Qua học tập chính trị, tư tưởng, sức mạnh của
Cứu quốc quân đã nâng cao không ngừng:
“Chính ý thức tổ chức và kỷ luật, tinh thần
trách nhiệm và tự giác, đề cao việc phê và tự
phê, đã đoàn kết Cứu quốc quân thành một
khối thép, không một sức mạnh nào có thể
tiêu diệt được” [4]. Các cán bộ, chiến sĩ Cứu
quốc quân không những hoàn thành tốt những
trách nhiệm cùng cả trung đội mà ngay cả khi
hoạt động độc lập ở các địa phương, họ cũng
luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ mà cấp trên
giao phó. Chỉ bằng việc trang bị cho lực
lượng vũ trang lý luận chính trị cách mạng
của Đảng để tạo niềm tin cách mạng và quyết
tâm tiêu diệt địch, kết hợp với sự mưu trí,
khéo léo, dũng cảm thì quân và dân ta mới có
thể chiến thắng được kẻ địch hơn hẳn ta về số
lượng, vũ khí và phương tiện chiến tranh như
thắng lợi của “tám tháng đấu tranh du kích
chống địch khủng bố” trên căn cứ địa Bắc
Sơn –Võ Nhai. Kết luận này đã được rút ra từ
cuộc đấu tranh du kích của quân và dân Bắc
Sơn – Võ Nhai và đó cũng chính là một bài
học kinh nghiệm cho Đảng ta trong công tác
xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị
trong các thời kỳ cách mạng sau.
“Tám tháng đấu tranh du kích chống địch
khủng bố” mặc dù còn một số hạn chế do
hoàn cảnh lịch sử nhưng đã để lại cho cách
mạng Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm vô
cùng quí giá trên nhiều phương diện công tác
như: công tác Đảng, công tác xây dựng lực
lượng chính trị, lực lượng vũ trang, công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng Những bài học
kinh nghiệm rút ra đó một mặt đã được Đảng
ta áp dụng triệt để, khéo léo vào việc lãnh đạo
toàn Đảng, toàn dân làm cuộc Cách mạng
tháng Tám 1945 thành công và tiến hành cuộc
kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) vĩ
đại thắng lợi; mặt khác nó là sự bổ sung vô
cùng quan trọng vào kho tàng lý luận quân
sự Việt Nam.
6 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 337 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những bài học kinh nghiệm rút ra từ tám tháng đấu tranh du kích trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai (7/1941 – 2/1942) - Ngô Ngọc Linh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngô Ngọc Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 171 - 176
171
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ TÁM THÁNG ĐẤU TRANH
DU KÍCH TRÊN CĂN CỨ ĐỊA BẮC SƠN – VÕ NHAI (7/1941 – 2/1942)
Ngô Ngọc Linh*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc kỳ, quân và dân Bắc Sơn – Võ Nhai mà
Cứu quốc quân là lực lượng nòng cốt, đã tiến hành Tám tháng đấu tranh du kích chống địch khủng
bố (7/1941-2/1942) hết sức oanh liệt và sôi nổi trên căn cứ địa cách mạng của mình. Những thắng
lợi của cuộc đấu tranh ấy đã để lại cho Đảng ta và cách mạng Việt Nam những bài học kinh
nghiệm có giá trị trên nhiều phương diện. Quân và dân Bắc Sơn – Võ Nhai đã ghi tên mình vào
những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Từ khóa: Đấu tranh du kích, du kích, căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai.
Cuộc đấu tranh du kích chống địch khủng bố
trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai (từ tháng
7/1941 đến tháng 2/1942) là một quá trình
chiến đấu vô cùng gian khổ của quân và dân
ta. Dù cho quá trình đấu tranh đó còn một vài
hạn chế do hoàn cảnh lịch sử song đã để lại
cho Đảng ta và cách mạng Việt Nam nhiều
bài học kinh nghiệm vô cùng quí giá, đặc biệt là
về vấn đề đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa giành
chính quyền và đặc biệt là về những vấn đề liên
quan của một cuộc chiến tranh du kích.*
Vấn đề “Tám tháng đấu tranh du kích trên
căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai” là vấn đề đã
được chúng tôi đề cập đến trong công trình
nghiên cứu đã công bố trên tạp chí Khoa học
và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên, tập 79,
số 3, năm 2011. Tuy nhiên, trong phạm vi của
nghiên cứu này, chúng tôi cố gắng đưa ra và
phân tích sâu về sự kiện quan trọng này trên
góc độ những bài học kinh nghiệm mà Tám
tháng đấu tranh du kích chống địch khủng bố
trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai đã để cho
phong trào cách mạng Việt Bắc nói riêng và
phong trào cách mạng Việt Nam nói chung;
Từ đó, chúng ta có thể có những nhận định
đúng đắn, chính xác về vị trí, vai trò của sự
kiện lịch sử này trong tiến trình cách mạng
Việt Nam.
