẽ được giảm hơn 15% ở Lào và Thái Lan và ít hơn 5% ở Campuchia và Việt Nam. Lũ lụt ở khu vực Tonle Sap sẽ vào khoảng 5-10% (500-600 km2) cũng như thay đổi xung lũ. Những thay đổi này sẽ có tác động đáng kể đến nghề cá và sinh thái ở đồng bằng sông Cửu Long bao gồm cả mô hình xâm nhập mặn.
Giảm bồi lắng và chất dinh dưỡng có liên quan . Tải SS được ước tính là khoảng 160-165.000.000 tấn / năm. Lên đến 50% số này sẽ được mang đi bởi các đập nước Trung Quốc và khu vực 3S. Với các đập chính một nửa số còn lại sẽ được loại bỏ để tải phù sa tại Kratie sẽ tăng 25% tải hiện nay (khoảng 42 triệu tấn / năm). Giảm chất rắn lơ lửng (SS) sẽ có tác động đáng kể đến việc vận chuyển các chất dinh dưỡng mà lầm màu mỡ 23,000-28,000 km2 đồng bằng lũ Campuchia và Việt Nam cũng như gây bất ổn cho các kênh sông và bờ biển của đồng bằng sông Mê Kông. Ước tính có khoảng 26.400 tấn / năm của các chất dinh dưỡng được cung cấp cho các vùng lũ đồng bằng sông Cửu Long và các tải phù sa lơ lửng dang mịn. Trong năm 2030, tải này sẽ được giảm 75% (25% do các đập trên dòng chính) hoặc 6.600 tấn / năm. Một ước tính an toàn cho rằng ít nhất 5.000 km2 diện tích nước ngọt đồng bằng sông Cửu Long dựa vào bồi qua bờ làm giàu đất nông nghiệp tiếp giáp với kênh và mạng lưới kênh rạch chính đồng bằng, đập chính sẽ giảm tải từ 4.000 tấn / năm đến 1.000 tấn / năm. Năng suất của thủy sản biển và ven biển cũng sẽ giảm do giảm các chất dinh dưỡng trong các phù sa. Giảm tải lượng lắng cũng sẽ tạo ra một tác động nghiêm trọng trong một thời gian dài. Tăng sự bất ổn định và sự xói mòn của các kênh ở vùng đồng bằng bao gồm cả kênh cù lao nơi đông dân cư và các khu vực màu mỡ nhất sẽ là có khả năng. Điều này sẽ làm tăng tần số để bảo trì nạo vét các công trình thủy lợi hiện có và đường thuỷ nội địa cũng như tăng xói mòn bờ biển và giảm lắng đọng trầm tích dọc theo bờ biển phía đông của đồng bằng. Điều này sẽ quay lạiảnh hưởng đến môi trường sống thủy sản ven biển và nuôi tôm ven biển.
Thay đổi về sinh thái đồng bằng, thủy sản, và tác động đến sinh kế địa phương: những tác động đáng kể về thủy sản và hệ sinh thái ở đồng bằng sông Cửu Long là dự đoán được. Điều này làm giảm đáng kể trong đánh bắt cá và chất lượng nước và sẽ ảnh hưởng đến khoảng 382.000 người theo DFS, 391.000 cho FFS mà không có đập trên dòng chính và 1,5 triệu với đập trên dòng chính.
Các tác động địa phương khác: Cũng sẽ có những tác động khác trực tiếp và gián tiếp đến chất lượng nước và cấp nước tuy nhiên chúng có khả năng được địa phương hóa. Mekong là một con sông lớn và thay đổi mực nước sẽ xảy ra trong quá trình chuyển đổi giữa mùa mưa và mùa khô, tức là nó không hiển thị bất kỳ thay đổi nhanh chóng trong mực nước trên cơ sở hàng ngày hoặc hàng giờ. Với vận hành hết của sáu đập của Trung Quốc, thay đổi mực nước có thể phụ thuộc nhiều hơn vào các quy tắc hoạt động. Có một đề nghị để xây dựng một đập điều tiết hạ lưu của sáu đập Trung Quốc để giảm thiểu hiệu ứng này, nhưng xây dựng chưa được bắt đầu. Thay đổi mực nước cục bộ trong một số đoạn cũng có thể được quan sát thấy do ảnh hưởng của liên lưu vực của một số đập trên phụ lưu . Thay đổi mực nước ở đồng bằng sông Cửu Long do sự phát triển ở thượng nguồn có khả năng là nhỏ.
