Vitamin E có tác dụng ngăn cản quá trình oxy
hóa, thúc đẩy quá trình tổng hợp các hormone sinh
dục, làm gia tăng tốc độ sinh trưởng, giảm tỉ lệ chết,
chống thoái hóa cơ và tích mỡ trong gan.
Sự kết hợp giữa hai loại vitamin E và vitamin
C còn có tác dụng ngăn ngừa các bệnh về lão hóa,
đục nhân thể mắt, xơ vữa động mạch, bệnh đái tháo
đường, suy nhược thần kinh, ngăn ngừa các bệnh
về tim mạch và ung thư, tuy nhiên vài trò chính của
vitamin E và vitamin C vẫn là chống quá trình oxy
hóa. Do nhu cầu đối với từng loại vitamin ở từng
vật nuôi khác nhau nên liều lượng bổ sung cũng
khác nhau. Việc bổ sung quá thừa hay thiếu hàm
lượng vitamin C và vitamin E trong thức ăn đều có
ảnh hưởng không tốt đến quá trình sinh trưởng phát
triển và sinh sản của vật nuôi. Trong sản xuất thức
ăn cần lưu ý đến tính chất của từng nhóm vitamin,
nhu cầu của từng loài cá để cung cấp loại vitamin,
hàm lượng vitamin cho phù hợp với đối tượng nuôi.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu Vitamin C và Vitamin E ở một số loài cá nuôi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
186 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI
NHU CẦU VITAMIN C VÀ VITAMIN E Ở MỘT SỐ LOÀI CÁ NUÔI
VITAMIN C AND VITAMIN E REQUIREMENTS OF FARMED FISHES
Phạm Thị Anh1
Ngày nhận bài : 15/10/2012; Ngày phản biện thông qua: 27/5/2013; Ngày duyệt đăng: 10/12/2013
TÓM TẮT
Vitamin là những phân tử hữu cơ cần thiết ở lượng rất nhỏ cho quá trình sinh trưởng, phát triển, sinh sản và duy trì
các hoạt động của các loài động vật. Cơ thể của các loài cá không tự tổng hợp được các loại vitamin hoặc có thể chỉ tổng
hợp được với số lượng rất ít không đủ để cung cấp cho các hoạt động sinh trưởng, phát triển và duy trì các hoạt động thông
thường, do vậy chúng cần được bổ sung thêm các loại vitamin vào trong khẩu phần thức ăn. Đại đa số các loài cá có nhu
cầu khác nhau đối với từng loại vitamin, điều này phụ thuộc vào loài, kích cỡ của cá, khẩu phẩn thức ăn, các yếu tố môi
trường, mối tương quan giữa các yếu tố dinh dưỡng hoặc sức khỏe của cá. Các loại vitamin thiết yếu tham gia trong quá
trình chuyển hóa hay các phản ứng coenzime thì thường được bổ sung vào trong khẩu phần thức ăn. Vitamin C và vitamin
E được xem là các chất chống oxi hóa hữu hiệu và chúng cũng có tác dụng là giảm stress cho các loài cá. Vitamin C rất cần
thiết cho nhiều quá trình chuyển hóa như tổng hợp collagen (làm lành vết thương), bảo vệ các màng tế bào, tăng cường khả
năng hấp thu các kim loại và giải độc cho cơ thể. Thêm vào đó việc bổ sung vitamin C sẽ làm gia tăng tốc độ tăng trưởng,
ngăn ngừa việc vẹo xương sống và các mô sụn, giảm tỷ lệ chết ở cá, tăng khả năng sinh sản ở các con cá cái.
Từ khóa: vitamin E, vitamin C, vitamin E và C trên cá
ABSTRACT
Vitamins are organic substance that are essential for growth, health, reproduction and maintenance in animal, but
required in small amount. Since fi sh can not synthesize vitamins at all or can only synthesize in insuffi cient quantity for
normal development, growth and maintenance, they must be supplied in the diet. Most fi sh species require vitamin
supplementation which varies according to species, fi sh size, food rates, environmental factors, nutrient interrelationships
or health condition. Essential vitamins in some metabolic and corporal enzymatic reactions are commonly supplemented
in the diet. Vitamins E and C are considered as antioxidants owing to their ability to reduce the stress in fi sh. Vitamin C
is essential in many metabolic processes including collagen synthesis (tissue repair), protection of cell membranes, metal
absorption and detoxifi cation of xenobiotics. In addition, supplied vitamin C to increase growth rate, prevent from the
deformation of skeletal and cartilaginous tissues, reduced mortality rate and increased fertility of females.
Keywords: Vitamin E, vitamin C, vitamin E and C, fi sh and vitamin
1 ThS. Phạm Thị Anh: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
I. MỞ ĐẦU
Trong những nghiên cứu về nhu cầu dinh
dưỡng và thức ăn cho nuôi trồng thủy sản, vitamin
đã được đánh giá là cần thiết cho quá trình sinh
trưởng, phát triển, sinh sản cũng như duy trì các
hoạt động sống của các loài thủy sản. Có nhiều loại
vitamin và chúng khác nhau về bản chất hoá học lẫn
tác dụng sinh lý. Cũng như con người, cá cần được
cung cấp đầy đủ lượng vitamin cần thiết để có thể
phát triển khỏe mạnh. Vitamin là các hợp chất hữu
cơ, tuy không có giá trị về mặt cung cấp năng lượng
nhưng có vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn
đến biến dưỡng chất đạm, chất béo, chất bột, chất
đường, xơ và muối khoáng trong đời sống của cá.