Quán triệt đường lối chỉ đạo chiến lược
cách mạng của Đảng và những quan điểm
của Hồ Chí Minh về đấu tranh du kích đối
với lực lượng vũ trang cách mạng
*
Tel: 0983.851.565; Email: ngongoclinhvn@gmail.com
Ngay từ khi Khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ đến
Tám tháng đấu tranh du kích chống địch
khủng bố, lực lượng quân du kích luôn nhận
được sự chỉ đạo tích cực, sự hỗ trợ kịp thời
của Trung ương Đảng ta. Ngay trong Khởi
nghĩa Bắc Sơn, Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc
kỳ đã cử ngay cán bộ lên tăng cường cho
quân du kích, cùng với cán bộ, đảng viên tích
cực xây dựng lực lượng du kích Bắc Sơn và
khu du kích Bắc Sơn (hai Ủy viên Xứ ủy Bắc
kỳ là Trần Đăng Ninh và Nguyễn Thành
Diên). Tại đây, các cán bộ Xứ ủy tham gia
trực tiếp lãnh đạo đội phát triển lực lượng du
kích quân, cơ sở cách mạng của quần chúng
và đấu tranh với quân thù. Tuy nhiên, do Cứu
quốc quân còn quá non trẻ và mỏng về lực
lượng, vũ khí thô sơ nên đã bị thực dân Pháp
khủng bố và phải rút vào hoạt động bí mật.
Khi phong trào ở Bắc Sơn đang còn lúng
túng, chưa có hướng đi thì Hội nghị lần thứ
bảy của Trung ương Đảng đã họp và vạch ra
phương hướng tiến lên của phong trào cách
mạng và đội du kích Bắc Sơn. Đồng chí
Hoàng Văn Thụ được Hội nghị phân công
trực tiếp lãnh đạo phong trào Bắc Sơn – Võ
Nhai. Trung ương Đảng còn phát động một
phong trào ủng hộ Bắc Sơn khởi nghĩa trong
toàn quốc và phong trào diễn khá sôi nổi, nhất
là ở các tỉnh lân cận. Sau đó, đồng chí Lương
Văn Chi - Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ
và một số cán bộ ở dưới xuôi lên tăng cường
cho căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai. Nhờ đó, đến
thời điểm đầu năm 1941, khu căn cứ địa Bắc
Sơn – Võ Nhai dần hình thành dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Xứ ủy
Bắc kỳ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngô Ngọc Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 171 - 176
172
Trung ương Đảng không những vạch ra
đường lối, chủ trương, phương châm hoạt
động, hình thức đấu tranh cho quân và dân
Bắc Sơn – Võ Nhai, tăng cường, bổ sung cán
bộ cốt cán cho khu căn cứ, mà còn chăm lo
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ, xây dựng tổ chức
Đảng trong quân du kích. Các đồng chí lãnh
đạo khu căn cứ, Ban chỉ huy quân du kích đã
mở nhiều lớp huấn luyện chính trị, quân sự
ngắn ngày cho cán bộ, chiến sĩ, đảng viên địa
phương nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ và
chiến sĩ du kích. Trên đường đi dự Hội nghị
Trung ương 8, các đồng chí trong Ban chấp
hành Trung ương đã dừng lại nơi đây; sau khi
nghe Ban lãnh đạo khu căn cứ báo cáo tình
hình, Trung ương Đảng đã có chỉ đạo cụ thể
về các mặt hoạt động cho Ban lãnh đạo căn
cứ và đặc biệt là cho Ban chỉ huy Đội du kích
Bắc Sơn. Khi kết thúc Hội nghị, trên đường
về xuôi, mặc dù địch khủng bố dã man, các
đồng chí trong Ban Thường vụ (BTV) Trung
ương vẫn bố trí thời gian ở lại công tác tại địa
phương để chỉ đạo phong trào và mở một số
lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ, chiến sĩ
Bắc Sơn – Võ Nhai. Nội dung các lớp này là
học tập Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8,
Chương trình, Điều lệ Việt Minh Mặt khác,
theo quyết định của Hội nghị Trung ương 8
(5/1941) và thực hiện lời kêu gọi của Hội
nghị cán bộ toàn xứ Bắc kỳ (25/9/1941) “Cơ
hội giải phóng đã tới, các đồng chí phải hoạt
động gấp đôi, gấp ba trước, theo lời hiệu
triệu của Trung ương” [1] nhiều đồng chí cán
bộ của Đảng đã lên tăng cường cho Cứu quốc
quân và khu căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai, trong
đó có đồng chí Phùng Chí Kiên - Ủy viên
Trung ương Đảng; BTV cũng phân công đồng
chí Hoàng Quốc Việt - Ủy viên Thường vụ
Trung ương ở lại chỉ đạo khu căn cứ thêm
một thời gian (khoảng 1 tháng); Như vậy đến
thời điểm này (9/1941), khu căn cứ địa Bắc
Sơn – Võ Nhai đã được đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của BTV Trung ương Đảng.
