Hoạt động của các đoàn thể là một yếu tố
quan trọng gắn kết các thành viên trong cộng
đồng. Nhìn chung việc đánh giá mức độ tham
gia các hoạt động chính trị - xã hội của các cá
nhân cũng như so sánh sự biến đổi trong việc
tham gia của họ vào các hoạt động này là điều
không dễ dàng. Lý do không phải ai cũng có
cơ hội, điều kiện hoặc mong muốn tham gia.
Có những đoàn thể bị giới hạn bởi mục đích,
tiêu chí hoạt động căn cứ theo nhóm tuổi, giới
tính, nghề nghiệp, của cá nhân. Sự đánh giá
ở trên chỉ mang tính chung nhất. Tuy vậy
cũng cho thấy được sự biến đổi ở mặt con số
thống kê. Hiện nay người dân có xu hướng
tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng –
xã hội, mặc dù sự biến đổi diễn ra không
đồng đều ở các nhóm, các khu vực và đa số
NTL tham gia ít nhất 1 Hội/đoàn thể ở thời
điểm hiện tại (66,9%).
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 266 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những chiều cạnh biến đổi sinh hoạt cộng đồng – xã hội trong thời kỳ đổi mới (Qua khảo sát tại 6 tỉnh/thành phố là Yên Bái, Hà Nội, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Tháp), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạ Thị Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 51 - 56
51
NHỮNG CHIỀU CẠNH BIẾN ĐỔI SINH HOẠT CỘNG ĐỒNG – XÃ HỘI
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(Qua khảo sát tại 6 tỉnh/thành phố là Yên Bái, Hà Nội, Hà Tĩnh, Đà Nẵng,
Tp. Hồ Chí Minh và Đồng Tháp)
Tạ Thị Thảo*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Bài viết là kết quả nghiên cứu “Biến đổi cơ cấu – xã hội sau đổi mới và dự báo xu hƣớng biến đổi”
đƣợc khảo sát tại các tỉnh/thành phố là: Yên Bái, Hà Nội, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh và
Đồng Tháp. Kết quả khảo sát cho thấy có sự biến động trong việc ngƣời dân tham gia các hoạt
động cộng đồng trong vòng 10 năm (1998 - 2008). Phần lớn ngƣời dân có xu hƣớng tham gia tích
cực hơn đối với các hoạt động cộng đồng xã hội tại địa phƣơng nơi họ đang sinh sống, tham gia
các tổ chức chính trị xã hội chính thức và phi chính thức, điều này chứng tỏ ngƣời dân đã ý thức
đƣợc quyền lợi cũng nhƣ vai trò chính trị của bản thân họ. Bên cạnh đó còn cho thấy sự khác biệt
giữa các khu vực, các nhóm tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp. Nghiên cứu này góp phần làm
phong phú thêm các nghiên cứu về biến đổi xã hội nói chung, một lần nữa khẳng định chính sách
Đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc ta là hoàn toàn đúng đắn.
Từ khóa: Biến đổi xã hội, sinh hoạt cộng đồng xã hội, đổi mới, tổ chức xã hội, cộng đồng xã hội
DẪN NHẬP*
K.Mark đã khẳng định rằng: “Bản chất con
ngƣời không phải là một cái trừu tƣợng cố
hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó bản chất con ngƣời là tổng hoà
của những mối quan hệ xã hội”, theo đó, con
ngƣời phải đƣợc đặt trong các quan hệ xã hội
mới có thể trở thành con ngƣời toàn diện,
không có con ngƣời tồn tại riêng biệt. Một
trong những hoạt động của cá nhân khi sống
trong một cộng đồng, địa phƣơng chính là sự
tham gia các hoạt động cộng đồng nhƣ: họp
tổ dân phố, lễ hội văn hoá, đình chùa, lễ
mừng thọ, họp họ hàng, câu lạc bộ,
THAM GIA CÁC HOẠT ĐỘNG CỘNG
ĐỒNG – XÃ HỘI
Một trong những hoạt động của các cá nhân
khi sống trong một cộng đồng xã hội đó là sự
tham gia các hoạt động của cộng đồng đó.
Mức độ tham gia các hoạt động này cho thấy
sự gắn kết, hòa nhập của cá nhân đó với nơi
mà họ đang cƣ trú.