Tăng dung tích trữ nước và các rủi ro sự kiệncực đoan: DFS sẽ cung cấp một dung tích bổ sung 22,9 BCM với dung tích hoạt động tổng cộng 13,7 BCM. Điều này sẽ làm tăng tổng dung tích hoạt động trên lưu vực sông Mekong lên 370% tương đương với khoảng 10% chảy mặt trung bình hàng năm. Những dung tích mới là cho sản xuất thuỷ điện và dong chảy sẽ được tiết theo nhu cầu về điện. Thay đổi này sẽ dẫn đến sự gia tăng dòng chảy mùa khô tuy nhiên số lượng và thời gian sẽ phụ thuộc vào các hoạt động tổng thể của các dự án này. Sự gia tăng dòng chảy mùa khô ở Kratie được ước tính là 19% trên trung bình và tháng ba 40% với mực nước dâng cao khoảng 0,8 m. Trong mùa mưa, nước xả sẽ được giảm bình quân 7%. Trong khi những thay đổi này có thể sẽ có lợi cho quốc gia nhưng nó cũng sẽ làm tăng nguy cơ các sự kiện cực đoạn đặc biệt là khi BĐKH và các sự kiện tự nhiên khác xảy ra. Các biện pháp phải được xây dựng để đảm bảo an toàn của các đập được giải quyết đầy đủ và theo dõi. Chuẩn bị kế hoạch khẩn cấp và các dịch vụ khẩn cấp khác, cơ chế phải được chuẩn bị trong khu vực có nguy cơ cao.
20. Các biện pháp giảm nhẹ: Để giảm thiểu những tác động tiềm năng, đặc biệt là nếu các đập trên dòng chính được xây dựng, SEA đề nghị các hành động sau đây cho Việt Nam:
Giám sát tác động một cách cẩn thận; Thiết lập các thể chế để thực hiện các biện pháp giảm thiểu; bảo đảm khoản tiền bồi thường từ các nhà phát triển để có biện pháp giảm nhẹ; chuyển dịch nền kinh tếnền kinh tế đồng bằng sông Cửu Long ra khỏi nông nghiệp và thuỷ sản; Phát triển các nguồn cung cấp thực phẩm ở một phần khác của đất nước để đảm bảo an ninh lương thực ; Kế hoạch đối phó với các tác động xã hội, nếu di dân ra khỏi vùng đồng bằng là cần thiết, đảm bảo hợp đồng mua năng lượng dài han ở mức giá thấp hơn so với phương án cung cấp năng lượng khác như điện từ dầu trong nước ($ 70/MWh), đảm bảo rằng không có đơn phương đình chỉ ngừng cung cấp năng lượng là kết quả từ sự thiếu hụt năng lượng trong nước tại nước xuất khẩu.
21. Tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu đối với các dòng chính.. Biến đổi khí hậu đưa thêm một lớp không chắc chắn trong lập kế hoạch dài hạn và những tác động có thể là cả tích cực và tiêu cực. Các hiện tượng cực đoan có khả năng xảy ra thường xuyên hơn với tác động khó lường hơn. Khả năng tăng của các sự kiện cực đoan sẽ làm tăng nguy cơ vỡ cho các đập thủy lực và các thành phần chính của chúng. Tác động quan trọng nhất của BĐKH đên các dự án trên dòng chính (i) sự gia tăng dòng chảy trong mùa mưa mang theo bùn cát làm tăng bồi lắng (ii), và tăng lưu lượng trung bình hàng năm trong khoảng từ 9-22% (tùy thuộc vào nghiên cứu khác nhau) trung bình hàng năm tính đến các đập trên dòng chính và phụ lưu UMB và LMB, và (iii) tằng tần suất, tỷ lệ và thời gian nước lũ cực đỉnh.