Qua thực tiễn hoạt động về mọi mặt của
mình, Cứu quốc quân đã quán triệt đường lối
chỉ đạo của Trung ương Đảng và tư tưởng của
Hồ Chí Minh về chiến tranh du kích, nghệ
thuật đấu tranh du kích. Nhờ đó khu căn cứ đã
có nhiều bước trưởng thành vượt bậc, nhất là
trong lực lượng Cứu quốc quân. Ở mỗi tiểu
đội, tổ công tác của Cứu quốc quân đều có chi
bộ, tổ đảng hoặc do các đảng viên lãnh đạo.
Qua học tâp, sinh hoạt, công tác; với tinh thần
dân chủ, đoàn kết, phê bình và tự phê bình
cao, đội ngũ đảng viên được nâng cao trình
độ, luôn giữ vững phẩm chất cách mạng, luôn
hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao.
Nhờ có công tác Đảng và việc quán triệt
đường lối của Đảng mà các đảng viên chiến sĩ
Cứu quốc quân hoàn toàn có đủ trình độ lý
luận chính trị, quân sự để có thể hoạt động
độc lập, tự chủ ở địa phương hay trong hoàn
cảnh bị địch khủng bố ác liệt.
Vấn đề áp dụng chiến thuật du kích trong đấu
tranh chống địch khủng bố là vấn đề đã được
nêu lên trong chủ trương của Đảng và trong
quan điểm quân sự của Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh. Theo chủ trương, quan điểm đó,
trong chiến đấu chống địch khủng bố, các
chiến sĩ du kích phải quán triệt phương châm
vũ trang công tác, khi cần thì đấu tranh chống
địch khủng bố bằng cách áp dụng nghệ thuật
đánh du kích để chống lại những đội quân
hùng mạnh với vũ khí hiện đại của địch:
“Chiến thuật của các chiến hữu là chiến thuật
du kích, đã có những thể nghiệm, vì đó là
chiến thuật của các du kích Trung Hoa đã
dùng hàng trǎm lần. Các chiến hữu cũng
dùng nó, tấn công các đoàn tàu, làm suy kiệt
lực lượng bọn cướp nước và từng tí từng tí
một phát triển cuộc chiến tranh du kích. Các
bạn nên nhớ rằng những cơn gió nhẹ có thể
trở thành bão tố, những kết quả nhỏ có thể
trở thành thắng lợi to. Hãy tiếp tục thu những
kết quả nhỏ. Khẩu hiệu của các chiến hữu
hiện nay phải là vừa đánh quân thù vừa chiếm
đoạt vũ khí của chúng. Mục đích của các chiến
hữu phải là mục đích của toàn dân” [2].