Tham gia họp tổ dân phố/ thôn/ xóm, họp
tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã/ phƣờng
Theo pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phƣờng, thị trấn đƣợc Ủy ban thƣờng vụ
*
Tel: 0988 820020, Email: thaotathi@gmail.com
Quốc hội thông qua ngày 20/4/2007, các cuộc
họp tổ dân phố, họp tại UBND xã/phƣờng
đƣợc tổ chức để tuyên truyền đến ngƣời dân
nội dung các văn bản, chính sách, pháp luật
của nhà nƣớc, đồng thời lấy ý kiến đóng góp
trao đổi của ngƣời dân một cách công khai về
nội dung các quyết sách đó. Ngƣời dân tham
gia các cuộc họp này là cách họ thể hiện thái
độ cũng nhƣ ý thức đối với quyền lợi và nghĩa
vụ của mình.
Số liệu cho thấy rõ sự biến đổi trong việc
tham gia hội họp sau 10 năm. Ngƣời dân có
tích cực trong việc tham gia họp tổ dân
phố/thôn/xóm hay họp tại UBND xã/phƣờng
hay không là minh chứng cho sự liên hệ của
họ với cơ quan công quyền các cấp. Trong
một nghiên cứu về biến đổi kinh tế xã hội nói
chung đã cho thấy có 34,8% số hộ đô thị và
32,2% số hộ nông thôn có liên hệ với chính
quyền địa phƣơng. Bình quân trong mỗi năm
mỗi hộ đô thị liên hệ 1,2 lần còn mỗi hộ nông
thôn là 1,0 lần [4]. Số ngƣời thƣờng xuyên
tham gia họp tổ dân phố chủ yếu rơi vào
nhóm tuổi từ 37 – 46 tuổi và trên 56 tuổi, tức
là phần lớn ở lứa tuổi trung niên và ngƣời già
(35,2%) trong khi tỷ lệ này ở ngƣời trẻ (dƣới
36 tuổi) là 7,5% (Biểu 1).
Tạ Thị Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 51 - 56
52
Biểu 1. Mức độ tham gia họp tổ dân phố/ thôn xóm, họp tại UBND xã/ phường qua các mốc thời gian
(Đơn vị tính: %)
Kết quả khảo sát cho thấy, đa số có 51,2% số NTL làm nông nghiệp cho biết họ thƣờng xuyên
tham gia các cuộc họp tại nơi cƣ trú, và nhóm nghề nông nghiệp hầu nhƣ chiếm tỷ lệ cao hơn các
nhóm nghề khác (Biểu 2).
Biểu 2: Mức độ tham gia họp tổ dân phố/thôn/xóm phân theo nhóm nghề nghiệp (Đơn vị tính: %)
Tốc độ phát triển của xã hội càng nhanh, tính
cá nhân của con người càng có cơ hội phát
huy, những sinh hoạt cộng đồng, trong đó có
họp tổ dân phố/thôn/xóm, họp tại UBND
xã/phường là những hoạt động hiếm hoi để
người dân thắt chặt tình đoàn kết và tính tự
quản tại khu dân cư.
Tham gia các lễ hội văn hóa, đi đình chùa
Nếu Lễ Tết là một hệ thống phân bố theo thời
gian thì các lễ hội văn hóa là một hệ thống
phân bố theo không gian, nó thƣờng diễn ra
vào mùa xuân và mùa thu khi công việc bắt
đầu rảnh rỗi. Tham gia các lễ hội văn hóa
truyền thống, đi lễ đình chùa là hoạt động văn
hóa trong đời sống tâm linh của ngƣời Việt
Nam. Theo thống kê thì trong một năm cả
nƣớc ta có hơn 8.000 lễ hội lớn nhỏ. Nhƣ vậy
tính trung bình cứ một ngày cả nƣớc lại có tới
hơn 20 lễ hội đƣợc tổ chức.
Từ xa xƣa lễ hội đã trở thành một nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống tinh thần của
ngƣời Việt Nam ta. Còn ngày nay, khi kinh tế
xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống của
mỗi ngƣời dân ngày càng đƣợc nâng lên thì
nhu cầu về đời sống tâm linh của mỗi ngƣời
vì thế cũng càng cao.