Vitamin và amino acid được sử dụng trong thức
ăn cho cá với số lượng rất nhỏ, chi phí rất ít so với
thức ăn, nhưng không thể thiếu trong thành phần
thức ăn của các loài cá. Cá thiếu một số amino acid
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 187
và vitamin sẽ biểu hiện các dấu hiệu như kém ăn,
chậm lớn, dễ bị nhiễm bệnh, vết thương lâu lành
và tỷ lệ nhiễm trùng, tỷ lệ chết cao... Đặc biệt trong
ngành công nghiệp nuôi cá hiện nay, sản lượng trên
một đơn vị diện tích nuôi rất lớn thì việc quản lý sức
khỏe đàn cá càng trở lên cấp thiết khi ngày càng
xuất hiện nhiều loại bệnh. Việc bổ sung các loại
vitamin thiết yếu vào thức ăn để tăng cường sức
khỏe và tăng cường hệ thống miễn dịch cho cá là rất
cần thiết. Vitamin E và vitamin C là hai loại vitamin
thiết yếu cho sinh trưởng, phát triển và sinh sản của
chúng, việc cung cấp đầy đủ vitamin C và vitamin E
sẽ giúp cá nâng cao sức đề kháng, nhanh lành vết
thương, giảm stress và có khả năng chống chịu với
nhiều loại bệnh tật, tăng cường khả năng sinh sản,
giảm thiểu một số bệnh thần kinh ở cá, tăng cường
khả năng hấp thu thức ăn[23].
II. NỘI DUNG
1. Vitamin C và nhu cầu vitamin C của cá
Vitamin C thuộc nhóm vitamin tan trong nước,
không bền với nhiệt trong khi thức ăn chế biến cho
thủy sản thường phải thông qua quá trình gia nhiệt
và cho ăn trong môi trường nước, chức năng chính
của nhóm này là coenzyme trong quá trình trao đổi
chất của tế bào. Trong những nghiên cứu về thức
ăn cho nuôi trồng thủy sản, vitamin C được nghiên
cứu và xác định là thành phần rất quan trọng cho
động vật thủy sinh bởi vì trong khi các động vật khác
có khả năng tổng hợp vitamin C từ glucuronic acid
thì cá và giáp xác lại thiếu enzyme gulonolactone
oxidase cần thiết cho bước cuối cùng của quá trình
tổng hợp, chính vì thế mà vitamin C của động vật
thủy sinh được hấp thụ chủ yếu từ thức ăn [25].
Thiếu vitamin C trong thức ăn sẽ dẫn tới bệnh
lý như vẹo cột sống ở cá, giảm sức đề kháng, chính
vì thế mà ở giai đoạn ấu trùng và giai đoạn giống
cần bổ sung đầy đủ hàm lượng vitamin C cần thiết
để tăng cường sức đề kháng và tốc độ tăng trưởng
cho vật nuôi. Trong quá trình sản xuất thức ăn cho
động vật thủy sản, thức ăn thường được ép đùn
trong điều kiện độ ẩm và nhiệt độ lên đến 25% và
1500C. Ngoài ra sau khi ép, thức ăn thường được
sấy ở nhiệt độ 400C khoảng 10-12 giờ, điều này làm
cho lượng vitamin C trong thức ăn bị thất thoát rất
nhiều. Để giảm khả năng hòa tan trong nước của
vitamin C người ta sử dụng ethylcellulose để bao
lấy các hạt vitamin C (vitamin C dạng áo - dạng này
dễ chuyển hóa thành vitamin C tinh cho cá hấp thu
dễ dàng). Ngoài ra người ta có thể sử dụng dầu
để bao lấy hạt vitamin C hoặc một số chất màng
có chứa vitamin C. Lớp dầu sẽ ngăn thấm nước và
hoạt động của oxy trong suốt quá trình chế biến và
bảo quản, trong đó vitamin C dạng áo có hàm lượng
vitamin C hoạt tính cao từ 80-90% và có thể lưu trữ
trong vài tháng mà không bị oxy hóa. Năm 1987,
Soliman và ctv cho biết với L-ascorbyl 2-Sulfat,
sau khi chế biến, hàm lượng vitamin C chỉ mất đi từ
4-28%, dạng L-ascobyl 2-polyphosphate chỉ mất đi
5-17% [30]. Gần đây người ta có bổ sung thêm dạng
muối Na hay Mg cùng với sulphate hay phosphate
để tăng độ bền trong nước và chống oxy hóa. Hàm
lượng vitamin C mất đi khoảng 10-20% sau chế biến
và 30% sau bảo quản 20 tháng, tuy nhiên nhiều nghiên
cứu cho thấy vitamin C kết hợp với phosphate
thì cá dễ hấp thu và có tác dụng tốt [1].
Vitamin C có vai trò rất quan trọng trong quá
trình trao đổi chất tạo thành collagen, có nghĩa
là chúng tham gia vào quá trình sinh trưởng và
phát triển. Collagen chứa đựng 12% prolineva,
9% hydroxyproline, cả hai chất này có nhiệm vụ nối
các phần trong cơ và vitamin C có chức năng trợ
giúp men xúc tác quá trình hydroxyl hóa của proline
và lysine trong tổng hợp collagen. Vì thế khi thiếu
vitamin C, collagen mới được hình thành không
được hydroxyl hóa, không tạo được xoắn 3, độ bền
kém do đó dễ bị thương tổn, thành mạch cương dễ
vỡ gây xuất huyết ở cá [1].