Từ thực tiễn đấu tranh của quân và dân Bắc
Sơn – Võ Nhai cho thấy chiến thuật du kích
đã được áp dụng triệt để và rất hiệu quả. Bằng
cách đánh du kích như: phục kích, tập kích,
truy kích Cứu quốc quân đã tiêu diệt được
nhiều sinh lực địch. Có những trận đánh mặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngô Ngọc Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 171 - 176
173
dù lực lượng quân địch nhiều hơn ta rất nhiều
nhưng chúng vẫn thất bại bởi quân ta đã triệt
để áp dụng lối đánh du kích, khiến chúng
không kịp trở tay và phải rút quân. Hay có
những trận quân du kích tổ chức phục kích và
tiêu diệt được nhiều tên mật thám đầu sỏ, gian
ác, có nhiều nợ máu với nhân dân
Tóm lại, sự lãnh đạo của Đảng đối với phong
trào cách mạng Bắc Sơn – Võ Nhai, với Cứu
quốc quân là trực tiếp, toàn diện cả về chính
trị lẫn quân sự. Đây là một nhân tố vô cùng
quan trọng quyết định mọi thắng lợi của quá
trình xây dựng, phát triển lực lượng cách
mạng, quá trình công tác, chiến đấu của lực
lượng vũ trang. Đảng ta cũng đã nhận định:
“Cứu quốc quân tiến hành chiến tranh du
kích đánh địch kéo dài trong tám tháng, nêu
cao tinh thần chiến đấu bất khuất và lòng
trung thành vô hạn của một đội quân cách
mạng. Sự kiện này chứng tỏ rằng, nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng có khả năng
lập căn cứ địa cách mạng, kết hợp với phong
trào đấu tranh chính trị rộng lớn của quần
chúng, tiến hành chiến tranh du kích chống
lại một quân đội đế quốc có ưu thế về vũ khí
và lực lượng ” [3]. Đây chính là một bài học
kinh nghiệm đáng quí được rút ra từ cuộc đấu
tranh chống địch khủng bố trên căn cứ địa
Bắc Sơn – Võ Nhai và nó đã trở thành
nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng của Đảng ta trong các thời kỳ
cách mạng tiếp diễn.
Xây dựng, phát triển những tổ chức của
quần chúng cách mạng; lấy đó làm cơ sở
phát triển phong trào đấu tranh cách mạng
– phong trào du kích chiến.
Cứu quốc quân lãnh đạo quần chúng đấu
tranh chống địch khủng bố thông qua các tổ
chức của quần chúng và các tổ chức đó chính
là cơ sở để quân du kích liên hệ, phối hợp, tổ
chức quần chúng đấu tranh. Nhận thức được
vai trò của các tổ chức quần chúng, Cứu quốc
quân luôn chú ý gây dựng, phát triển các tổ
chức này, lấy đó làm cơ sở để phát triển, đẩy
mạnh cuộc đấu tranh du kích chống địch
khủng bố trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai.
Có thể thấy, đa số các đồng chí trong đội Cứu
quốc quân đều có xuất thân từ những lực
lượng, tổ chức của quần chúng, họ đều là cán
bộ, chiến sĩ, đảng viên của các đội tự vệ, các
cán bộ và hội viên của các Hội cứu quốc ở địa
phương hoặc ở dưới xuôi lên tăng cường cho
căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai. Trong các phong
trào đấu tranh của quần chúng: đòi các quyền
dân sinh, dân chủ, chống sưu cao, thuế
nặng họ là những người hăng hái, nhiệt
tình, dũng cảm đấu tranh. Trải qua một quá
trình rèn luyện qua các tổ chức cách mạng và
phong trào đấu tranh của quần chúng, họ
được Đảng tuyên truyền, giác ngộ, đào tạo rồi
bổ sung vào lực lượng du kích quân chiến đấu
chống lại kẻ thù. Quá trình ra đời, phát triển
nhanh chóng của các lực lượng quân du kích
trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai (từ năm
1940 đến đầu năm 1942) phần lớn cũng nhờ
sự bổ sung lực lượng kịp thời của các tổ chức
quần chúng. Thực vậy, từ các tổ chức, phong
trào cách mạng của quần chúng hình thành
trước năm 1940 mà Khởi nghĩa Bắc Sơn bùng
nổ, Đội du kích Bắc Sơn – tiền thân của các
Trung đội Cứu quốc quân đã ra đời. Phong
trào Bắc Sơn – Võ Nhai tiếp tục có nhiều
bước phát triển mới dưới ánh sáng soi đường
của Hội nghị Trung ương 7 (11/1940), Đội du
kích Bắc Sơn và các tổ chức quần chúng được
củng cố không ngừng. Kết quả là Trung đội
Cứu quốc quân I – tiền thân của Trung đội
Cứu quốc quân II, đã ra đời (1/5/1941): “Tại
các địa phương, Cứu quốc quân vừa tiến
hành tuyển chọn lực lượng bổ sung cho đội
vừa tiến hành công tác tuyên truyền, mở các
lớp đào tạo cấp tốc cho Cứu quốc quân” [4].