“...từ những năm 90 của thế kỷ trước, nhiều
hội hè, đình đám được khôi phục, số lượng lễ
hội được tổ chức ở các địa phương ngày càng
tăng nhanh và số người đi hội năm sau cao
hơn năm trước...” [6]
Đặt hoạt động này trong không gian khu vực
cho thấy dù ở thời điểm nào ngƣời dân nông
thôn vẫn tích cực tham gia hoạt động này hơn
so với ngƣời dân đô thị. Điều này cũng dễ hiểu
bởi lẽ cuộc sống của ngƣời dân nông thôn gắn
0
10
20
30
40
50
Họp tổ dân phố Họp tại UBND xã/phƣờng
2008
2003
1998
Nông nghiệp
Buôn bán, dịch vụ
Công nhân, viên chức
Thủ công nghiệp/nghề tự do
Khác
Tạ Thị Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 51 - 56
53
liền với nhịp mùa vụ, nên họ có nhiều thời gian
rỗi hơn cho các hoạt động mang tính giải trí
văn hóa tâm linh này. (Biểu 3)
Hoạt động này hầu nhƣ chỉ thu hút đƣợc
nhóm tuổi trung niên và ngƣời già, ở mọi thời
điểm số lƣợng ngƣời trẻ tham gia rất ít.
“Ngày nay, nếu được hỏi rằng phương Tây
hay các nước lân cận của Việt Nam có những
lễ hội nào thì đa số các bạn trẻ đều trả lời rất
đầy đủ về các lễ hội đó, cả lịch sử hình thành
và ý nghĩa. Nhưng nếu chỉ cần hỏi ngày Giỗ
tổ Hùng Vương là ngày nào thì hẳn sẽ thu
được rất nhiều câu trả lời khác nhau” [7].
Nói nhƣ vậy không có nghĩa ngƣời trẻ không
bao giờ đi chùa, so với cách đây 10 năm tỷ lệ
ngƣời trẻ đi chùa đã tăng lên mặc dù mức
tăng không nhiều.
“Những năm gần đây, rất nhiều bạn trẻ đi
chùa để tìm sự bình an hay những giây phút
thư thái. Nhất là dịp đầu năm, đi chùa trở
thành một nét đẹp văn hóa tâm linh của người
Việt cũng thu hút rất nhiều bạn trẻ.” [8].
Việc tham dự các lễ hội hay đi chùa là hành
động thể hiện nét văn hóa tâm linh của người
Việt. Theo thời gian, ngày càng nhiều người
dân ở các lứa tuổi khác nhau, thuộc các nhóm
ngành nghề khác nhau có xu hướng tích cực
tham gia vào hoạt động này với mong muốn
tâm hồn được thanh thản, thư thái sau những
giờ làm việc căng thẳng.
Biểu 3: Mức độ tham gia lễ hội văn hóa, đi đình chùa phân theo khu vực (Đơn vị tính: %)
Bảng 1: Mức độ tham gia lễ hội văn hóa, đi đình chùa của NTL phân theo nhóm tuổi
qua các mốc thời gian (Đơn vị: %)
Mốc
thời gian
Tuổi của NTL (phân theo nhóm)
56
Năm 2008 11.1 14.6 24.1 26.6 23.6
Năm 2003 9.7 14.9 24.0 23.4 28.0
Năm 1998 8.0 12.9 23.3 24.5 31.3
Bảng 2: Sự tham gia của NTL vào các Hội/ đoàn thể chính thức theo thời gian (Đơn vị: %)
Hội/ đoàn thể Năm 1998 Năm 2003 Năm 2008
Đảng Cộng sản 8.5 9.8 11.7
Đoàn thanh niên 13.5 14.3 12.3
Mặt trận tổ quốc 2.3 2.7 3.4
Hội Phụ nữ 20.2 26.1 29.0
Hội Nông dân 11.6 15.4 18.0
Hội Ngƣời cao tuổi 6.7 9.1 11.1
Hội Cựu chiến binh 4.3 5.8 7.0
Hội/ đoàn thể khác 3.6 3.8 4.6
Không tham gia Hội/ đoàn thể nào 47.2 38.2 33.1
42.2
57.8
44
56
46
54
0 10 20 30 40 50 60
1998
2003
2008
Nông thôn
Thành thị
Tạ Thị Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 51 - 56
54
THAM GIA CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ -
XÃ HỘI
Việc phân tích và đánh giá mức độ tham gia
các hoạt động chính trị - xã hội của các cá
nhân cũng nhƣ sự biến đổi trong việc tham gia
của họ vào các hoạt động này là rất khó khăn.
