Những đặc điểm cơ bản của màng tế bào
1.1 Lịch sử nghiên cứu màng tế bào
- Năm 1655, Robert Hooke là người đầu tiên
đưa ra khái niệm tế bào. Ông cho rằng tế bào
là những khoang nhỏ trong đó có chứa đầy đủ
các bào quan đảm bảo cho sự sống của một tế
bào và cơ thể.
- Năm 1674, Anthoni Van Leeuwenhoek đã chế
ra một chiếc kính hiển vi quan sát thấy nút
bấc có nhiều hình nhất định, cũng như thấy
nhiều loại tế bào nguyên sinh động vật, có
loại chuyển động nhanh. Ông quan sát thấy
các vi sinh vật nhỏ bé, thậm chí cả hồng cầu
và đưa ra khái niệm về cơ thể loại đơn bào và
cơ thể loại đa bào và về sau Schleiden và Theo
Dor Schwan (1835 - 1839) đưa ra khái niệm
về tế bào và mô (tissue) là gồm nhiều tế bào
cùng chức năng kết hợp. Các mô có sự biệt
hoá chịu trách nhiệm riêng nhưng đều chứa
nhiều tế bào. Tế bào dù đơn bào hay đa bào
vẫn có một màng để ngăn cách tế bào với môi
trường xung quanh
24 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 5406 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những đặc điểm cơ bản của màng tế bào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1
Những đặc điểm cơ bản của màng tế bào
1.1 Lịch sử nghiên cứu màng tế bào
- Năm 1655, Robert Hooke là người đầu tiên
đưa ra khái niệm tế bào. Ông cho rằng tế bào
là những khoang nhỏ trong đó có chứa đầy đủ
các bào quan đảm bảo cho sự sống của một tế
bào và cơ thể.
- Năm 1674, Anthoni Van Leeuwenhoek đã chế
ra một chiếc kính hiển vi quan sát thấy nút
bấc có nhiều hình nhất định, cũng như thấy
nhiều loại tế bào nguyên sinh động vật, có
loại chuyển động nhanh. Ông quan sát thấy
các vi sinh vật nhỏ bé, thậm chí cả hồng cầu
và đưa ra khái niệm về cơ thể loại đơn bào và
cơ thể loại đa bào và về sau Schleiden và Theo
Dor Schwan (1835 - 1839) đưa ra khái niệm
về tế bào và mô (tissue) là gồm nhiều tế bào
cùng chức năng kết hợp. Các mô có sự biệt
hoá chịu trách nhiệm riêng nhưng đều chứa
nhiều tế bào. Tế bào dù đơn bào hay đa bào
vẫn có một màng để ngăn cách tế bào với môi
trường xung quanh.
- Từ 1880, tức là hơn 200 năm sau quan niệm của
Robert Hooke việc nghiên cứu tế
bào mới trở nên phổ biến hơn.
- Nageli quan sát thấy khả năng di chuyển của
vật chất qua màng tế bào sống rất khó khăn
nhưng ở những tế bào bị chết hoặc bị tổn
thương, các chất ở môi trường dễ dàng xâm
nhập vào tế bào. Do đó, nhờ có tính thấm
chọn lọc của lớp màng bảo vệ đặc biệt, tế bào
có thể duy trì cân bằng cho hoạt động sống.
Trong các năm cuối thế kỷ XIX, Pfefer đã tiến
hành thí nghiệm đo sự thẩm thấu của màng tế bào
và đưa ra hai kết luận quan trọng:
+ Tế bào được bao bởi một lớp màng đặc
biệt gọi là màng sinh chất (cytoplasmic
membrane).
+ Màng này là hàng rào vạn năng chỉ cho nước
đi qua trong khi các chất điện ly, muối khoáng và
các chất tan đi qua một cách chọn lọc và khó khăn.
- Năm 1889, Overton nhận thấy tốc độ di chuyển
những chất không phân cực (dung môi hữu cơ) đi
qua màng rất dễ còn các chất phân cực đi qua khó,
nên ông cho rằng màng có bản chất là lipid.
Từ 1925 – 1930 nhiều nhà khoa học Anh, Đức,
đặc biệt Danielle và Davson (1935); Gorter và
Grindel cho biết màng được cấu tạo bằng lipid
nhưng là lớp lipid kép. Lớp lipid kép này có bề dày
nhất định, khoảng vài chục đến hàng trăm nanomet.