Trong tám tháng đấu tranh du kích, các tổ
chức quần chúng (Hội Cứu quốc, Đội tự vệ)
tiếp tục được xây dựng, phát triển, dẫn tới sự
ra đời của Trung đội Cứu quốc quân II
(15/9/1941). Trong sự phát triển liên hoàn của
các lực lượng du kích trên căn cứ địa Bắc Sơn
– Võ Nhai, vai trò của các tổ chức cách mạng
của quần chúng là rất quan trọng. Lực lượng
chính trị và lực lượng tự vệ đông đảo cùng
như phong trào cách mạng phát triển là những
điều kiện rất cơ bản để phát triển Cứu quốc
quân. Các địa phương có phong trào cách
mạng quần chúng sâu rộng trong khu căn cứ:
Bắc Sơn, Tràng Định, Thoát Lãng (Lạng
Sơn), Võ Nhai, Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ
(Thái Nguyên) là những nơi đóng góp cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngô Ngọc Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 171 - 176
174
các lực lượng du kích Bắc Sơn – Võ Nhai rất
nhiều cán bộ, chiến sĩ ưu tú. Không thể có các
Trung đội Cứu quốc quân cũng như những
thắng lợi to lớn của họ, nếu không có sự tham
gia của những quần chúng trung kiên, những
người đã được rèn luyện, trưởng thành trong các
tổ chức quần chúng cách mạng địa phương.
Nhận thức được vai trò của mặt công tác này
trong cuộc đấu tranh cách mạng, Cứu quốc
quân xác định đây là một công tác trọng tâm
nhằm tạo dựng cho quân du kích có địa bàn
hoạt động, có chỗ dựa về cả vật chất lẫn tinh
thần khi bị địch càn quét khủng bố mạnh. Chú
trọng mặt công tác đó, Cứu quốc quân đã chia
ra nhiều tổ về các địa phương xây dựng cơ sở
quần chúng, lãnh đạo, tổ chức quần chúng
đấu tranh chống địch khủng bố. Họ đã cùng
với cán bộ, đảng viên địa phương ra sức xây
dựng và phát triển các Hội Cứu quốc, các đội
tự vệ. Trên cơ sở quán triệt đường lối cách
mạng của Đảng; nắm vững tâm lý và nguyện
vọng của đồng bào các dân tộc; với nhiều
hình thức tuyên truyền, giác ngộ quần chúng
phong phú, Cứu quốc quân đã xây dựng được
cho khu căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai những cơ
sở quần chúng vững chắc; đó là lực lượng
chính trị quan trọng, hỗ trợ, giúp đỡ, tác chiến
cùng quân du kích trong cuộc đấu tranh chống
địch khủng bố. Mặt khác, trong cuộc đấu
tranh ấy, Cứu quốc quân đã cùng nhân dân
các dân tộc Bắc Sơn – Võ Nhai chia ngọt sẻ
bùi trong những ngày địch càn ác liệt. Vì lẽ
đó, đồng bào các dân tộc hết lòng giúp đỡ và
chăm lo cho lực lượng du kích từ miếng cơm,
manh áo, thuốc men, gạo tiền cho đến việc
chở che cho Cứu quốc quân khi bị địch truy
kích, tìm diệt. Hơn nữa, đồng bào còn trực
tiếp tham gia vào các mặt công tác của Cứu
quốc quân: công tác binh vận, địch vận, theo
dõi bọn mật thám, tay sai tạo mọi điều kiện
để quân du kích xây dựng, phát triển lực
lượng. Nhờ quá trình hoạt động của Cứu quốc
quân trong lòng quần chúng nên các tổ chức
của quần chúng trên địa bàn căn cứ địa phát
triển rất nhanh; đặc biệt, do họ được Cứu
quốc quân giác ngộ nên khả năng đấu tranh
chính trị trực tiếp với quân thù của quần chúng
cách mạng đã cải thiện, nâng cao rõ rệt.
Tóm lại, lực lượng chính trị của quần chúng
có vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi cuộc
đấu tranh, cách mạng vì sự phát triển của các
tổ chức quần chúng có tác dụng tạo nên nền
móng vững chắc cho phong trào cách mạng.
Do đó, trong tám tháng đấu tranh du kích
chống địch khủng bố, Cứu quốc quân luôn
chú trọng mặt công tác này và đã tạo ra một
phong trào đấu tranh rộng rãi với sức mạnh
vô địch, sức mạnh của sự kết hợp giữa lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang, giữa
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
Không ngừng củng cố, mở rộng căn cứ địa
cách mạng nhằm xây dựng, tăng cường lực
lượng quân du kích, tạo chỗ đứng chân cho
lực lượng khi hiểm nguy cũng như làm bàn
đạp để tiến công địch khi thời cơ đến.