Bởi những nguyên nhân khách quan nhƣ giới
hạn về mục đích, tiêu chí, nội dung hoạt động
đƣợc dành riêng cho một nhóm ngƣời nhất
định, chứ không phải phổ biến cho tất cả mọi
ngƣời, tức là không phải ai cũng có thể tham
gia vào bất kỳ một tổ chức chính trị - xã hội
nào mà họ muốn. Ví dụ: Đoàn thanh niên chỉ
kết nạp những ngƣời trong độ tuổi thanh niên
(Từ 15 – 30 tuổi), còn Hội ngƣời cao tuổi chỉ
kết nạp thành viên là những ngƣời cao niên,
Hội phụ nữ chỉ dành cho những ngƣời là nữ
giới, Do vậy sự phân tích và đánh giá dƣới
đây chỉ mang tính chất ƣớc lệ.
Tham gia các tổ chức chính thức
Các hội/ đoàn thể chính thức trong nghiên
cứu này bao gồm có Đoàn thanh niên, Đảng
cộng sản, Mặt trận tổ quốc, Hội phụ nữ, Hội
nông dân, Hội ngƣời cao tuổi, Hội cựu chiến
binh. Trong số những ngƣời đƣợc hỏi thì có
tới 66,9% cho biết họ có tham gia ít nhất một
hội/ đoàn thể. Và trung bình thì số lƣợng hội/
đoàn thể mà họ tham gia là 2.
Có thể nhận thấy sự thay đổi qua các mốc
thời gian, số lƣợng NTL không tham gia hội/
đoàn thể nào đã giảm từ 47,2 % xuống còn
33,1%. Số lƣợng NTL tham gia từ 2 đoàn thể
trở lên tăng đều qua các mốc thời gian. Số
lƣợng đoàn thể NTL tham gia tập trung chủ
yếu ở 1 – 2 đoàn thể, còn từ 3 đoàn thể trở lên
có rất ít ngƣời tham gia (dƣới 5%).
Nhƣ vậy có thể thấy rằng số lƣợng Hội/ đoàn
thể chính thức mà NTL tham gia thay đổi
không đáng kể, tuy nhiên thay vào đó là sự
thay đổi về Hội/ đoàn thể chính thức mà họ
tham gia. Năm 1998 tỷ lệ NTL không tham gia
Đảng/ Đoàn là 67,9% thì đến năm 2003 tỷ lệ
này đã tăng lên 70,3%. Điều đó cho thấy đa số
ngƣời trả lời không tham gia các tổ chức Đảng/
Đoàn mà tham gia các Hội khác ngoài Đảng/
Đoàn trong suốt cả 3 giai đoạn.
Xét riêng việc NTL tham gia Đảng cộng sản,
có thể thấy rõ sự khác biệt trong các nhóm
tuổi, giới tính, trình độ học vấn, những ngƣời
là chủ hộ, khu vực sống. 81,9% những chủ hộ
là nam giới có tham gia Đảng Cộng sản, số
nam giới tham gia Đảng Cộng sản là 16,2%,
trong khi tỷ lệ này ở nữ giới chỉ là 7,8%.
Những ngƣời có trình độ học vấn càng cao thì
càng tham gia nhiều vào Đảng cộng sản (99%
số ngƣời mù chữ không tham gia Đảng Cộng
Sản, và 58,3% số ngƣời có trình độ sau đại
học có tham gia tổ chức này).
Đoàn Thanh niên là tổ chức dành riêng cho
lứa tuổi trẻ (từ 15 – 30 tuổi) nên không có sự
khác biệt giữa các nhóm tuổi, trong đó trên ¼
số thanh niên trong độ tuổi từ 15 – 24 là đoàn
viên thanh niên. Những ngƣời có trình độ học
vấn càng cao thì tỷ lệ tham gia càng lớn. Và
nam giới thì tham gia nhiều hơn nữ giới
(15,6% nam giới cho biết họ có tham gia
Đoàn thanh niên, trong khi tỷ lệ này ở nữ giới
chỉ chiếm 9,5%).
Kết quả khảo sát không cho thấy sự khác biệt
nào về tỷ lệ tham gia Hội phụ nữ của ngƣời
trả lời ở khu vực nông thôn và thành thị.
Nhƣng số phụ nữ là chủ hộ có tham gia chiếm
19,1%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm phụ nữ
không phải là chủ hộ là 38,1%.