Thức ăn có chứa hàm lượng vitamin C cao
được đề xuất là có lợi ích cho việc giảm sốc cho
cá [19]. Mức độ vitamin C bổ sung vào thức ăn cho
cá thì tùy vào loại vitamin C, loài cá, giai đoạn phát
triển, kích cỡ và tuổi của chúng. Nhu cầu tối đa
của vitamin C tốt cho sự tăng trưởng và phát triển
của đại đa số các loài cá dao động trong khoảng
10-122mg/kg. Phần lớn là trong phạm vi từ
10-50mg/kg thức ăn là mức thích hợp cho sự tăng
trường và phát triển bình thường của xương, nhưng
mức 400mg/kg cũng được xem là nhu cầu tối đa
giúp lành vết thương của cá hồi bạc Oncorhynchus
kitsch [16].
Năm 1978, Lim và Lovell khi nghiên cứu nhu
cầu của cá nheo đối với vitamin C đã kết luận rằng:
với khẩu phần thức ăn chứa 30mg vitamin C/kg
là hàm lượng đầy đủ và có lợi cho cơ thể và sự
tạo xương, với 60mg vitamin C/kg thức ăn được
xem là nhu cầu ngăn ngừa sự thiếu hụt vitamin C
và chữa lành vết thương [23]. Cá nheo 2-7g, nhu
cầu tối đa có lợi cho cơ thể là 50mg vitamin C/kg
thức ăn, trong khi đó đối với cá có khối lượng từ 14
đến 100g, nhu cầu 25mg vitamin C/kg là đủ [5]. Li
và Lovell (1985) cũng chứng minh rằng ở cá nheo,
nhu cầu vitamin C trong khẩu phần ăn sẽ giảm khi
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
188 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
kích cỡ cá tăng. Nhu cầu của cá có khối lượng 10-
150g là 30mg/kg, trong khi cá 3-19g là 60mg/kg. Đối
với cá basa việc bổ sung vitamin C vào thức ăn sẽ
nâng cao sức đề kháng cho cá nuôi, mức sử dụng
để bổ sung từ 0,2-0,5%. Thức ăn tự nhiên như phi-
êu sinh động vật và thực vật rất giàu vitamin C [23].
Khi cá nuôi bị thiếu vitamin C thường thể hiện
một số dấu hiệu như: các dạng dị tật xương sống,
tật ưỡn lưng và hiện tượng xuất huyết ở gốc vây, ở
xung quang miệng và mắt của cá, màu sắc cơ thể
chuyển sang màu đen tối. Cá bị bệnh cũng giảm
sinh trưởng và khả năng chống chịu sốc và sự xâm
nhập của tác nhân gây bệnh. Trên cá nuôi, đã có
rất nhiều các thông báo khác nhau về bệnh thiếu
vitamin ở cá: Dabrowksi và ctv (1988) đã phát hiện
bệnh ưỡn lưng của cá chép (Cyprinus carpio);
Coustans và CTV (1990) đã phát hiện bệnh ưỡn
lưng ở cá bơn (Scophthalmus maxinnus); Lin (1991)
đã phát hiện bệnh xuất huyết vây và mắt cá trắm cỏ
do thiếu vitamin C. Gần đây Isti Koesharyani và CTV
(2001) đã phát hiện bệnh thiếu vitamin C ở loài cá
mú chuột (Cromileptes altivelis) nuôi ở Indonesia,
sau một thời gian cho ăn thức ăn tổng hợp không có
bổ sung vitamin C, cá bị bệnh có sự biến dạng của cột
sống làm cá có dấu hiệu ưỡn lưng, bụng cá hóp lại,
bệnh này có thể gây chết rải rác [10], [8], [24], [22].
Đối với các loài cá nuôi, nhu cầu vitamin cũng
khác nhau tùy theo loài: cá rô phi xanh (Tilapia
aurea) cần 50mg loại có vỏ bao/kg thức ăn; cá
chép (Cyprinus capio) cần 45 mg loại có vỏ bao/kg
thức ăn; cá rô phi lai (Tilapia nilotica) cần 79 mg
loại Ascorbyl Monophosphate/kg thức ăn. Nhu cầu
vitamin C ở cá chẽm là 700mg/kg thức ăn khô,
cá thơm cần 300mg/kg, cá nheo cần 60mg/kg và
cá trống cần 60-75mg/kg, cá cam mức đòi hỏi là
122mg/kg thức ăn khô [3].
Bảng 1. Nhu cầu vitamin C của một số loài cá
Loài Nhu cầu (mg/kg) Tác giả
Cá trê Phi (Clarias gariepinus) 45 Eya (1996)
Cá trê trắn g (Clarias batrachus) 69 Misfra và ctv (1996)
Cá chẽm (Scophthalmus maximus) 20 Merchie và ctv (1996)
Cá chép (Cyprinus carpio) 45 Gouillou-Coustans (1998)
Cá bơn Nhật Bản (Paralichthys alivaceus) 60-100 Teschima và ctv (1993)
Cá rô phi lai (Tilapia nilotica ♀ x T.auea ♂) 79 Shiau và Jan (1992)
2. Vitamin E và nhu cầu vitamin E của cá
Vitamin E tự nhiên tồn tại dưới 8 dạng khác
nhau bao gồm các tocopherols và các tocotrienols.