“Chiến tranh du kích và căn cứ địa là hai yếu
tố cơ bản của chiến tranh cách mạng nhằm
giải phóng dân tộc. Hai yếu tố này luôn gắn
bó với nhau trong truyền thống quân sự của
dân tộc” [5]. Xây dựng căn cứ địa là công tác
hậu phương, đấu tranh du kích là công tác
tiền tuyến, chúng có mối quan hệ chặt chẽ,
khăng khít, không tách rời. Vì vậy, xây dựng
căn cứ địa cách mạng và tiến hành đấu tranh
du kích là hai hoạt động trọng tâm của Đảng
trong giai đoạn này. Quá trình đấu tranh của các
đội quân du kích cách mạng trên căn cứ địa Bắc
Sơn – Võ Nhai đã chứng minh điều đó.
Quá trình hình thành, phát triển căn cứ địa
cách mạng luôn gắn với sự trưởng thành của
Cứu quốc quân: khi Đội du kích Bắc Sơn ra
đời thì căn cứ du kích Bắc Sơn cũng hình
thành; sự ra đời của Trung đội Cứu quốc quân
I gắn liền với quá trình phát triển của khu du
kích Bắc Sơn; khi trung tâm căn cứ địa Bắc
Sơn – Võ Nhai hình thành thì Trung đội Cứu
quốc quân II ra đời. Quá trình phát triển của
cách mạng Bắc Sơn – Võ Nhai đã chứng thực
rõ mối quan hệ không thể tách rời giữa sự
hình thành, phát triển căn cứ địa và sự trưởng
thành của các lực lượng du kích quân. Dựa
vào căn cứ địa, Cứu quốc quân mới có thể
đấu tranh du kích chống địch khủng bố, bảo
toàn và phát triển lực lượng, thực hiện những
nhiệm vụ mà Trung ương giao phó. Căn cứ
địa nhờ có sự bảo vệ, xây dựng của Cứu quốc
quân mà ngày càng phát triển, mở rộng hơn.
Nói một cách cụ thể, căn cứ địa Bắc Sơn – Võ
Nhai, với một vị trí chiến lược cơ động “tiến
khả dĩ công, lui khả dĩ thủ”, với một nền kinh
tế tự cấp, tự túc, đặc biệt với phong trào cách
mạng mạnh và lực lượng chính trị rộng lớn
là “mảnh đất tốt” cho quá trình trưởng thành
của Cứu quốc quân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngô Ngọc Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 171 - 176
175
Đặc điểm của quá trình hình thành, mở rộng
căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai là đi từ thấp
đến cao và nó gắn với quá trình đấu tranh du
kích chống khủng bố của Cứu quốc quân.
Nhận định quá trình đó đi từ thấp đến cao là
bởi nó được xây dựng từ lực lượng chính trị
tiến lên xây dựng lực lượng vũ trang, từ
những căn cứ nhỏ, bị chia cắt tiến lên nối liền
các căn cứ đó với nhau thành một khu căn cứ
rộng lớn, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng
hoàn chỉnh. Quá trình ấy gắn liền với hoạt
động đấu tranh du kích của Cứu quốc quân vì:
trong điều kiện địch khủng bố ác liệt, nhiều
khi quân du kích phải “hóa chỉnh vi linh”,
phân tán lực lượng, dựa vào dân hoạt động bí
mật. Cũng nhờ thế, các chiến sĩ du kích có
điều kiện gần dân, giác ngộ quần chúng, xây
dựng cơ sở cách mạng. Ở góc độ khác, công
tác mở rộng địa bàn hoạt động, căn cứ cũng là
một nhiệm vụ trọng tâm của Cứu quốc quân;
nó nhằm xây dựng, tăng cường lực lượng
quân du kích, tạo chỗ đứng chân cho lực
lượng khi hiểm nguy cũng như làm bàn đạp
để tiến công địch khi thời cơ đến. Cho nên
Cứu quốc quân đã phân tán, chia nhỏ lực
lượng về các địa phương trong và ngoài khu
trung tâm căn cứ để thực hiện những nhiệm
vụ trên. Do đó, đầu cuối năm 1941, các tổ
công tác của Cứu quốc quân được phân công
đi về các địa phương ở Bắc Sơn, Võ Nhai,
Chợ Chu (Định Hóa), Phương Liễn (Sơn
Dương – Tuyên Quang), Hữu Lũng, Yên Thế
(Bắc Giang) để mở rộng địa bàn của khu
căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai. Kết quả: căn
cứ địa được mở rộng; nhiều cơ sở Đảng cũ
được khôi phục; gây dựng, phát triển thêm