Bảng 3: Sự tham gia Hội nông dân của NTL theo
khu vực và qua các mốc thời gian (Đơn vị: %)
Tỉnh/thành phố Năm
1998
Năm
2003
Năm
2008
Hà Nội 3.2 4.3 4.0
Yên Bái 13.9 22.5 33.2
Hà Tĩnh 33.5 39.1 38.8
Đà Nẵng 11.4 16.1 20.4
TP Hồ Chí Minh 0 0 1.4
Đồng Tháp 7.5 10.4 10.4
Tính bình quân toàn mẫu, khoảng ¼ số hộ có
tham gia Hội Nông dân. Các tỉnh Yên Bái,
Đồng Tháp, Hà Tĩnh, Đà Nẵng đƣợc coi là
đại diện cho khu vực nông thôn của 3 khu vực
Bắc, Trung, Nam. Kết quả khảo sát về tỷ lệ
ngƣời trả lời coi nông nghiệp là nghề chính
hiện nay cho thấy: Yên Bái là 52,3%, Đồng
Tháp là 46,1%, Hà Tĩnh là 61,6% và Đà Nẵng
Tạ Thị Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 51 - 56
55
là 27,0%. Một điểm giống nhau giữa các tỉnh
này đó là sự thay đổi về tỷ lệ ngƣời tham gia
Hội nông dân tăng dần qua các mốc thời gian
(Bảng 3).
Trên 50% số ngƣời đƣợc hỏi ở độ tuổi trên 56
cho biết họ có tham gia Hội ngƣời cao tuổi.
Cũng có sự khác biệt giữa những ngƣời là chủ
hộ và ngƣời không phải chủ hộ (17,2% và
5,7%). Có tới 34,1% số ngƣời hiện đang ở
góa có tham gia tổ chức này, trong khi tỷ lệ
này ở những tình trạng hôn nhân khác là khá
thấp (dƣới 15%).
Tham gia các tổ chức tự nguyện
Các tổ chức xã hội dân sự và nghề nghiệp
dƣới hình thức các hội, hiệp hội, trung tâm cả
chính phủ và phi chính phủ đã xuất hiện ở
nƣớc ta ngay từ khi Việt Nam bắt đầu gia
nhập WTO. “...Các tổ chức này được lập ra,
được phát triển nhằm mục đích phát triển dân
chủ trong đời sống kinh tế - xã hội, góp phần
nhiều vào công việc quản lý của nhà nước và
sự ổn định xã hội. Kinh nghiệm lịch sử cho
thấy sự xuất hiện của các tổ chức xã hội dân
sự là kết quả tất yếu của sự phát triển. Nhà
nước càng gắn bó với các tổ chức dân sự thì
càng đảm bảo sự ổn định và phát triển, càng
cô lập những phần tử chống lại dân tộc...”[2]
Bảng 4: NTL tham gia Hội tự nguyện qua các
mốc thời gian (Đơn vị: %)
Hội tự nguyện Năm
1998
Năm
2003
Năm
2008
Hội nghề nghiệp 2.5 3.3 4.3
Hội đồng hương/đồng
niên/ đồng môn
9.1 12.4 14.5
Hội sở thích 1.6 2.5 2.9
Hội tự nguyện khác 1.0 1.6 1.7
Thực tế cho thấy trong nhiều năm gần đây,
các tổ chức xã hội dân sự ở nƣớc ta phát triển
khá nhanh và hết sức phong phú, đa dạng.
Các tổ chức này hoạt động dựa trên sự tự
nguyện của ngƣời dân, ngƣời dân tự quản lý,
tồn tại độc lập với nhà nƣớc, có tính phi lợi
nhuận, tự trang trải về tài chính. Hiện nay đã
có trên 400 hội hoạt động trên toàn quốc,
khoảng 6000 hội hoạt động trong phạm vi
tỉnh/thành phố và hàng vạn hội hoạt động tại
các xã/phƣờng/thị trấn.
Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ NTL tham gia
các hội tự nguyện là không cao ở tất cả các
thời điểm, nhƣng có thể dễ dàng nhận ra xu
hƣớng tăng lên của việc tham gia các hội này.
Thời gian trƣớc tỷ lệ ngƣời dân tham gia các
hội tình nguyện thấp là do khi ấy các tổ chức
này chƣa phổ biến, chủ yếu mới chỉ xuất hiện
ở những khu vực đô thị lớn, và một lý do
khác nữa là:
“...hiện vẫn còn một số cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức cũng như người dân chưa
nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và tác
dụng của khu vực xã hội dân sự trong đời
sống xã hội;...bản thân các đoàn thể nhân
dân, các hội chưa phát huy đầy đủ chức năng
đại diện cho lợi ích của quần chúng nhân dân
và hội viên của mình. Một số tổ chức đoàn thể
nhân dân, hội còn mang tính hình thức, hoạt
động kém hiệu quả, chưa đáp ứng được
nguyện vọng và lợi ích của đoàn viên, hội
viên, hoặc có biểu hiện trông chờ vào sự tài
trợ của nhà nước; “hành chính hoá” về mặt
tổ chức và hoạt động. Do đó, khả năng thu
hút quần chúng của các tổ chức này còn hạn
chế; việc tham gia cung cấp dịch vụ công
chưa được triển khai đúng với tôn chỉ và mục
đích, thậm chí có trường hợp chạy theo lợi
nhuận kinh tế đơn thuần...”[5]
Số lƣợng hội tình nguyện trung bình mỗi
NTL tham gia chỉ là 1 tại tất cả các thời điểm.