Vitamin E có một số dạng khác nhau trong đó dạng
α-tocopherol là dạng có chứa hàm lượng vitamin E
hoạt tính cao nhất. Một trong những hoạt tính sinh
học của vitamin E là ngăn cản quá trình oxy hóa chất
béo cao phân tử không no (HUFA) của lipid trong
màng tế bào sinh học. Vitamin E có vai trò trong
quá trình tổng hợp các hormone sinh dục. Nhu cầu
vitamin E tăng khi hàm lượng PUFA trong thức ăn
cao. Nhu cầu vitamin E ở cá khoảng 30-100 mg/kg
và ở tôm là 100 mg/kg thức ăn.
Dấu hiệu khi thiếu vitamin E ở cá là giảm sinh
trưởng, tỉ lệ chết cao thoái hóa cơ, tích mỡ trong
ganĐối với cá chép hệ số thành thục cũng được
cải thiện khi thức ăn có bổ sung đầy đủ vitamin E.
Vitamin E rất dễ phân hủy qua quá trình chế biến và
bảo quản, đặc biệt là ở các nước vùng nhiệt đới. Vì
vậy dạng vitamin E thường được sử dụng bổ sung
vào thức ăn cho tôm cá là a - tocophenol acetate.
Hà m lượ ng vitamin E 30mg/kg trong khẩ u phầ n
thứ c ăn được cho là cầ n thiế t cho quá trình tăng
trưở ng và phá t triể n, đồng thời ngăn chặ n đượ c sự
thiế u hụ t dinh dưỡ ng cho cá hồi Bắc Mỹ, cá basa
và cá hồi đốm đen [9], [21], [26]. Watanabe và CTV
(1970) cho rằng mức vitamin E tối ưu đối với cá
chép là 100mg/kg [34].
Một nghiên cứu của Huang và ctv (2004) cho
rằng cá rô phi sẽ tăng trưởng tốt hơn khi được bổ
sung vitamin E vào trong khẩu phần ăn (>80 mg/kg).
Cũng tác giả này khi tiến hành nghiên cứu trên cá
hồi bạc lại có kết quả trái ngược rằng không có sự
khá c biệ t đá ng kể nà o về tố c độ tăng trưở ng giữ a
cá c lô thí nghiệ m. Tuy nhiên hà m lượ ng vitamin E
trong cơ thị t và trong gan chị u sự tá c độ ng từ nguồ n
vitamin E bổ sung từ thứ c ăn. Vớ i cá c lô thí nghiệm
có bổ sung >50mg/kg thì hà m lượ ng vitamin E trong
cơ thị t củ a cá gia tăng đá ng kể [20]. Paul và CTV
(2004) nghiên cứ u bổ sung vitamin E trên cá mrigal,
kế t quả nghiên cứ u cho thấ y vớ i 99mg/kg thứ c ăn
khô, cá sẽ đạ t tố c độ tăng trưở ng cao nhấ t [28].
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 189
Stephan và CTV (1993) khi tiến hành thử
nghiệm bổ sung vitamin E (0, 40 và 300mg/kg) và
dầu cá trong thức ăn cho cá chẽm (có khối lượng
ban đầu là 35g). Kết quả thử nghiệm cho thấy, hàm
lượng vitamin E trong thức ăn không có tác động
có ý nghĩa thống kê đến tốc độ tăng trưởng của cá.
Hàm lượng vitamin E trong gan và cơ cá bị giảm
ở những nghiệm thức thí nghiệm có bổ sung dầu
cá tự nhiên nhưng không bổ sung vitamin E, kết
quả này cũng được ghi nhận trong nghiên cứu của
Stephan và CTV (1995) khi nghiên cứu trên cá bơn
Scophthalmus maximus [31], [32].
Bảng 2. Nhu cầu vitamin E trên một số loài cá
Loài Nhu cầu Vitamin E(mg/kg thức ăn khô) Tác giả
Cá rô phi (Oreochromis niloticus, Linnaeus, 1758) >80 Huang và ctv (2004)
Cá mrigal ( Cirrhinus mri gala, Hamilton, 1822) 99 Paul & ctv (2004)
Cá chép (Cyprinus carpio, Linnaeus, 1758) 100 Halver J.E (1989)
Cá hồi Đại Tây Dương (Salm o salar Linnaeus, 1758) 35 Halver J.E (1989)
Cá nheo (Parasilurus asotus L, Linnaeus, 1758) 50 Halver J.E (1989)
Cá chình (Anguilla marmorata Quoy et Gaimrd, 1824) 200 Halver J.E (1989)
Cá cam (Seriola dumerili Risso, 1810) 119 Halver J.E (1989)
3. Mối quan hệ giữa Vitamin E và vitamin C trong
nuôi trồng thủy sản
Vitamin E và vitamin C đóng vai trò rất quan
trọng trong quá trình sinh học của cơ thể như ngăn
ngừa các bệnh về lão hóa, đục nhân thể mắt, xơ
vữa động mạch, bệnh đái tháo đường, suy nhược
thần kinh, ngăn ngừa các bệnh về tim mạch và
ung thư, tuy nhiên vài trò chính của vitamin E và
vitamin C vẫn là chống quá trình oxy hóa [12]. Mối
liên hệ giữa hai loại vitamin này cũng đã được
nghiên cứu trên các loài cá như: cá hồi vân
Oncorhynchus mykiss, cá hồi Đại Tây Dương
Salmo salar và cá tầm Acipenser fulvescens [33],
[18], [27]. Hamre và ctv (1997) chỉ ra rằng khẩu
phần thức ăn thiếu vitamin C sẽ làm giảm đáng kể
hàm lượng vitamin E có trong gan, đồng thời các
tác giả này cũng cho thấy có sự tương tác lẫn nhau
giữa hai loại vitamin này [18].