Từ những năm 1940 – 1960 khi kính hiển vi điện
tử xuất hiện và ngày càng được hoàn thiện người
ta đã tìm ra cấu trúc của màng với chiều dày của
nó bao gồm lớp kép phân tử lipid có bề dày khoảng
từ 60 – 100 nanomet (nm) (hình 1.1).
Robertson (1959) đưa ra khái niệm về mô hình
“màng đơn vị” bao gồm hai lớp phân tử lipid luôn
bao quanh các tế bào, khi ông nghiên cứu siêu cấu
trúc hiển vi điện tử của màng tế bào. Như vậy, tất
cả các tế bào được bao bởi một màng đơn vị. Sau
khi nghiên cứu các bào
3
quan, người ta thấy chúng cũng được bao bọc bởi
một lớp màng đơn vị hoặc được bao bởi nhiều lớp
màng đơn vị, ví dụ như ty thể, lục lạp, thậm chí sợi
trục tế bào thần kinh được bao bọc bởi nhiều màng
đơn vị. Nhân được bao bởi hai lớp màng đơn vị,
trên màng nhân có những lỗ nhỏ để trao đổi vật
chất và thông tin di truyền. Tuy nhiên, mô hình của
Robertson không cho thấy rõ chức năng vận chuyển
các phân tử ưa nước qua màng, không cho biết rõ
thành phần protein tương tác với lớp lipid kép của
màng.
Từ những năm 1960 – 1970, việc nghiên cứu
màng tế bào đã đạt được nhiều tiến bộ về quan
niệm cả lý thuyết lẫn thực hành. Về lý thuyết đã có
những tiến bộ về quan niệm nhiệt động học đối với
chức năng vận chuyển qua màng, được thiết lập
bằng mối quan hệ giữa dòng các chất hoà tan và
năng lượng tự do. Về thực nghiệm, các nghiên cứu
hoá sinh về cấu trúc lipid màng đã đạt nhiều tiến
bộ. Lipid màng tế bào động vật chủ yếu bao gồm
các hợp chất: phospholipid, sphingolipid và
cholesterol. Riêng màng vi khuẩn và tế bào thực vật
chủ yếu gồm phosphoglycerid (riêng màng lục
lạp chứa galactosylglycerid, không chứa
cholesterol). Một mốc quan trọng về nghiên cứu cấu
trúc màng là từ 1972 cho đến nay, một mô hình
màng hoàn thiện đã được Singer và Nicolson nêu ra.
Đó là mô hình màng khảm lỏng (fluid mosaic
membrane) (hình 1.2).
Bằng nhiều thí nghiệm và các nghiên cứu hiển vi
điện tử, mô hình màng khảm lỏng đã được chứng
minh, đặc biệt là nhờ kỹ thuật “Bẻ vỡ lạnh”
(freeze – fracture) tiến bộ của Branton. Thêm vào
đó các nghiên cứu của Bretsher đã chứng minh rõ
ràng màng sinh chất chứa các loại phân tử protein
xuyên qua màng lipid kép.
1.1.1 Các đặc điểm chung biểu hiện tính đa
dạng và tính bất đối xứng của màng sinh học
Các màng sinh học rất da dạng về thành phần,
cấu trúc cũng như chức năng tuỳ vào loại tế bào và
loại sinh vật và tuỳ thuộc vào sự khác nhau của các
kiểu bào quan. Tuy nhiên, chúng giống nhau ở một
số thuộc tính quan trọng sau:
Màng có cấu trúc dạng bản, chỉ dày cỡ vài phân
tử, hình thành nên các ranh giới khép kín giữa các
khoang khác nhau. Độ dày của hầu hết các màng
đơn vị sinh chất nằm trong khoảng
60nm –
100nm.
Màng bao gồm chủ yếu các lipid và các protein.
Tỷ lệ về khối lượng của chúng tương ứng khoảng
từ 1: 4 đến 4 : 1. Các màng cũng chứa các
hydratcarbon được liên kết với các phân tử lipid và
protein.
Các lipid màng là những phân tử tương đối nhỏ,
có một nửa ưa nước và một nửa kỵ nước. Những
lipid này sẽ hình thành tức thì các tấm lipid kép
(lipid bilayer) trong môi trường nước. Những lớp
kép lipid này là hàng rào ngăn cản các phân tử phân
cực vượt qua.
Các protein đặc hiệu tạo nên các chức năng
chuyên biệt của màng. Các protein đóng vai trò là
các bơm, kênh, thụ thể, các bộ máy chuyển đổi
năng lượng và các enzym. Các protein màng được
gắn vào lớp lipid kép, tạo ra môi trường thích hợp
cho hoạt động của chúng.