Tỷ lệ NTL tham gia 1 hội tình nguyện trong
vòng 10 năm (1998 – 2008) dao động trong
khoảng từ 9,3 đến 15,4% theo chiều hƣớng
tăng dần theo thời gian.
Ngƣời dân ở khu vực thành thị tham gia các
hội tình nguyện nhiều hơn ngƣời dân nông
thôn, nam cao hơn nữ, ngƣời có trình độ học
vấn cao tham gia nhiều hơn ngƣời có trình độ
học vấn thấp, những ngƣời là chủ hộ tham gia
nhiều hơn những ngƣời không phải là chủ hộ
và ngƣời cao tuổi tham gia nhiều hơn ngƣời
trẻ tuổi.
Tạ Thị Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 51 - 56
56
KẾT LUẬN
Hoạt động của các đoàn thể là một yếu tố
quan trọng gắn kết các thành viên trong cộng
đồng. Nhìn chung việc đánh giá mức độ tham
gia các hoạt động chính trị - xã hội của các cá
nhân cũng nhƣ so sánh sự biến đổi trong việc
tham gia của họ vào các hoạt động này là điều
không dễ dàng. Lý do không phải ai cũng có
cơ hội, điều kiện hoặc mong muốn tham gia.
Có những đoàn thể bị giới hạn bởi mục đích,
tiêu chí hoạt động căn cứ theo nhóm tuổi, giới
tính, nghề nghiệp,của cá nhân. Sự đánh giá
ở trên chỉ mang tính chung nhất. Tuy vậy
cũng cho thấy đƣợc sự biến đổi ở mặt con số
thống kê. Hiện nay ngƣời dân có xu hƣớng
tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng –
xã hội, mặc dù sự biến đổi diễn ra không
đồng đều ở các nhóm, các khu vực và đa số
NTL tham gia ít nhất 1 Hội/đoàn thể ở thời
điểm hiện tại (66,9%).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Dân (2008), “Đời sống văn hóa của
ngƣời Việt Nam sau hai mƣơi năm đổi mới”, Tạp
chí Thông tin khoa học xã hội số 9.
2. Trần Ngọc Hiên (2007), “Những biến đổi về mặt
xã hội của Việt Nam dƣới tác động của hội nhập
WTO”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội số 3.
3. Khoa Xã hội học – Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Số liệu từ cuộc điều tra Biến đổi cơ cấu xã
hội sau đổi mới và dự báo xu hướng biến đổi
4. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2007), Những
biến đổi kinh tế - xã hội của hộ gia đình, Nxb
Khoa học Xã hội
5. Viện Triết học, Vai trò của xã hội dân sự ở Việt
Nam,
Các website:
6.
7.
8.
SUMMARY
RECENT TREND IN SOCIAL ACTIVITIES
DURING THE INNOVATION PERIOD
Ta Thi Thao
*
College of Sciences - TNU
Recent research shows there is a dramaticly change in the number of people participate in social
activities during the last 10 year period (1998-2008). There are positive response from social clubs
which are funded by local communities as well as the government, this shows the improvement in
rasing the awareness of civil rights. Moreover this research has also demonstrated the differences
between people from different areas, age groups, education and employment. This has contributed
to the variation of social-change research and proved that the Vietnamese Government and The
communist party of Vietnam are providing a sound leader ship.
Key words: social changes, social activities, innovation period, social organization, social
communities
Ngày nhận bài:13/3/2014; Ngày phản biện:15/3/2014; Ngày duyệt đăng: 25/3/2014
Phản biện khoa học: TS. Lê Thị Ngân – Trường Đại học Khoa học - ĐHTN
*
Tel: 0988 820020, Email: thaotathi@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_chieu_canh_bien_doi_sinh_hoat_cong_dong_xa_hoi_trong_t.pdf