Dabrowski và cộ ng sự (2003) đã nghiên cứ u
về ả nh hưở ng củ a vitamin E và vitamin C (có bổ
sung cả hai loại vitamin: +E +C; chỉ bổ sung vitamin
E: +E-C; chỉ bổ sung vitamin C: -E+C và không bổ
sung cả hai loại vitamin C và E: –E-C) đế n tố c độ
tăng trưở ng, thà nh phầ n lipid và triệ u chứ ng bệ nh
lý củ a cá vược vàng (Perca fl avenscens). Kế t quả
cho thấ y lô thí nghiệ m có bổ sung +C+E cá có tố c
độ tăng trưở ng cao nhấ t, lượ ng thứ c ăn sử dụ ng
và hiệ u suấ t thứ c ăn cao hơn so vớ i nhữ ng nghiệ m
thứ c thứ c ăn không bổ sung vitamin C. Hàm lượng
vitamin C trong cơ thể cá cao hơn ở những lô thí
nghiệm có bổ sung hàm lượng vitamin C so với
các lô thí nghiệm không bổ sung hoặc bổ sung ít.
Hà m lượ ng vitamin E có sự gia tăng ở nhữ ng lô
thí nghiệ m có bổ sung vitamin C cao và thấp ở lô
không bổ sung hoặ c bổ sung í t vitamin C, điề u nà y
cho thấ y sự tá c độ ng củ a vitamin C tớ i hà m lượ ng
vitamin E trong thứ c ăn. Nhữ ng nghiệ m thứ c không
bổ sung vitamin C (-C-E; -C+E) thì cá thườ ng mắ c
nhiề u bệ nh khá c nhau như: chứ ng vẹ o xương số ng,
bệ nh đụ c nhân mắ t, chứ ng chá n ăn và xuấ t huyế t.
Số lượ ng cá chế t tí ch lũ y trong lô thí nghiệ m –C-E
là cao nhấ t [11].
Năm 2008, Aksoy A.Y và ctv đã kết luận rằng
vitamin E và vitamin C đều có tác động rõ rệt lên tốc
độ tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và tỷ lệ
sống của ấu trùng cá basa. Tuy nhiên sự tương tác
qua lại giữa hai loại vitamin này không có ý nghĩa
đối với tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống cũng như hiệu
quả sử dụng thức ăn của ấu trùng cá basa [1].
Sealey (1994) khi nghiên cứu trên cá vược sọc
lai kết luận rằng với việc bổ sung các mức vitamin
C tối thiểu 25 mg/kg có thể cải thiện lượng thức
ăn tiêu thụ và đồng thời làm gia tăng tốc độ tăng
trưởng cũng như làm giảm tỷ lệ chết đối với những
lô thí nghiệm không được bổ sung vitamin E. Đồng
thời với mức 30mg/kg vitamin E trong khẩu phần
thức ăn có thể làm giảm tỷ lệ chết đối với những lô
thí nghiệm không bổ sung vitamin C. Đối với mức
300mg vitamin E/kg thức ăn là mức cần thiết để gia
tăng tốc độ tăng trưởng ở những nghiệm thức không
bổ sung vitamin C, tuy nhiên ở mức này không thể
cải thiện được lượng thức ăn tiêu thụ [29].
Gatlin và ctv (1986) khi nghiên cứu trên cá trê
sông đã khẳng định rằng, thức ăn không bổ sung
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
190 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
vitamin C thì cá chậm lớn, khối lượng cá có thể bị
giảm sút đồng thời lượng thức ăn tiêu thụ cũng ít đi
bất chấp việc có bổ sung vitamin E hay không. Đối
với những nghiệm thức có bổ sung vitamin C, không
quan sát thấy sự thiếu hụt đối với vitamin E trên cá
mặc dù không bổ sung vitamin E [14]. Frischknecht
và ctv (1994) đã chứng minh được khả năng của
vitamin C trong thức ăn có thể giúp cá hồi vân
(Oncorhynchus mykiss) tránh được bệnh thiếu máu
cũng như giảm thiểu tỷ lệ chết [13].
Mocia và ctv (1984) khi tiến hành nghiên cứu
trên cá hồi cũng có những kết luận tương tự, vitamin
E và vitamin C có sự liên quan chặt chẽ đến sự gia
tăng về tốc độ tăng trưởng của cá, giảm tỷ lệ chết và
hàm lượng vitamin tổng số của cơ thể [26]. Huang
và ctv (2004) cũng cho rằng hàm lượng vitamin E
tối ưu cho cá rô phi lai tăng trưởng và phát triển
là 62,5mg/kg, tốc độ tăng trưởng của cá có sự sai
khác có ý nghĩa thống kê giữa nghiệm thức không
bổ sung vitamin E và nghiệm thức có bổ sung hàm
lượng vitamin E cao (P<0,05) [20].
Bên cạnh đó việc xuất hiện các bệnh lý của
cơ thể là kết quả của việc thiếu hụt hai loại vitamin
này khi tiến hành nghiên cứu trên cá hồi đốm đen
[13], [33]. Trong nghiên cứu của Frischknecht và ctv
(1994), việc gia tăng đáng kể tỷ lệ chết, bệnh teo cơ
và xuất huyết được quan sát ở những con cá khi
cho ăn loại thức ăn không có hai loại vitamin trên
sau 8-12 tuần. Cá được cho ăn thức ăn thiếu hụt
vitamin C có tốc độ sinh trưởng chậm, xuất huyết
dưới da, các biến đổi về mang, sự biến dạng cột
sống [13].