V. Những tác động xã hội tiềm tàng do biến đổi khí hậu
22. Việt Nam rất có khả năng chiu tác động lớn của biến đổi khí hậu do có bờ biển dài, phụ thuộc vào nông nghiệp, dân số nông thôn lớn(70%), trình độ phát triển ở vùng nông thôn thấp, vị trí của đô thị lớn nhất nằm thấp hơn mực nước biển( vd: thành phố Hồ Chí Minh). Việt Nam được coi là một trong 15 nước trên thế giới dễ gặp nguy hiểm bởi thiên tai như hạn hán và bão, tăng số lượng người và quy mô bị ảnh hưởng. Nhiệt độ có thể sẽ tăng từ 1,6 đến 2,80C ở các vùng khí hậu khác nhau. Nhiệt độ ở phía Bắc và Trung tâm phía Bắc sẽ tăng nhanh hơn vùng phía Nam. Việt Nam đã bắt đầu thấy các hệ quả: nhiệt độ trung bình mặt đất tăng 0,70C từ 1950; mùa lũ bão kéo dài hơn , hạn hán ở các vùng trước đây không bị tổn thương bởi khô hạn hiện trở nên đáng quan tâm, gia tăng các trận mưa lũ lớn và bão tấn công vào các vùng biển mới(Carew-Reid 2008; Hồ Long Phi năm 2008).
23. Vùng đồng bằng châu thổ sông Mêkong: Vùng châu thổ sông Mê Kông phải đối mặt với mối đe dọa của khí hậu do lũ và nước biển dâng. Có 4 triệu người nghèo của khu vực này. Họ thiếu nhiều các biện pháp chăm sóc sức khỏe cơ bản và tỷ lệ thất học cao. Với nhóm này, thậm chí chỉ một sự suy giảm nhỏ trong thu nhập hoặc mất việc làm do liên quan tới lũ lụt cũng gây hậu quả bất lợi cho dinh dưỡng, sức khỏe và giáo dục.Do vậy người nghèo đổi mặt với nguy cơ gấp đôi. Họ càng có khả năng sống trong những khu vực dễ bị tổn thương do lũ và họ ít có khả năng sống trong những ngôi nhà kiên cố. Đối với công việc hiện trường ở đồng bằng, tỉnh Bạc Liêu và thành phố Cần Thơ được chọn làm các điểm nghiên cứu.
VI. Những tác động xã hội tiềm tàng và những kiến nghị để xây dựng giải pháp
24. Những nghiên cứu khác nhau về CC kết luận rằng Châu thổ sông Mekong nằm giữa khu vực dễ bị tổn thương nhất phải chịu ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu dù những tác động ở các mức độ khác nhau được dự kiến xét trên những sử dụng xác định khác nhau. Một nghiên cứu gần đây về khía cạnh xã hội( Giải pháp kinh tế cho biến đổi khí hậu (EACC): Phần xã hôi( dự thảo 27/5/2010). Nghiên cứu này nhằm làm nổi bật cách những tổn thương đến biến đổi khí hậu mang tính khác biệt xã hội và những yếu tố cần thiết để tăng cường khả năng thích ứng của người nghèo và khu vực và làm thế nào chính phủ có thể hỗ trợ thích ứng để giải quyết các nhu cầu của những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất, trong khi tối đa hóa những lợi ích với mục tiêu phát triển. Ngoài ra, nghiên cứu thu hút sự chú ý đến biện pháp thích ứng "mềm" hay thể chế và chính sách cũng được đặt ra để bổ sung đầu tư cơ sở hạ tầng "cứng". Việt Nam là một trong năm quốc gia được nghiên cứu. Trong số những phát hiện quan trọng, những phát hiện liên quan nhất đến đồng bằng sông Cửu Long được tóm tắt dưới đây:
Tính dễ tổn thương với biến đổi khí hậu được phân biệt một cách xã hội và tiếp xúc với nguy cơ khí hậu sẽ gây ra rủi ro khác nhau cho các nhóm khác nhau. Những người dễ bị rủi ro khí hậu là những người đã có những tổn thương xã hội (người già, phụ nữ, trẻ em, người bệnh tật, người tàn tật); dân tộc thiểu số, người dân bản địa, người phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên cho cuộc sống của họ và người di cư. Người nghèo được xác định là đặc biệt dễ bị tổn thương, nhưng trong một số trường hợp nhóm người "giàu hơn"cũng chịu rất nhiều ảnh hưởng. Người nghèo phải chịu nhiều sức ép về điều kiện kinh tế và sinh hoạt. Phát hiện này làm nổi bật các nhóm đối tượng cần chú ý ưu tiên cho các biện pháp can thiệp thích ứng và phát triển để xây dựng khả năng phục hồi của địa phương.