Màng được cấu thành bởi các cấu tử không liên
kết cộng hoá trị với nhau. Thành phần protein và
các phân tử lipid được néo vào nhau bởi nhiều tương
tác không cộng hoá trị, chúng mang tính hợp tác. Đó
là tương tác kị nước, tương tác ion, liên kết hyđro,
lực Vandecvan.
Màng không đối xứng, hai bề mặt của một màng
sinh chất thường khác nhau về thành phần và tính
chất của các phân tử lipid và protein.
4
Màng là các cấu trúc lỏng. Các phân tử lipid
khuếch tán nhanh chóng trong mặt phẳng của màng,
và các protein cũng vậy, trừ khi chúng bị neo bởi
các tương tác đặc hiệu. Ngược lại, đôi khi chúng
cũng có thể quay ngược lại qua màng. Màng có thể
được coi là dung dịch hai chiều của các protein và
lipid có định hướng.
Hầu hết các màng đều phân cực về điện, với phía
trong màng tích điện âm (thường là -
60mV). Điện thế màng đóng vai trò rất quan trọng
trong việc vận chuyển, chuyển hoá năng lượng, và
đặc tính dễ bị kích thích.
1.1.2 Chức năng chung của màng tế bào
1. Duy trì hình dạng tế bào, che chắn và bảo vệ tế bào.
2. Tham gia vào quá trình phân chia tế bào. Cụ
thể màng tế bào được nối với các nhiễm sắc thể
tham gia vào phân chia tế bào.
3. Tham gia vào phản ứng kết dính, màng tế bào
có vai trò nhận biết và thực hiện chức năng tương
tác giữa các tế bào.
4. Chức năng enzym: Sự xúc tác của các enzym
trong hệ thống enzym gắn mỏ neo vào màng (màng
ti thể, màng lục lạp). Tạo ra năng lượng sinh học,
các phản ứng năng lượng trên màng và truyền năng
lượng (màng ti thể, màng lục lạp).
5. Tham gia truyền tín hiệu quang hoá và tín
hiệu điều hoà trao đổi chất (màng tế bào võng mạc
truyền tín hiệu photon trong cơ chế nhìn, màng tế
bào gan truyền tín hiệu thông tin thứ nhất (hormon
adrenalin, insulin) qua AMP vòng và protein G tác
động đến điều hoà trao đổi đường trong máu.
6. Giám sát đáp ứng miễn dịch. Trên bề mặt
màng có vô số thụ thể và các phân tử biệt hóa (CD)
có chức năng nhận biết và kiểm soát miễn dịch.
7. Vận chuyển các phân tử nhỏ và phân tử lớn qua
màng.
- Vận chuyển đại phân tử Protein, lipid, axít
nucleic, cấu trúc trên phân tử như vi khuẩn và virus
bằng các cơ chế nuốt và nhập bào.
- Vận chuyển các ion qua màng (K+, Na+, Ca2+)
bằng cơ chế bơm ion.
8. Truyền tín hiệu giữa các tế bào và tương tác
giữa các tế bào như tín hiệu đáp ứng miễn dịch: Sự
trình diện kháng nguyên, sự hoạt hoá và biệt hoá tế
bào bằng các Cytokin v.v…
1.2 Mô hình cấu trúc màng sinh học
Màng sinh học có cấu trúc bao quanh tế bào và
các bào quan. Màng không những giúp cho các bào
quan cũng như tế bào có một hình dạng nhất định,
hình thành một hệ thống hoạt động riêng biệt mà
màng còn là nơi thực hiện quá trình trao đổi vật
chất, thông tin giữa môi trường bên trong và môi
trường bên ngoài, giúp cho các tế bào và bào quan
có thể tồn tại và phát triển.
Cấu trúc màng sinh học là một nội dung được
nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu. Cho
đến nay đã có rất nhiều mô hình được đưa ra, tuy
nhiên có hai mô hình được nhắc đến nhiều nhất đó
là mô hình của Davson-Danielli và mô hình
khảm lỏng của Singer- Nicolson.
5
1.2.1 Mô hình Davson-Danielli
Theo mô hình này, màng sinh học là một lớp
kép các phân tử lipid liên tục với các protein ở lớp
bề mặt của cả hai mặt trong và ngoài giữ cho các
phân tử lipid có sự phân bố bền vững hơn. Để giải
thích cho tính thấm của màng, các tác giả mô hình
này cho rằng trên
o
màng có các kênh được lót bởi protein (còn gọi
là các lỗ) có kích thước khoảng 1 A
các chất thấm qua (hình 1.1).