Moreau và ctv (1999) đã chỉ ra rằng hàm lượng
vitamin C bổ sung vào thức ăn 1250mg/kg thức ăn
khô làm gia tăng hàm lượng vitamin E trong gan cá
lên 46% so với hàm lượng vitamin E đã được bổ
sung vào. Tuy nhiên hàm lượng vitamin C trong gan
cá lại giảm đi đáng kể. Tác giả cho rằng việc suy
giảm này có thể do tác động của quá trình oxy hóa
hàm lượng vitamin C cao được bổ sung trong khẩu
phần thức ăn [27].
Trong quá trình nuôi cá công nghiệp, việc thiếu
hụt một trong các loại vitamin trong thức ăn đều gây
ra những hậu quả khá nghiệm trọng. Thức ăn không
có vitamin C thường gặp nhất là chứng dị hình
xương sống, cá không muốn ăn, sinh trưởng chậm
hơn so với các cá có bổ sung vitamin C, xuất huyết
nội và ngoại, mòn vây và giảm hồng cầu. Ngoài ra,
nếu thiếu hụt vitamin E, cá sẽ giảm khả năng sinh
sản, động thái bơi trở nên bất thường, viêm gan và
bong bóng khí, cá sẽ rất nhạy cảm với stress, ngay
cả những stress rất nhẹ [2].
Vitamin C và vitamin E tham gia vào hầu hết các
quá trình sinh học của cơ thể người như ngăn ngừa
các bệnh về lão hóa, đục nhân thể mắt, xơ vữa
động mạch, bệnh đái tháo đường, suy nhược thần
kinh, ngăn ngừa các bệnh về tim mạch và ung thư,
tuy nhiên vai trò chính của vitamin E và vitamin C
vẫn là chống quá trình oxy hóa màng tế bào.
Tappel (1968) cho rằng việc thiếu vitamin C có thể
làm giảm một lượng vitamin E hoạt động trong cơ
thể và đại đa số các nghiên cứu của các tác giả
khác khác cũng đều có những kết luận tương tự [6].
Sự tương tác giữa hai loại vitamin này cũng thấy
xuất hiện trên màng nhầy [5].
Mối liên hệ giữa hai loại vitamin này cũng
đã được nghiên cứu trên các loà i cá như: cá hồi
vân Oncorhynchus mykiss, cá hồi Đại Tây Dương
Salmo salar và cá tầm Acipenser fulvescens [33],
[18], [27]. Hamre và ctv (1997) chỉ ra rằng khẩu
phần thức ăn thiếu vitamin C sẽ làm giảm đáng kể
hàm lượng vitamin E có trong gan [18].
Kết quả nghiên cứu của Stephan và ctv (1995);
Gatta và ctv (2000) khi nghiên cứu trên cá bơn
(Scophthalmus maximus) và cá chẽm giống (Lates
calcarifer) [32], [15]. Hơn nữa Watanabe (1993),
Gatta và ctv (2000) cũng đã chỉ ra rằng vitamin E
không tác động đến thành phần sinh hóa trong cơ
thể của cá hồi Đại Tây Dương, điều này cũng được
ghi nhận trong nghiên cứu này khi tiến hành phân
tích thành phần dinh dưỡng của cá sau khi kết thúc
thí nghiệm.
Bell và ctv (1998) cũng kết luận rằng không có
bất cứ tác động nào của hàm lượng vitamin E đến
thành phần sinh hóa trong thịt cá hồi Đại Tây Dương
phi lê khi bổ sung vitamin E trong khẩu phần thức
ăn, tuy nhiên nó có thể làm biến đổi màu sắc của thịt
cá, cho nên việc bổ sung hàm lượng vitamin E trong
khẩu phần thức ăn đối với mỗi loài cá khác nhau
thì khác nhau. White và ctv (1991), Hamre và ctv
(1997) đã công bố hàm lượng vitamin C trong gan
cá hồi Đại Tây Dương bị giảm đi đáng kể khi cho ăn
thức ăn có bổ sung vitamin với hàm lượng vitamin
E thấp. Hầu như trong tất cả các nghiên cứu việc bổ
sung hàm lượng vitamin E trong thức ăn đều thấp
hơn so với nhu cầu thực tế của cá [35], [18].
Quá trình oxy hóa lipid có mối liên hệ mật
thiết với hàm lượng vitamin E được bổ sung vào
trong thức ăn, kết quả này được ghi nhận trong
nghiên cứu của Frigg và ctv (1990) trên cá hồi,
đồng thời cũng được ghi nhận ở một số loài cá khác
như cá hồi Đại Tây Dương Salmon salar, cá bơn
Scophthalmus maximus [32]. Gatta và ctv (2000) đã
chứng minh được rằng hàm lượng vitamin E cao
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 191
trong thức ăn (cao hơn so với nhu cầu của cá) sẽ
làm giảm đáng kể quá trình oxy hóa lipid ở cá hồi
và cá bơn giống cũng như làm giảm quá trình oxy
hóa trong cơ thịt cá hồi Đại Tây Dương trong quá
trình bảo quản đông lạnh, cá chẽm cũng cho kết quả
nghiên cứu tương tự [15].
Ruff (2003) cho rằng hàm lượng vitamin E trong
cơ thịt cá chịu ảnh hưởng từ hàm lượng vitamin
E có trong thức ăn và nó không chịu sự tác động
của hàm lượng vitamin C. Trong khi đó, hàm lượng
vitamin C tập trung trong cơ thịt cao lại chịu sự tác
động của các mức vitamin E có trong thức ăn, đặc
biệt khi hàm lượng vitamin E được bổ sung cao [28].