Ưu đãi thích ứng địa phương được phân biệt mang tính xã hội và được đặt điều kiện bởi một loạt các yếu tố xã hội. Một quy mô phù hợp với tất cả các kế hoạch thích ứng không có tác dụng; cộng đồng khác nhau giữa các vùng khác nhau sẽ có những ý kiến khác nhau về cách thức để phù hợp mục tiêu phát triển của mình với thực tế của các tác động của biến đổi khí hậu trên các quỹ đạo phát triển. Những can thiệp do đó cần phải được thiết kế một cách thích hợp và liên ngành để giải quyết các rủi ro và lợi ích của việc lựa chọn thích ứng cho các bên liên quan khác nhau trên nhiều cấp.
Kinh nghiệm với các hiện tượng khí hậu cho đến nay và các biện pháp đối phó trước đây, giữ bài học quý giá cho tương lai, nhưng trong tương lai thích ứng đòi hỏi kiến thức mới và cải thiện cách đánh giá thông tin để giảm rủi ro. Quyết định đầu tư vào các biện pháp thích ứng khó có thể là "sự hối tiếc cao" trong điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu xem xét lại cẩn thận khi đầu tư vào "đầu tư mềm"như tăng cường hiểu biết và xây dựng khả năng đối phó(tức là đầu tư vào quản lý rủi ro thiên tai; phải có kế hoạch di tản hàng năm , cung cấp dữ liệu thời tiết cho chính quyền địa phương, v…v) có thể hiệu quả chi phí hơn xét tới mức độ bất định trong tương lai. Xét rằng các lựa chọn thích ứng thích hợp thay đổi đáng kể qua các vị trí, một sự kết hợp của các biện pháp cứng và mềm, nâng cao nhận thức và hợp tác giữa các cá nhân và cộng đồng có vai trò quan trọng.
Đa dạng hóa kế sinh nhai là điều cần thiết để quản lý rủi ro khí hậu, trong một số trường hợp, việc chuyển đổi sâu của các hoạt động sinh kế sẽ được yêu cầu. Đảm bảo cơ cấu xã hội, chính trị và kinh tế sẽ là cần thiết để hỗ trợ đầu tư khu vực cụ thể nhằm tăng cường khả năng thích ứng của các nhóm dễ bị tổn thương.
Những ưu đãi thích ứng của địa phương phần lớn là trùng hợp với kế hoạch và chiến lược thích ứng biến đổi khí hậu ở cấp quốc gia (ví dụ NAPAs ). Sự hỗ trợ rộng tồn tại ở các cấp địa phương cho các khu vực ưu tiên quốc gia như quản lý nguồn tài nguyên nông nghiệp và nước; quản lý đất đai; đường bộ; và các hệ thống cảnh báo sớm. Ngoài ra, các khoản đầu tư bổ sung trong quản lý, trật tự xã hội, đào tạo và giáo dục và quyền sử dụng đất được ủng hộ mạnh mẽ ở các cấp địa phương.
25. Những kiến nghị quan trọng về chính sách gồm:
Kết hợp các khoản đầu tư vào các biện pháp thích ứng cứng và mềm để đáp ứng nhu cầu của những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất , liên quan đến thủy lợi và đường nông thôn;
Kết hợp kiến thức địa phương và cách thực hành tốt nhất để có thể cung cấp những hiểu biết về cách để đạt được một mục tiêu lâu dài mà không làm tăng tính dễ tổn thương;
Tiếp cận dễ dàng hơn với thông tin, thiết lập ngân sách và lập kế hoach cần thiết trên nhiều cấp để thúc đẩy đầu tư thích ứng bền vững mang tính xã hội và giảm khả năng xung đột. Điều này bao gồm cải thiện cách nhận thức thông tin của người dân, lập kế hoạch và chính sách; cải thiện sự phối hợp giữa các tổ chức trên quy mô cả chiều dọc và chiều ngang; và cung cấp các hệ thống cảnh báo sớm và công nghệ dự báo khí hậu tốt hơn
Sự can thiệp chính sách xã hội bao gồm cả trật tự xã hội và giáo dục, đào tạo là cần thiết để giúp giảm căng thẳng và stress đến các hộ gia đình từ sự dao động và thay đổi của khí hậu và đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ cuộc sống. Các chương trình cần phải nhắm vào người nghèo nhất và bị thiệt thòi nhất, và hỗ trợ phục hồi.