để cho
Hình 1.1.
Mô hình cấu trúc màng sinh chất của Davson –
Danielli (1935)
Tiếp theo, dựa vào các nghiên cứu bằng hiển vi
điện tử Robertson (1960) đã đưa ra khái niệm về
“màng đơn vị” và đưa ra mô hình màng đơn vị.
Theo mô hình này, tất cả màng sinh học bao quanh
tế bào và các lớp màng bao quanh bào quan, màng
neuron thần kinh (myelin) đều biểu hiện ba vùng
sáng tối dưới kính hiển vi điện tử (trilaminar) có cấu
trúc gồm hai lớp phân tử lipid phủ bên ngoài bằng
các phân tử protein (hình 1.2).
Cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật,
đặc biệt là những bước tiến về kỹ thuật hiển vi điện
tử, người ta nhận thấy mô hình cấu trúc màng đơn
giản này không giải thích được nhiều tính chất của
màng và cũng không phù hợp với những kết quả
nghiên cứu bằng những kỹ thuật tiên tiến sau này.
Rõ ràng màng sinh học với nhiều chức năng quan
trọng không thể có một cấu trúc cứng nhắc như vậy.
Chính vì thế hiện nay hầu hết mọi người đều đồng ý
với mô hình cấu trúc mới - mô hình khảm lỏng của
Singer-Nicolson (1972) (hình 1.3).
1.2.2 Mô hình khảm lỏng của Singer-Nicolson
Mô hình khảm lỏng được S. Jonathan Singer và
Garth Nicolson đưa ra năm 1972. Theo mô hình
này, khung của màng vẫn là lớp kép các phân tử
lipid có các đầu phân cực hướng về bên ngoài và
đuôi không phân cực hướng vào trong. Tuy nhiên,
các phân tử phospholipid có thể di động tự do với
điều kiện giữ nguyên hướng phân bố trong một nửa
lớp kép của chúng. Cholesterol sẽ hạn chế ở một
mức độ nhất định sự di chuyển của phospholipid và
do đó có chiều hướng tạo sự ổn định cho cấu trúc
màng. Protein (cả dạng cầu và dạng sợi) sẽ phân bố
không đồng đều trong cấu trúc kép lipid đó. Một số
protein xuyên qua màng, một số khác bám cố định
vào màng ở một nửa của lớp kép hoặc chỉ bám vào
bề mặt màng tuỳ vào chức năng của chúng
(hình1.3). Mô hình cấu trúc này giải thích được
nhiều tính chất của màng và rất phù hợp với tính
linh động của một cấu trúc sinh học. Chính vì vậy,
đây là mô hình phổ biến nhất hiện nay.
6
Hình 1.2
Cấu trúc ba lá (trilaminar) của màng sinh chất
của tế bào rễ đậu
được quan sát bằng kính hiển vi điện tử (theo
Newcomb, 1983)
Hình 1.3.
Mô hình màng khảm lỏng của Sanger và Nicolson
(1972)
Tóm tắt chương 1
Màng tế bào là một khái niệm lý thuyết đã xuất
hiện vào giữa thế kỷ 19 (1935) nhưng về cơ sở tế
bào học đã được nêu ra từ thế kỷ thứ 17 (Robert
Hook, 1655) và sau đó là quan sát bằng hiển vi
quang học của A.Van Leeuwen Hoek (1674).
Màng tế bào có đặc tính thấm chọn lọc, có bản
chất hóa học. Lipid và protein liên kết với nhau theo
các tỷ lệ khác nhau, hình thành một lớp mỏng lipid
kép có cấu trúc bất đối xứng cả về thành phần cấu
tạo và cách sắp xếp các phân tử lipid và protein.
Mô hình cấu trúc về màng sinh chất tế bào đã
được nghiên cứu từ đầu thế kỷ 20, được nêu ra lần
lượt đáng chú ý là Gorter, Greden với lớp lipid kép
đơn giản (1925), tiếp theo là
7
Danielli-Davson (1935) với lớp lipid kép gắn thêm
các phân tử protein, sau đó là Robertson (1960) và
cuối cùng hoàn thiện hơn cả là mô hình màng khảm
lỏng của Singer và Nicolson (1972). Tám chức năng
chung của màng nói lên vai trò rất quan trọng của
màng trong hoạt động sống của tế bào và của cơ thể.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những đặc điểm cơ bản của màng tế bào.pdf