được nhiều cở sở cách mạng quần chúng mới;
nối liền được nhiều tuyến giao thông liên
lạc giữa trong và ngoài căn cứ; bổ sung
được nhiều quần chúng ưu tú cho lực lương
du kích quân
Tóm lại, vấn đề mở rộng căn cứ địa có nhiều
ý nghĩa quan trọng: nó vừa là chỗ dựa để xây
dựng lực lượng vũ trang và lực lượng cách
mạng, vừa là bàn đạp để tiến công quân địch
bằng chính trị lẫn vũ trang nhằm đánh lùi
từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến lên đập
tan hoàn toàn ách thống trị của bọn thực dân
xâm lược và bè lũ tay sai bán nước. Cũng
chính vì thế, căn cứ địa luôn nằm trong tình
trạng bị uy hiếp, nguy hiểm vì đó là mục tiêu
đánh phá ác liệt của kẻ thù. Do vậy, trong quá
trình xây dựng, phát triển, lực lượng vũ trang
cách mạng phải không ngừng xây dựng, mở
rộng địa bàn căn cứ địa. Nhìn lại vấn đề này,
Quân đội ta đã đánh giá: “Tám tháng đánh du
kích ở Bắc Sơn – Võ Nhai đã chỉ ra rằng dưới
ách thống trị đế quốc, phát xít Pháp – Nhật,
nhân dân ta do Đảng lãnh đạo, có thể lập
được căn cứ cách mạng ở vùng nông thôn,
rừng núi và đánh du kích lâu dài để tiêu hao
và tiêu diệt quân đội của đế quốc có ưu thế
tuyệt đối về số lượng và trang bị” [6]. Bài học
kinh nghiệm đáng quí được rút ra qua quá
trình đấu tranh du kích này còn được Đảng ta
quán triệt, áp dụng nhiều trong các giai đoạn
cách mạng tiếp theo.
Giáo dục chính trị, tư tưởng là nhiệm vụ
trọng tâm, căn bản nhất trong quá trình
rèn luyện các đội quân du kích để có đủ
sức mạnh để hoàn thành mọi nhiệm vụ
cách mạng
Xuất phát từ nhận thức: trong cuộc chiến đấu
không cân sức này, kẻ địch hơn ta về nhiều
mặt: vũ khí, phương tiện chiến tranh, quân
số nhưng ta lại hơn địch ở tinh thần quyết
tâm, anh dũng, mưu trí Những thắng lợi
của Cứu quốc quân II trên nhiều mặt trận
trong tám tháng đấu tranh du kích có được
phần nhiều do du kích quân ta đã thấm nhuần,
tin tưởng vào đường lối, tư tưởng cách mạng
của Đảng; vì thế, quyết tâm chống Pháp cũng
được củng cố, nâng cao hơn. Xét về nguyên
nhân sâu xa của thực tế này là do lực lượng
du kích của ta đã được giáo dục, nâng cao
trình độ chính trị, tư tưởng trong quá trình
chiến đấu. Các lớp huấn luyện về chính trị, tư
tưởng do Trung ương Đảng, Xứ uỷ, Ban chỉ
huy Cứu quốc quân và các chi bộ, tổ Đảng tổ
chức ngay trên căn cứ địa trong những điều
kiện gian khổ đã chứng minh Đảng ta rất
quan tâm và coi đây là một trong những
nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Đảng.
Nội dung học tập chính trị, tư tưởng của cán
bộ, chiến sĩ du kích là học về đường lối, chính
sách của Đảng như: Nghị quyết Hội nghị lần
thứ tám của BCH Trung ương Đảng, Chương
trình và Điều lệ Việt Minh, Cạnh đó, các
chi bộ, tổ Đảng thường xuyên tổ chức họp,
kiểm điểm, rút kinh nghiệm công tác và chiến
đấu; công tác khen thưởng và kỷ luật trong
Đảng cũng được thực hiện kịp thời, nghiêm
minh. Những nội dung và hoạt động sinh hoạt
chính trị, tư tưởng cùng nhiều hình thức
phong phú trên đã giúp cán bộ, chiến sĩ Cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngô Ngọc Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 171 - 176
176
quốc quân ngày càng thấm nhuần, tin tưởng
tuyệt đối vào chủ trương, đường lối cách
mạng của Đảng; thấy rõ vai trò, trách nhiệm
vô cùng vẻ vang của mình; do đó, họ luôn ý
thức phải cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ
mà Đảng giao phó, phải trung thành tuyệt đối
với nhân dân, vì nhân dân quên mình, vì sự
nghiệp cách mạng không tiếc hy sinh.