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Các nghiên cứu trên đều chỉ ra rằng, việc bổ
sung vitamin C và vitamin E vào thức ăn cho các đối
tượng nuôi thủy sản là rất cần thiết.
Vitamin C có tác dụng thúc đẩy quá trình sinh
trưởng và phát triển, phòng và tránh được một số
bệnh, gia tăng sức đề kháng, chống stress, tăng
tỷ lệ sống cho con non và giảm tỷ lệ chết cho cơ thể
vật nuôi.
Vitamin E có tác dụng ngăn cản quá trình oxy
hóa, thúc đẩy quá trình tổng hợp các hormone sinh
dục, làm gia tăng tốc độ sinh trưởng, giảm tỉ lệ chết,
chống thoái hóa cơ và tích mỡ trong gan.
Sự kết hợp giữa hai loại vitamin E và vitamin
C còn có tác dụng ngăn ngừa các bệnh về lão hóa,
đục nhân thể mắt, xơ vữa động mạch, bệnh đái tháo
đường, suy nhược thần kinh, ngăn ngừa các bệnh
về tim mạch và ung thư, tuy nhiên vài trò chính của
vitamin E và vitamin C vẫn là chống quá trình oxy
hóa. Do nhu cầu đối với từng loại vitamin ở từng
vật nuôi khác nhau nên liều lượng bổ sung cũng
khác nhau. Việc bổ sung quá thừa hay thiếu hàm
lượng vitamin C và vitamin E trong thức ăn đều có
ảnh hưởng không tốt đến quá trình sinh trưởng phát
triển và sinh sản của vật nuôi. Trong sản xuất thức
ăn cần lưu ý đến tính chất của từng nhóm vitamin,
nhu cầu của từng loài cá để cung cấp loại vitamin,
hàm lượng vitamin cho phù hợp với đối tượng nuôi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Trần Thị Thanh Hiền, 2004. Ảnh hưởng của việc bổ sung một số nguồn lipid và vitamin C vào thức ăn lên chất lượng tôm mẹ
và ấu trùng tôm càng xanh Macrobranchium rosenbergii. Luận án Tiến sỹ Khoa học, Trường Đại học Nha Trang.
2. Đỗ Thị Hòa, Bùi Quang Tề, Nguyễn Hữu Dũng, Nguyễn Thị Muội, 2004. Giáo trình Bệnh học thủy sản, Trường Đại học
Nha Trang.
3. Lê Anh Tuấn, 2008. Nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng và thử nghiệm sản xuất thức ăn viên cho cá mú chấm đen (Epinephelus
malabaricus) (Bloch and Schneider, 1801). Luận văn Tiến sỹ, Trường Đại học Nha Trang.
Tiếng Anh
4. Aksoy M.Y., Lim, C., Li, M.H., Klesius. P.H, 2008. Interaction between dietary levels of Vitamin C and Vitamin E on growth
and immune responses in channel catfi sh Ictalurus punctatus (Rafi nesque). Aquaculture Research 2008, 39: 1198-1209.
5. Andrew J.W and Murai T., 1975. Studies on Vitamin C requirements of channel catfi sh. Journal of Nutrition 105: 557-561.
6. Buettner, G. R., 1993. The pecking order of free radicals and antioxidants: lipid peroxidation, a-tocopherol and ascorbates.
Archives of Biochemistry and Biophysics 300: 535-543.
7. Chan AC, 1993. Partners in defense, vitamin E and vitamin C. Canadian Journal of Physiology and Pharmacology 71:
725-731.
8. Coustans, M.F., Guillaume, J., Metailler, R., Dugornay, O. and Messager, J.L, 1990. Effect of an ascorbic acid defi ciency on
tyrosinemia and renal granulomatous disease in turbot (Scophthalmus maximus) interaction with a slight polyhypovitaminosis.
Comparative Biochemistry and Physiology 97A (2): 145-152.
9. Cowey, C. B., Adron, J. W., Walton, M. J., Murray, J., Youngson, A. & Knox, D., 1981. Tissue distribution, uptake, and
requirement for a-tocopherol of rainbow trout (Salmo gairdneri) fed diets with a minimal content of unsaturated fatty acids.
J. Nutr. W.: 1556-1567.
10. Dabrowski K., Hinterleitner S., Sturmbauer C., El-Fiky N. and Wieser W, 1988. Do carp larvae require vitamin C. Aquaculture
72: 295-306.
11. Dabrowski K., Lee.K.J., 2003. Interaction between vitamins C and E affects their tissue concentrations, growth, lipid
oxidation, and defi ciency symptoms in yellow perch (Perca fl avescens). British Journal of Nutrition 89: 589-596.
12. Frei B, Stocker R, England L & Ames BN, 1990. Ascorbate: the most effective antioxidant in human blood plasma. Advances
in Experimental Medicine and Biology 264: 155–163.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
192 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
13. Frischknecht, R.T., Wahli, W. & Meier, W., 1994. Comparison of pathological changes due to deciency of vitamin C, vitamin
E and combinations of vitamins C and E in rainbow trout, Oncorhynchus mykiss (Walbaum). J. Fish Dis., 17: 31-45.
14. Gatlin, D. M., III, Poe, W. E. & Wilson, R. P., 1986. Effects of stocking density and vitamin C status on vitamin E-ad equate
and vitamin E-defi cient fi ngerling channel catfi sh. Aquaculture 56: 187-195.