Những can thiệp thích ứng chỉ ra những lợi ích với phát triển bền vững cần được duy trì. Chính sách không nên chỉ tập trung vào thích ứng biến đổi khí hậu mà còn đưa ra cách điều chỉnh cơ bản những điểm yếu bao gồm thiếu cơ sở hạ tầng, quản trị kém, chênh lệch đầu tư vào các khu vực và sự cần thiết các thẻ chể quản lý tài nguyên linh hoạt và một môi trường làm ăn được đảm bảo . Như vậy các tuy chọn không hối tiếc có thể được thực hiện ngay bây giờ và sẽ cải thiện đời sống, ngay cả trong trường hợp không có BĐKH.
Các vấn đề quản lý. Cải thiện chính sách biến đổi khí hậu sẽ đòi hỏi hành động mà hỗ trợ sự ra quyết định có sự tham gia và toàn diện; minh bạch giữa các bên liên quan; trách nhiệm về các quyết định đã tạo ra; năng lực để bảo đảm thực hiện và cưỡng chế thi hành quyết định; hội nhập và sự gắn kết của các chính sách giữa các ngành và cấp; và truyền thông và tham vấn với dân dễ bị tổn thương. Một nhà nước mạnh mẽ sẽ giải quyết sự dễ bị tổn thương bằng cách thiết kế, thực hiện và thực thi chính sách phát triển bền vững. Điều này bao gồm chuyển dịch chính sách vào các ưu đãi và cơ hội trong khi sử dụng sự không ưu đãi để không khuyến khích đầu tư mà có thể kéo dài tính dễ bị tổn thương trong dài hạn
Phát triển các biện pháp can thiệp thích ứng thông qua một quá trình có sự tham gia và bao gồm các bên liên quan giúp đảm bảo rằng hành động khí hậu hỗ trợ các chương trình phát triển rộng lớn hơn. Tăng cường chính sách xã hội , bằng cách sử dụng các cấu trúc phân cấp, tham gia các cơ quan truyền thống và địa phương trong việc lập kế hoạch, và sử dụng các nền tảng hiện có để cộng đồng tham gia là rất quan trọng để giúp đảm bảo người sử dụng gắn với đánh giá nhu cầu, lựa chọn đầu tư, và đánh giá cung cấp dịch vụ.
Sử dụng các phương pháp tiếp cận đa nghành mục tiêu địa lý cho các khu vực dễ bị tổn thương. Đói nghèo và nhạy cảm với mối nguy hiểm liên quan đến khí hậu đang ngày càng tập trung ở các khu vực cụ thể trong nước. Thích ứng chính sách ở cấp quốc gia phải tính đến các thiết lập phát triển kinh tế-sinh thái đa dạng trong nước, và đưa ra can thiệp khu vực cụ thể mà có thể hỗ trợ sinh kế của các quần thể dễ bị tổn thương này, những người thường dựa vào sinh kế duy nhất (như chăn thả hoặc thuỷ sản) và / hoặc tạo thành một nhóm xã hội (ví dụ, dân tộc thiểu số). Can thiệp đa ngành nhằm cải thiện khả năng phục hồi khu vực thông qua việc giảm thâm hụt ngân sách phát triển là hình thức đầu tư đặc biệt hiệu quả , bao gồm cả chương trình trong giáo dục, bảo vệ xã hội và y tế, đường giao thông, dịch vụ thị trường, quản lý tài nguyên thiên nhiên, và đào tạo kỹ năng.