Qua học tập chính trị, tư tưởng, sức mạnh của
Cứu quốc quân đã nâng cao không ngừng:
“Chính ý thức tổ chức và kỷ luật, tinh thần
trách nhiệm và tự giác, đề cao việc phê và tự
phê, đã đoàn kết Cứu quốc quân thành một
khối thép, không một sức mạnh nào có thể
tiêu diệt được” [4]. Các cán bộ, chiến sĩ Cứu
quốc quân không những hoàn thành tốt những
trách nhiệm cùng cả trung đội mà ngay cả khi
hoạt động độc lập ở các địa phương, họ cũng
luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ mà cấp trên
giao phó. Chỉ bằng việc trang bị cho lực
lượng vũ trang lý luận chính trị cách mạng
của Đảng để tạo niềm tin cách mạng và quyết
tâm tiêu diệt địch, kết hợp với sự mưu trí,
khéo léo, dũng cảm thì quân và dân ta mới có
thể chiến thắng được kẻ địch hơn hẳn ta về số
lượng, vũ khí và phương tiện chiến tranh như
thắng lợi của “tám tháng đấu tranh du kích
chống địch khủng bố” trên căn cứ địa Bắc
Sơn –Võ Nhai. Kết luận này đã được rút ra từ
cuộc đấu tranh du kích của quân và dân Bắc
Sơn – Võ Nhai và đó cũng chính là một bài
học kinh nghiệm cho Đảng ta trong công tác
xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị
trong các thời kỳ cách mạng sau.
“Tám tháng đấu tranh du kích chống địch
khủng bố” mặc dù còn một số hạn chế do
hoàn cảnh lịch sử nhưng đã để lại cho cách
mạng Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm vô
cùng quí giá trên nhiều phương diện công tác
như: công tác Đảng, công tác xây dựng lực
lượng chính trị, lực lượng vũ trang, công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng Những bài học
kinh nghiệm rút ra đó một mặt đã được Đảng
ta áp dụng triệt để, khéo léo vào việc lãnh đạo
toàn Đảng, toàn dân làm cuộc Cách mạng
tháng Tám 1945 thành công và tiến hành cuộc
kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) vĩ
đại thắng lợi; mặt khác nó là sự bổ sung vô
cùng quan trọng vào kho tàng lý luận quân
sự Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Dương Trung Quốc (2005), Việt Nam – những
sự kiện lịch sử (1919 - 1945), Nxb Giáo dục, Hà
Nội, tr.340.
[2]. Chu Văn Tấn, Từ Bắc Sơn đến Pắc Bó - một
chuyến đi lịch sử, Lưu trữ Tỉnh ủy tỉnh Thái
Nguyên, cặp 8, số 6.
[3]. Ba mươi lăm năm chiến đấu và xây dựng
(1980), Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.69, 70.
[4]. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt
Bắc (1975), Lịch sử Cứu quốc quân, Nxb Việt
Bắc, tr 165, tr.137.
[5]. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2000), Lịch
sử quân sự Việt Nam, tập 9, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tr.242.
[6]. Ban Nghiên cứu lịch sử Quân đội – Tổng
cục Chính trị (1977), Lịch sử Quân đội nhân
dân Việt Nam, tập 1, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội, tr.91.
SUMMARY
LESSONS LEARNED FROM EIGHT MONTHS OF GUERRILLA WARFARE
IN BAC SON - VO NHAI BASE (7/1941 - 2/1942)
Ngo Ngoc Linh*
College of Sciences - TNU
Under the leadership of the Party Central Committee and the North Committee, army and people
of Bac Son – Vo Nhai, in which the National Salvation Army was the core force, has conducted
eight months of guerrilla struggle against the terrorist enemy. It was a heroic and excitement
struggle in their revolutionary base. The victory of the struggle had left to the Communist Party
and Vietnam's revolution many extremely valuable lessons. Military and residents in Bac Son - Vo
Nhai had written their name in the heroic history of Vietnam.
Key words: Guerrilla struggle, eight months of guerrilla struggle, Bac Son – Vo Nhai.
*
Tel: 0983.851.565; Email: ngongoclinhvn@gmail.com
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33450_37271_79201210274912012_split_27_9257_2052256.pdf