15. Gatta, P.P., Pirini, M., Testi, S., Vignola, G., Monetti, P.G., 2000. The infl uence of different levels of dietary vitamin E on sea
bass, Dicentrarchus labrax fl esh qua lity. Aquac. Nutr. 6: 47-52.
16. Halver J.E., Ashley L.M and Smith R.R, 1969, Ascorbic acid requirement of coho salmon and rainbow trout. American
Fisheries Society 98: 762-771.
17. Halver J.E., 1989. Fish Nutrition. San Diego, CA (USA), Acade mic Press, 2. ed., 798 p.
18. Hamre K, Waagbo R, Berge RK & Lie O (1997) Vitamin C and E interact in juvenile Atlantic salmo n. Free Radical Biology
and Medicine 22: 137–149.
19. Hardie L.J., Fletcher T.C and Secombes C.J.,1991. The effect of dietary vitamin C on the immine response of the Atlantic
salm on (Salmo salar), Aquaculture 95: 201-214
20. Huang C.H., Huang S.L, 2004. Effect of dietary vitamin E on growth, tissue lipid peroxidation, and liver glutathione level of
juvenile hybrid tilapia, Oreochromis niloticus×O. aureus, fed oxidized oil. Aquculture 273: 381-389.
21. Hung, S. S. O., Cho, C. Y & Slinger, S. J., 1981 Effect of oxidized fi sh oil, DL-a-tocopheryl acetate and ethoxyquin
supplementation on the vitamin E nutrition of rainbow trout (Salmo gairdneri) fed practical diets. J. Nutr. Ill: 648-657.
22. Isti Koeshryani, Des Roza, ketut Mahardika, Fris Jonny, Zafran and Kei Yuasa, 2001. Marine fi sh and Crustacean Diseases
in Indonesia.
23. Li M.H and Lovell R.T., 1985. Elevated lev els of dietary ascorbic acid increase immune esponse in channel catfi sh. Journal
of nutrition 115: 123-131.
24. Lin, D., 1991. Nutrient requ irement of grass carp, Ctenopharyngodon idella: in Wilson R.P. (Ed.). Handbook of Nutrient
requirement of Finfi sh. CRC Press, London: 89-96.
25. Merchie,G., Lavens, P., Sorgeloos, p., 1997. Optimization of dietary vitamin C in fi sh a nd crustacean larvae: a review
Aquaculture, 155: 165-181.
26. Moccia R.D., S.S.O. Hung, S.J. Slinger and H.W. Ferguson, 1984. Effect of oxidized fi sh oil, vitamin E and ethoxyq uin on the
histopathology and haematology of rainbow trout, Salmo gairdneri Richardson. J. Fish dis., 7: 269 - 282.
27. Moreau R, Dabrowski K, Czesny S & Cihla F, 1999 Vitamin C vitamin E interaction in juvenile lake sturgeon (Acipenser
fulvescens), a fi sh able to synthesize ascorbic acid. Journal of Applied Ichthyology 15: 250–257.
28. Pau B.N., Sarka S., Mohanty S.N (2004). Dietary vitamin E requirement of mrigal, Cirrhinus mrigala fry. Aq uaculture
242, pp 529-536.
29. Ruff, N., FitzGerald, R.D., Cross, T.F., Hamre, K. and Kerry, J.P. 2003. The effect of dietary vitamin E and C level on
market-size turbot (Scophthalmus maximus) fi llet q uality. Aquaculture Nutrition, 9: 91-103.
30. Sealey, W.M., Gatlin, D.M.1994. Dietary Vitamin C Requirement of Hybrid Striped Bass Morone chrysops♀× M. saxatilis
♂. Journal of the World Aquaculture Society. Volume 30 Inssue: 297-301.
31. Soliman A .K., Jauncy K. and Roberts R.J.,1987. Stability of L-ascorbic acid (vitamin C) and its forms in fi sh feeds during
processing, storage and leac hing, Aquaculture 60: 73-83.
32. Stephan, G., Messager, J.L., Lamour, L. and Baudin Laurencin, F., 1993. Interactions between dietary alpha-tocopherol and
oxidized oil on sea bass Dicentrarchus labrax. In Fish Nutrition in Practice (INRA, ed.) (Les Colloques, No.61): 215-218.
33. Ste´phan, G., Guillaume, J., Lamour, F., 1995. Lipid peroxidation in turbot (Scophthalmus maximus) tissue: effect of dietary
vitami n E and dietary n-6 or n-3 polyunsaturated fatty acid. Aquaculture 130, 251–268.
34. Wahli T, Verlhac V, Gabaudan J, Schuep W & Meler W, 1998. Infl uence of combined vitamins C and E on non-specifi c
immunity and disease resistance of rainbow tr out, Oncorhynchus mykiss (Walbaum). Journal of Fish Diseases 21: 127-137.
35. Watanabe, T., Takashima, E, Ogino, C. & Hibiya, T., 1970 Effects of a-tocopherol defi ciency on carp. Bull. Jpn. Soc. Sci.
Fish. 36: 623-630.
36. White, A., Fletcher, T. C., Secombes, C. J. & Houlihan, D. F., 1991 The effect of different dietary levels of vitamin C and
E and their tissue levels in Atlantic salmon, Salmo salar L. In: Fish Nutrition in Practice (Kaushik, S. J. & Lu quet, P., eds.):
203–207. Les Colloques, Paris, France.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhu_cau_vitamin_c_va_vitamin_e_o_mot_so_loai_ca_nuoi.pdf