Đảm bảo chính sách cần quan tâm cùng với các can thiệp ngành cụ thể (ví dụ như chính sách đất đai, phân cấp, quản lý tài nguyên thiên nhiên, công nghệ). Danh mục đầu tư thích ứng BĐKH trong nước có thể không chỉ là những đầu tư độc lập về cơ sở hạ tầng và dịch vụ, nhưng cũng đòi hỏi sự quan tâm để hỗ trợ đảm bảo các chính sách môi trường, lồng ghép các mối quan tâm về khí hậu trong khuôn khổ ngành cụ thể (ví dụ như, trong chính sách đất đai, phân cấp, và chính sách công nghệ) . Nếu không có những yếu tố này hỗ trợ, người lập kế hoạch vô tình có thể hỗ trợ "không thích nghi", đó là không thể có hiệu quả hỗ trợ phục hồi khí hậu bền vững
26. Đối với Việt Nam, các tác động khí hậu dự báo đến năm 2100 sẽ có khả năng tăng lượng mưa trong mùa mưa và giảm lượng mưa trong mùa khô khoảng 10% trở lên; tăng cường độ và tần suất của các cơn bão và lũ lụt, và mực nước biển sẽ tăng ít nhất 1 mét (Chính phủ Việt Nam năm 2008). Các khu vực khác nhau là Việt Nam có thể có tác động khí hậu làm cho chính sách một quốc gia duy nhất để thích ứng trở lên khó khăn. Tác động BĐKH ở vào khoảng giữa các xu hướng biến đổi đang diễn ra có thể làm tăng tính dễ tổn thương. Chúng bao gồm thiệt hại rộng lớn của rừng ngập mặn để nuôi tôm xuất khẩu toàn cầu, suy giảm đa dạng cây trồng nông nghiệp; sinh kế hộ gia đình đang trở nên ít đa dạng; tư nhân hóa tài nguyên thiên nhiên phổ biến; và xói mòn an toàn xã hội công cộng. Hướng phát triển hiện tại có khả năng xung đột với những thực tế của biến đổi khí hậu toàn cầu, cản trở sự phát triển hiện tại và giảm nghèo. Đối với tính dễ bị tổn thương với các cơn bão và bão , các mô hình khí hậu khu vực cho thấy bão có thể tiếp tục chạy xa hơn về phía nam theo các kịch bản sự ấm lên toàn cầu. Hơn nữa, mùa của những cơn bão có thể sẽ mở rộng, có nghĩa là khu vực đã không thường bị bão (phần phía đông nam của đất nước và TP HCM) có thể trở nên ngày càng dễ bị tổn thương.
27. Tất cả các khu vực của Việt Nam được dự đoán là thay đổi lượng mưa , nhưng những tác động mạnh nhất có thể sẽ là tăng lượng mưa trong mùa mưa, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long, và lượng mưa giảm trong mùa khô Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Có như vậy sẽ được mở rộng chiều sâu của vùng lũ, đặc biệt vào các khu vực mới hơn của phần phía nam của đồng bằng. Đối với hạn hán, giảm lượng mưa trong mùa khô sẽ gây áp lực tăng trên Tây Nguyên, Trung Bộ, và Mekong Delta.Vietnam có thể là một trong 5 nước hàng đầu trên thế giới có thể bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mực nước biển dâng (SLR ), với những hậu quả "thảm họa tiềm tàng" (Dasgupta et al 2007). Một đánh giá gần đây của một tăng 1 mét nước biển khẳng định rằng 5% diện tích đất của quốc gia sẽ là "vĩnh viễn ngập nước, ảnh hưởng đến 6 trong 8 vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam và 39 của 64 tỉnh, với khoảng 8% tổng dân số bị ảnh hưởng. 2.000 xã cá thể (từ tổng số 10.000) được xác định là có nguy cơ ngập lụt một phần hoặc toàn bộ từ nước biển dâng. Những tác động lớn nhất sẽ được cảm nhận ở Đồng bằng sông Cửu Long và TP Hồ Chí Minh, với Long An và Kiên Giang có đất ngập nhất (lên đến 50%). 43% của thành phố Hồ Chí Minh có nguy cơ ngập lụt, và nhiều người nghèo đã được xác định là sống ở những khu ngập lụt (Carew-Reid 2009). Mực nước biển tăng có thể sẽ còn tăng độ mặn của tầng nước ngầm nông ven biển, từ nơi đó nhiều nước uống khai thác. Nó cũng sẽ làm trầm trọng thêm xói mòn bờ biển và sụt lún đất đô thị.
28. Bản đồ dưới đây cho thấy vị trí của khu vực nghiên cứu và các tác động tiềm tàng do thay đổi khí hậu.
Các dự án thuỷ điện được đề xuất/lập kế hoạch, đang xây dựng, tồn tại ở hạ lưu sông Mê Kông,tháng 9 2008
Bản đồ địa lý của các hiểm hoạ ảnh hưởng khí hậu chính tại Việt Nam
Lũ
Bão nhiệt đơi
Lũ quét
Sóng dềnh
Không trên bản đồ
-Hạn
-Xâm nhập mặn
-Cháy rừng
-Xói bờ biển và bờ sông
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những tác động tiềm tàng dự án quản lý thủy lợi phục vụ phát triển nông thôn.doc